Lời nói đầu 1
phần i: cơ sở lý luận chung về vốn trong kinh doanh 3
I. bản chất và các hình thức thể hiện của vốn 3
1 Khái niệm 3
2. Phân loại vốn 5
II. Vai trò của vốn kinh doanh 12
III. các chỉ tiêu đánh hiệu quả sử dụng vốn 14
1 Quan điểm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn: 14
2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn: 18
3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn: 20
Phần II: tình hình sử dụng vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn 23
iii. tình hình sử dụng vốn tại nhno&ptnt hà nội. 23
-Ngoại tệ 31
Phần III: các biện pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn 33
I. Nguyên tắc sử dụng vốn hiệu quả: 33
2 Nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn lưu động: 35
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp: 37
4. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định: 37
5. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động: 39
Kết luận Error! Bookmark not defined.
Mục lục 41
41 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại công ty Tây Hồ - Bộ Quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ền đề cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Vốn là yếu tố quan trọng quyết định đến năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và xác lập vị thế của doanh nghiệp trên thương trường. Điều này càng thể hiện rõ trong nền kinh tế thị trường hiện nay với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, đầu tư hiện đại hoá công nghệ ... tất cả những yếu tố này muốn đạt được thì đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đủ lớn.
Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh một cách thường xuyên liên tục, doanh nghiệp có thể chớp dược thời cơ và có lợi thế trong cạnh tranh.
Vốn cũng là yếu tố quyết định đến việc mở rộng phạm vi hoạt động của doanh nghiệp. Để có thể tiến hành tái sản xuất mở rộng thì sau một chu kỳ kinh doanh, vốn của doanh nghiệp phải sinh lời tức là hoạt động kinh doanh phải có lãi đảm bảo vốn của doanh nghiệp được bảo toàn và phát triển. Đó là cơ sở để doanh nghiệp tiếp tục đầu tư mở rộng phạm vi sản xuất, thâm nhập vào thị trường tiềm năng từ đó tăng khối lượng tiêu thụ, nâng cao uy tín của mình trên thương trường.Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách nhà nước và qua nguồn tín dụng với lãi suất ưu đãi của ngân hàng. Hơn nữa các doanh nghiệp đều sản xuất theo chỉ tiêu pháp lệnh bởi vậy vốn không được coi là vấn đề cấp bách, điều này đã làm thủ tiêu tính chủ động và sáng tạo của doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước với nhiều thành phần kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước chỉ còn là một bộ phận song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác. Để duy trì hoạt động của mình, tất yếu các doanh nghiệp phải năng động nắm bắt nhu cầu thị trường, đầu tư đổi mới máy móc thiết bị cải tiến quy trình công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm của mình. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn. Nhu cầu về vốn đã trở thành động lực và là yêu cầu cấp bách đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định cơ cấu đầu tư, đảm bảo sự sống còn cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên, có đủ lượng vốn kinh doanh nhưng vấn đề sử dụng sao cho có hiệu quả vẫn đang còn là vấn đề mà tất cả các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp hết sức quan tâm. Sau đây ta sẽ đi sâu nghiên cứu những vấn đề cơ bản về hiệu quả hoạt động sử dụng vốn trong các doanh nghiệp.
III. các chỉ tiêu đánh hiệu quả sử dụng vốn
1 Quan điểm và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn:
1.1 Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn:
Để đánh giá trình độ quản lý, điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp, người ta sử dụng thước đo là hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. Hiệu quả sản xuất kinh doanh được đánh giá trên hai giác độ: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Trong phạm vi quản lý doanh nghiệp, người ta chủ yếu 1quan tâm đến hiệu quả kinh tế. Đây là một phạm trù phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất với chi phí hợp lý nhất. Do vậy, các nguồn lực kinh tế đặc biệt là nguồn vốn của doanh nghiệp có tác động rất lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Từ đó, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là yêu cầu mang tính thường xuyên và bắt buộc đối với doanh nghiệp. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp ta thấy được hiệu quả của hoạt động kinh doanh nói chung và trình độ quản lý sử dụng vốn nói riêng.
Hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ khai thác, sử dụng và quản lý nguồn vốn làm cho đồng vốn sinh lời tối đa nhằm mục tiêu cuối cùng của doanh nghiệp là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu.
Hiệu quả sử dụng vốn được lượng hóa thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hiệu suất sử dụng vốn cố định, vốn lưu động, sức sinh lời của vốn, tốc độ luân chuyển vốn ... Nó phản ánh quan hệ giữa đầu ra và đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh thông qua thước đo tiền tệ hay cụ thể là mối tương quan giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Kết quả thu được càng cao so với chi phí vốn bỏ ra thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp phát triển vững mạnh.
