LỜI MỞ ĐẦU 1
ChươngI: Một số vấn đề về khả năng cạnh tranh 3
I - Khái niệm 3
1. Cạnh tranh là gì? 3
2. Khả năng cạnh tranh là gì? 4
II - Phân loại khả năng cạnh tranh: 4
1. Khả năng cạnh tranh quốc gia 5
2. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 5
3. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm 5
III - Các nhân tố ảnh hưởng dến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may 6
1. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may Việt Nam 6
1.1. Các đối thủ cạnh tranh hiện tại và tiềm ẩn 6
1.2. Nhà cung ứng 7
1.3. Khách hàng 8
2. Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may 8
2.1. Marketing 8
2.2. Nguồn nhân lực 9
2.3. Tài chính 9
2.4. Cơ sở hạ tầng 9
Chương II: Thực trạng về khả năng cạnh tranh của DN dệt may Việt Nam 11
I-Tình hình xuất khẩu DN dệt may Việt Nam trong những năm qua 11
29 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 780 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hấp và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc đã làm cho ngành này phát triển nhanh chóng.
Bên cạnh Trung Quốc thì các đối thủ cạnh tranh khác như: Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore, Philippines là các nước xuất khẩu hàng may với kim ngạch xuất khẩu cao hơn Việt Nam bởi họ tạo được nhiều lợi thế hơn so với các sản phẩm hàng dệt may củaViệt Nam. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu hàng may của Thái Lan bằng 4 lần, Trung Quốc bằng hơn 25 lần của Việt Nam.
Ngoài ra, ấn độ, cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng là những nhà sản xuất tơ lụa có tiếng mà các doanh nghịêp Việt Nam phải tính đến khi tham gia vào thị trường khu vực và thế giới.
Rõ ràng đối với ngành dệt may Việt Nam có quá nhiều đối thủ cạnh tranh nặng ký. Điều này làm cho mức độ cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu thế giới rất gay gắt và quyết liệt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư đúng mức về mọi phương diện để trụ được một cách vững vàng trên thị trường thế giới.
12. Nhà cung ứng
Trong sản xuất dệt may , nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Ngành dệt may Việt Nam sử dụng các nguyên liệu chính là: bông xơ, xơ sợi tổng hợp, len, đay ,tơ tằm, xơ liber khác, các loại hoá chất cơ bản khác và thuốc nhuộmtrong đó quan trọng nhất là bông xơ và xơ sợi tổng hợp.
Do không chủ động được nguồn nguyên liệu(80%% nguyên liệu sử dụng cho ngành dệt may phải nhập từ nước ngoài)nên ngành dệt may Việt Nam phải chịu sức ép nặng nề của việc tăng giá nguyên liệu trên thế giới. Mặt khác, nguồn nguyên liệu phụ thuộc vào nhập khẩu mà không thống nhất ở một vài đơn vị có chức năng nhập và do nhiều đầu mối, thậm chí không phải ngành dệt may vẫn đứng ra nhập và phân phối theo nhiều loại giá khác nhau, làm cho biến động giá đầu vào khiến đầu ra không ổn định.Hiện nay phần lớn nguyên liệu sử dụng cho ngành dệt may phải nhập từ Trung Quốc. Ngoài ra còn nhập của một số nước như:Thái Lan,Australia,Hàn Quốc,Pakistanlàm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của ngành dệt may, gây nên tình trạng bị động trong điều hành sản xuất
1.3. .Khách hàng
Thị trường được hiểu là những nhóm khách hàng. Quyền lực thương lượng của nhóm khách hàng này xét về tổng thể là một trong những lực lượng cạnh tranh cơ bản quyết định khả năng sinh lợi tiềm tàng của một ngành. Các khách hàng là khác nhau, việc lựa chọn khách hàng là một yếu tố chiến lược.Sự lựa chọn khách hàng có thể tác động mạnh đến tỉ lệ tăng trưởng của ngành và có thể giảm tới mức tối thiểu quyền lực của khách hàng .
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực : thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.