Ngoài ra, doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn để nhanh chóng có biện pháp khắc phục những mặt hạn chế và phát huy những ưu điểm của doanh nghiệp trong quản lý và sử dụng vốn. Thông qua phân tích hiệu quả sử dụng vốn sẽ cung cấp hình ảnh về việc sử dụng vốn tại doanh nghiệp, những ưu điểm và hạn chế trong công tác tài chính tại doanh nghiệp.Có hai phương pháp để phân tích tài chính cũng như phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp, đó là phương pháp so sánh và phương pháp phân tích tỷ lệ.
Phương pháp so sánh: Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện so sánh được của các chỉ tiêu tài chính (thống nhất về không gian, thời gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán...) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh được chọn là gốc về thời gian hoặc không gian, kỳ phân tích được chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch, giá trị so sánh có thể được lựa chọn bằng số tuyệt đối, số tương đối hoặc số bình quân. Nội dung so sánh có thể là so sánh giữa số thực hiện năm nay và năm trước, so sánh giữa số thực hiện và số kế hoạch, so sánh số thực hiện của doanh nghiệp với số liệu trung bình của ngành...
Phương pháp tỷ lệ: trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về cơ cấu vốn và nguồn vốn, nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động kinh doanh, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lời. Mỗi nhóm tỷ lệ lại bao gồm nhiều tỷ lệ phản ánh riêng lẻ, từng bộ phận của hoạt động tài chính, trong mỗi trường hợp khác nhau, tuỳ theo giác độ phân tích, người phân tích lựa chọn những nhóm chỉ tiêu khác nhau. Để phục vụ cho việc phân tích hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp người ta thường dùng một số các chỉ tiêu mà ta sẽ trình bày cụ thể trong phần sau.
1.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn:
1.2.1 Chỉ tiêu về vốn cố định:
Như trong phần trước ta đã trình bày, tài sản cố định là hình thái biểu hiện vật chất của vốn cố định. Vì vậy, để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn cố định thì cần phải đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định qua các chỉ tiêu sau:
Hiệu suất sử dụng
Tài sản cố định
=
Doanh thu thuần
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm.
Suất hao phí
tài sản cố định
=
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này phản ánh để tạo ra một đồng doanh thu thuần thì phải bỏ ra bao nhiêu đồng nguyên giá tài sản cố định. Hệ số này càng nhỏ càng tốt.
Sức sinh lời của
tài sản cố định
=
Lợi nhuận
Nguyên giá bình quân TSCĐ
Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng tài sản cố định là có hiệu quả. Bên cạnh đó, người ta còn sử dụng hai chỉ tiêu: hệ số đổi mới tài sản cố định và hệ số loại bỏ tài sản cố định để xem xét tình hình đổi mới nâng cao năng lực sản xuất của tài sản cố định.
Hệ số đổi mới
tài sản cố định
=
Giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ
Giá trị TSCĐ có ở cuối kỳ
Hệ số loại bỏ
Tài sản cố định
=
Giá trị TSCĐ lạc hậu, cũ giảm trong kỳ
Giá trị TSCĐ có ở đầu kỳ
Hai chỉ tiêu này không chỉ phản ánh sự tăng giảm thuần tuý về tài sản cố định mà còn phản ánh trình độ tiến bộ khoa học kỹ thuât, tình hình đổi mới trang thiết bị của doanh nghiệp.
Để trực tiếp phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, người ta sử dụng hai chỉ tiêu sau:
-Hiệu suất sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ và số vốn cố định bình quân trong kỳ.
Hiệu suất sử dụng
vốn cố định
=
Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Trong công thức trên vốn cố định bình quân trong kỳ là bình quân giá trị còn lại của tài sản cố định đầu kỳ và cuối kỳ. Hiệu suất sử dụng vốn lưu động phản ánh một đồng vốn cố định trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá trong kỳ.Đối với doanh nghiệp chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
-Hiệu quả sử dụng vốn cố định: được đo bằng tỷ lệ giữa lợi nhuận ròng trong kỳ và lượng vốn cố định bình quân trong kỳ.
Hiệu quả sử dụng
vốn cố định
=
Lợi nhuận
Vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh bình quân một đồng vốn cố định tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
1.2.2 Chỉ tiêu về vốn lưu động
-Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động: cho biết để tạo ra một đồng doanh thu thuần cần bao nhiêu đồng vốn lưu động. Nó được đo bằng tỷ lệ giưa vốn lưu động bình quân trong kỳ và tổng doanh thu thuần.
Hệ số đảm nhiệm
vốn lưu động
=
VLĐ bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần
-Sức sinh lợi của vốn lưu động: cho biết một đồng vốn lưu động bình quân trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Sức sinh lợi của
vốn lưu động
=
Lợi nhuận
VLĐ bình quân trong kỳ
Trong quá trình sản xuất kinh doanh vốn lưu động vận động không ngừng qua các hình thái khác nhau. Vì vậy ngoài các chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng các chỉ tiêu phản ánh tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Các chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động tại doanh nghiệp. Đó là:
- Số vòng quay của vốn lưu động: còn gọi là hệ số luân chuyển vốn lưu động, cho biết vốn lưu động quay được mấy vòng trong kỳ.
Số vòng quay của
vốn lưu động
=
Doanh thu thuần
VLĐ bình quân trong kỳ
- Thời gian của một vòng luân chuyển: cho biết số ngày cần thiết để vốn lưu động quay được một vòng. Số vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của vốn lưu động càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay được nhiều vòng hơn. Thời gian của một kỳ phân tích thường là 1 năm hay 360 ngày
Thời gian của một
vòng luân chuyển
=
Thời gian của một kỳ phân tích
Số vòng quay VLĐ trong kỳ
2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn:
Doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của nó không thể tách rời ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh cũng như đặc điểm của riêng nó. Vì vậy, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của các yếu tố đó một cách gián tiếp hoặc trực tiếp.
2.1 Các nhân tố khách quan:
Môi trường tự nhiên: bao gồm toàn bộ các yếu tố tự nhiên có tác động đến doanh nghiệp, như thời tiết, môi trường...Ngày nay khoa học càng phát triển thì sự lệ thuộc của con người vào tự nhiên ngày càng giảm đi, ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và hiệu quả sử dụng vốn nói riêng cũng ít hơn, trừ các doanh nghiệp hoạt động mang tính thời vụ hoặc các doanh nghiệp khai thác...
Môi trường kinh tế: là tổng thể các biến số kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, như tình trạng lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế, lãi suất, tỷ giá, tình trạng cạnh tranh...Các yếu tố này có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Môi trường pháp lý: là hệ thống các chế tài pháp luật, các chủ trương chính sách...liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường là tất yếu và cần thiết nhưng tác động của nhà nước chỉ được thực hiên thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô, không can thiệp trực tiếp mà giao quyền chủ động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. ảnh hưởng của môi trường pháp lý thể hiện ở chỗ nó đưa ra các quy tắc buộc doanh nghiệp phải tuân theo, nó bảo vệ những lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp. Nếu môi trường pháp lý thuận lợi sẽ mang lại lợi ích kinh tế cho các doanh nghiệp.
Môi trường chính trị văn hoá xã hội: khách hàng của doanh nghiệp luôn tồn tại trong một môi trường văn hoá xã hội nhất định, thoả mãn nhu cầu của khách hàng, bán được sản phẩm hay không phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm văn hoá xã hội. Nó ảnh hưởng đến việc ra quyết định sản xuất sản phẩm nào, lựa chọn công nghệ sản xuất nào cũng như phân phối sản phẩm như thế nào để đến được tay người tiêu dùng một cách hiệu quả nhất. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng chịu tác động của yếu tố này.
Môi trường kỹ thuật công nghệ: sự phát triển của khoa học công nghệ cùng với xu thế chuyển giao công nghệ đặt ra cho các doanh nghiệp nhiều cơ hội và thách thức mới. Việc sử dụng vốn của doanh nghiệp cũng phải thích ứng với sự tác động của các yếu tố này.
2.2 Các nhân tố chủ quan:
a) Lực lượng lao động:
Lực lượng lao động ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn được xem xét trên hai yếu tố là số lượng và chất lượng lao động, của hai bộ phận lao động là lao động trực tiếp sản xuất kinh doanh và cán bộ lãnh đạo. Trình độ của người lao động cao sẽ làm tăng hiệu suất sử dụng tài sản, kết quả kinh doanh cao hơn, do đó vốn được sử dụng hiệu quả hơn. Trình độ của cán bộ điều hành cao thể hiện ở sự kết hợp một cách tối ưu các yếu tố sản xuất, giảm chi phí không cần thiết đồng thời nắm bắt các cơ hội kinh doanh, đem lại cho doanh nghiệp sự tăng trưởng và phát triển...do đó hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao.
b) Đặc điểm của sản xuất kinh doanh:
Các doanh nghiệp hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau sẽ có đặc điểm về chu kỳ sản xuất, kỹ thuật sản xuất, đặc điểm của sản phẩm, nhu cầu của thị trường... khác nhau do đó cũng có hiệu quả sử dụng vốn khác nhau. Chẳng hạn nếu chu kỳ ngắn, doanh nghiệp sẽ thu hồi vốn nhanh nhằm tái tạo, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu chu kỳ sản xuất dài doanh nghiệp sẽ chịu một gánh nặng ứ đọng vốn và lãi phải trả cho các khoản vay. Nếu sản phẩm là tư liệu tiêu dùng nhất là sản phẩm công nghiệp nhẹ như rượu, bia, thuốc lá... thì sẽ có vòng đời ngắn, tiêu thụ nhanh và qua đó giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh. Hơn nữa những máy móc dùng để sản xuất ra những sản phẩm này có giá trị không quá lớn do vậy doanh nghiệp dễ có điều kiện đổi mới. Ngược lại, nếu sản phẩm có vòng đời dài có giá trị lớn, được sản xuất trên dây truyền công nghệ có giá trị lớn như ôtô, xe máy... việc thu hồi vốn sẽ lâu hơn.
3 Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn:
3.1. Vai trò của việc đảm bảo huy động đủ vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp:
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là kết quả tổng thể của hàng loạt các yếu tố bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp. Việc đảm bảo đầy đủ kịp thời vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó xuất phát từ các lý do chủ yếu sau:
Tất cả các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp ở bất cứ quy mô, lĩnh vực nào đều cần thiết có một lượng vốn nhất định.
Việc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhanh đòi hỏi phải có vốn đầu tư lớn, đầy đủ và kịp thời. Do đó việc tổ chức huy động vốn ngày càng trở nên quan trọng đối với mỗi doan nghiệp.
Việc huy động vốn đầy đủ và kịp thời giúp cho các doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh, tạo lợi thế trong cạnh tranh.
Lựa chọn các hình thức và phương pháp huy động vốn thích hợp giúp giảm bớt được chi phí sử dụng vốn, điều đó tác động rất lớn đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt ở các doanh nghiệp có tỷ lệ vốn vay lớn.
Trong cơ chế bao cấp trước đây, mọi nhu cầu về vốn của doanh nghiệp nhà nước đều được bao cấp qua nguồn vốn cấp của ngân sách nhà nước và qua nguồn tín dụng ưu đãi của ngân hàng. Nếu doanh nghiệp phát sinh nhu cầu vốn thì có thể xin cấp phát thêm hoặc vay ngân hàng với lãi suất ưu đãi. Có thể nói vốn của doanh nghiệp được tài trợ toàn bộ, vì thế vai trò khai thác, thu hút vốn không được đặt ra như một yêu cầu cấp bách có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Hoạt động huy động các nguồn vốn của doanh nghiệp trở nên rất thụ động
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp nhà nước cùng song song tồn tại với các thành phần kinh tế khác, việc cấp phát vốn từ ngân sách nhà nước hạn chế hơn, doanh nghiệp phải bảo toàn vốn kể cả trong điều kiện trượt giá và phải đầu tư để mở rộng và phát triển quy mô sản xuất kinh doanh. Nhu cầu vốn ngày càng lớn trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ động tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng yêu cầu vốn, đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến quy trình công nghệ...nhằm đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chỉ có như vậy doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được. Vì vậy vốn trở thành dộng lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và việc huy động, quản lý sử dụng hiệu quả vốn đã trở thành một yêu cầu bức bách.
3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiẹu quả sử dụng vốn:
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có ý nghĩa quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung, đặc biệt là trong cơ chế hiện nay.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo được tính an toàn về tài chính cho doanh nghiệp, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Qua đó các doanh nghiệp sẽ đảm bảo việc huy động các nguồn tài trợ và khả năng thanh toán, khắc phục cũmg như giảm bớt được những rủi ro trong kinh doanh.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Để đáp ứng các yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm...doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là rất cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường, nâng cao mức sống của người lao động ... Vì khi hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Điều đó giúp cho năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng nâng cao, tạo sự phát triển cho doanh nghiệp và các ngành liên quan. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Phần II: tình hình sử dụng vốn tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
iii. tình hình sử dụng vốn tại nhno&ptnt hà nội.
Trong nền kinh tế, các NHTM đều hoạt động theo phương thức “đi vay để cho vay” tức là huy động vốn từ các nguồn khác nhau và phải sử dụng vốn đó để hoạt động kinh doanh có lãi, đảm bảo khả năng thanh toán cho khách hàng khi có dòng tiền rút ra. Vì vậy sử dụng vốn là khâu mấu chốt quyết định hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng. Việc sử dụng triệt để có hiệu quả nguồn vốn sẽ dẫn đến tối đa hoá lợi nhuận cho Ngân hàng cũng như góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước.
Bảng 11: Kết quả sử dụng vốn của NHNo Hà nội.
Đơn vị: Triệu VND
Thời gian
Khoản mục
31/12/1998
31/12/1999
31/12/2000
31/3/2001
Dư nợ cho vay
959.749
957.229
1.296.566
1.409.405
Tổng nguồn vốn
1.945.841
2.035.619
3.344.034
3.729.937
Biểu 2: Tổng dư nợ
Tại Ngân hàng nông nghiệp Hà nội, ngoài hoạt động sử dụng nguồn để cho vay đối với nền kinh tế thì vốn của Ngân hàng còn phục vụ cho hoạt động sử dụng khác. Trong đó chủ yếu là hoạt động điều chuyển vốn trong hệ thống Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn. Sử dụng khác cho kinh doanh ngoại tệ và mua sắm tài sản cố định chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể. Nguyên nhân chính của vấn đề nguồn vốn điều chuyển lớn là do tốc độ huy động vốn của Ngân hàng tăng nhanh trong khi hoạt động cho vay của Ngân hàng còn hạn chế. Đây là dấu hiệu chưa thật tốt trong hoạt động kinh doanh tín dụng, thể hiện thị trường cho vay của Ngân hàng còn nhiều hạn chế. Do vậy , vấn đề đặt ra là cần nghiên cứu kỹ hơn nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng để đưa ra những giải pháp phù hợp nhằm mở rộng cho vay, tạo cơ sở tăng lợi nhuận cho Ngân hàng.
Diễn biến tình hình dư nợ của NHNo&PTNT Hà nội qua các năm 98,99,2000 được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 12: Hoạt động tín dụng của NHNo Hà nội.
Đơn vị: Triệu VND
Thời gian
Khoản mục
31/12/1998
31/12/1999
31/12/2000
31/3/2001
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
Số tiền
%
1.Cho vay DNNN
796.484
82,9
814.476
85,1
862.015
66,5
974.110
69,1
2.Cho vay NQD
163.265
17,1
142.753
14,9
434.551
33,5
435.295
30,9
Tổng dư nợ
959.749
100
957.229
100
1.296.566
100
1.409.405
100
% Tăng giảm
-0,26
35,4
8,7
Qua bảng 12 ta thấy doanh số cho vay của NHNo Hà nội năm 1999 giảm 0,26% so với năm 1998 với con số tuyệt đối 2.520 triệu đồng. Nguyên nhân chính là do năm 99 xuất hiện tình trạng thiểu phát kéo dài, lạm phát quá thấp dưới 1 chữ số dẫn đến dư cung trong nền kinh tế, sức mua giảm sút với chính sách tiền tệ quá chặt gây ra sự trì trệ trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp kinh doanh không dám đầu tư mở rộng sản xuất. Mặc dù ngành Ngân hàng tích cực chống thiểu phát bằng các công cụ của chính sách tiền tệ như hạ lãi suất cho vay, giảm tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc từ 7% xuống còn 3%, nhưng chỉ thực hiện chủ yếu vào 6 tháng cuối năm 99 nên không phát huy được hết hiệu quả.
Trong năm 2000, dưới sự can thiệp của Ngân hàng nhà nước thông qua kích cầu đầu tư, lãi suất cho vay từ 1,25%/tháng giảm xuống còn 0,85%/tháng. Mức lãi suất hấp dẫn đã kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu sử dụng cho đầu tư mới về nhà xưởng, trang thiết bị, công nghệ và mở rộng sản xuất. Kết hợp với việc thực hiện chiến lược khách hàng, NHNo Hà nội đã đưa tổng dư nợ tăng trưởng 35,4% so với năm 99. Vào quý I/2001 dư nợ của Ngân hàng tăng lên 8,7%.
Xét về cơ cấu dư nợ ta thấy cho vay doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tăng và khu vực ngoài quốc doanh giảm thể hiện chủ trương của Ngân hàng trong chính sách cho vay. Ngân hàng tăng cường mối quan hệ với các khách hàng là DNNN lớn, có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển của nền kinh tế quốc dân, hầu hết là những doanh nghiệp vững mạnh làm ăn có hiệu quả, được sự đầu tư của Chính phủ như các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty 90-91. Việc đầu tư cho những doanh nghiệp này hầu như không có rủi ro.
Đối với khu vực ngoài quốc doanh, do kinh doanh luôn gặp rủi ro lớn nên Ngân hàng thực hiện quản lý chặt chẽ việc cho vay. Muốn vay vốn các doanh nghiệp phải có tài sản thế chấp nhưng hầu hết tài sản thế chấp của doanh nghiệp đều bị hạn chế và thông tin không đầy đủ. Mặt khác do các DNNN có nhu cầu về vốn tín dụng cao, nên việc đầu tư có trọng điểm cho một số doanh nghiệp có giá trị kinh tế dễ thu hút vốn của Ngân hàng hơn.
Năm 98, 99 doanh số cho vay với khu vực quốc doanh chiếm tuyệt đại đa số và tăng trưởng khá đều, về tỷ trọng từ 82,9% trên tổng nguồn năm 98 đã tăng lên 85,1% năm 99. Đạt được kết quả này là do Ngân hàng đã tập trung đầu tư vào các dự án mới như dự án nâng cấp tổng đài điện thoại của Tổng công ty bưu chính viễn thông, dự án hoạt động của Tổng công ty xăng dầu Việt nam. Cùng thời điểm này hoạt động cho vay ngoài quốc doanh lại giảm cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng, từ 17,1% năm 99 giảm xuống 14,9% năm 98.
Bước sang năm 2000 doanh số cho vay khu vực quốc doanh tăng lên nhưng lại giảm về tỷ trọng, nguyên nhân là do dư nợ cho vay ngoài quốc doanh tăng lên. Hiện nay (quý I/2001) NHNo Hà nội vẫn đang tiếp tục thúc đẩy hoạt động tín dụng và cũng có bước tăng trưởng rõ rệt.
Trong cơ cấu cho vay đối với DNNN đã có những biến động lớn về tỷ trọng giữa cho vay ngắn hạn và cho vay dài hạn thể hiện ở bảng 13.
Bảng 13: Cơ cấu cho vay doanh nghiệp nhà nước.
Đơn vị: Triệu VND
Thờigin
Khoản mục
31/12/1998
31/12/1999
31/12/2000
31/3/2001
%
%
Số tiền
Số tiền
%
1.CV ngắn hạn
86,7
771.628
885.131
-Nội tệ
692.603
806.336
-Ngoại tệ
79.025
78.795
2.CV dài hạn
13,5
90.387
88.979
-Nội tệ
41.059
39.749
-Ngoại tệ
49.328
49.230
Tổng
100
862.015
974.110
Trong cơ cấu dư nợ của khu vực quốc doanh ta thấy khoản cho vay ngắn hạn luôn tăng trưởng và chiếm một tỷ trọng rất lớn, từ 86,7% năm 98 tăng lên 89,5% năm 99 và tiếp tục tăng lên ở quý I/2001. Ngược lại với dư nợ ngắn hạn, tỷ trọng cho vay trung-dài hạn thấp, chỉ chiếm 13,3% tổng dư nợ năm 98, 11,5% năm 99 và đến năm 2000 dư nợ cho vay giảm xuống còn 10,5%. Đây là con số quá thấp so với nhu cầu thị trường, chứng tỏ Ngân hàng chưa nắm bắt nhu cầu đầu tư trung dài hạn của các doanh nghiệp lớn, chưa tăng cường khả năng tham gia vào các chương trình, dự án lớn hơn, dài hạn hơn. Mặc dù trong năm 2000 NHNo Hà nội đã tích cực khai thác mở rộng đầu tư cho một số doanh nghiệp mới, đi sâu vào tìm kiếm các dự án khả thi của các khách hàng truyền thống và các khách hàng khác như Công ty Cao su Sao vàng, Công ty Vật tư Nông sản, Tổng công ty Cà phê Việt nam, Công ty than Đông bắc... nhưng doanh số cho vay chủ yếu vẫn là dư nợ ngắn hạn.
Cũng từ bảng trên ta thấy, trong năm 2000 cho vay ngắn hạn bằng nội tệ tăng lên trong khi đó tín dụng ngoại tệ lại giảm rất mạnh. Nguyên nhân tín dụng ngoại tệ giảm là do trong năm 2000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0145.doc