Trong thị trường có hạn ngạch quan trọng nhất là thị trường EU.Thời gian gần đây, việc xuất khẩu hàng dệt may vào EU trở nên khó khăn hơn vì kiểm tra chất lượng gắt gao và phía EU gây sức ép đối với ta.
Mỹ là thị trường xuất khẩu dệt may rất hấp dẫn,có thể khai thác lợi thế từ đặc điểm của thị trường Mỹ.Tuy nhiên vào thị trường Mỹ cần phải chú ý đến các vấn đề như: quy dịnh rất khắt khe về nhãn hiệu, biểu tượng hàng may
Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch quan trọng nhất. Nhưng trong thời gian gần đây, xuất khẩu sang thị trường này cũng gặp nhiều khó khăn do nền kinh tế Nhật Bản vẫn tiếp tục suy thoái, làm giảm sức mua của người dân.
2 . Nhóm nhân tố ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
2.1.Marketing
Marketing là thực hiện các công việc bao gồm việc định giá, xúc tiến bán hàng, quảng cáo và phân phối giúp cho doanh nghiệp bán được hàng hoá và giữ được vị trí trên thị trường so với các đối thủ cạnh tranh. Đặc biệt các doanh nghiệp dệt may cần quảng bá sản phẩm hàng hóa của mình để tiêu thụ được sản phẩm trên thị trường quốc tế. Xúc tiến rhương mại là vấn đề bức xúc của hoạt động xuất khẩu, để đạt được hiệu quả cao, công tác nàyphải được đẩy mạnh ở cả 3 cấp: chính phủ, các bộ, các cơ quan xúc tiến thương mại và các doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm khác hàng qua các biện pháp xúc tiến xuất khẩu như: Internet, hội chợ, triển lãm, đại lý Hợp tác liên kết mở văn phòng đại diện thương mại tại các thị trường xuất khẩu. Việc định ra được các chính sách Marketing thích hợp sẽ giúp cho các doanh nghiệp cạnh tranh với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường để chiếm lĩnh và mở rộng được thị trường.
2.2 .Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vai trò quyết định và ảnh hưởng tới sự thành bại của một doanh nghiệp. Lao động của doanh nghiệp là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất. Doanh nghiệp sử dụng lao động có kỹ năng càng cao thì càng hiệu quả và thực hiện nhiệm vụ một cách nhanh hơn và chính xác hơn so với các lao động có kỹ năng thấp. Do vậy nguồn nhân lực tốt là một đảm bảo cho sự phát triển lâu dài và bền vững. Các doanh nghiệp dệt may cần một đội ngũ lớn công nhân lành nghề, cán bộ quản lý, kỹ sư thực hành, nhà thiết kế thời trang, thiết kế mẫu mã cho đến giám đốc doanh nghiệp và cán bộ quản lý cấp cao để đảm bảo hoạt động có hiệu quả, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may đặc biệt là trên thị trường quốc tế.
2.3 .Tài chính
Tài chính của các doanh nghiệp có thể tạo lập điểm mạnh hay điểm yếu. Thực vậy, khả năng tài chính có thể ảnh hưởng đến khả năng của doanh nghiệp đối với việc xây dựng khả năng cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ mà yêu cầu cần có những khoản đầu tư thích hợp. Khả năng tạo lập vị thế tài chính của một doanh nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp lập kế hoạch cho sự phát triển của nó như thế nào theo cách nhìn của ngân hàng và các nhà đầu tư. Đối với ngành sản xuất dệt may, do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi vốn nhanh và sử dụng nhiều lao động nên mức độ cạnh tranh của ngành này rất cao. Do vậy, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có nguồn lực về tài chính khá cao.
2.4 . Cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng giúp cho doanh nghiệp đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả và là môi trường trong đó tất cả các hoạt động tạo ra giá trị khác diễn ra. Trước hết, cơ sở hạ tầng giúp cho doanh nghiệp có thể thúc đẩy, duy trì hiệu qủa trên phạm vi doanh nghiệp và khuyến khích sự hợp tác giữa các bộ phận chức năng trong việc theo đuổi mục tiêu hiệu quả.
Các doanh nghiệp cầnphát triển cơ sở hạ tầng để tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ phận chức năng đạt được hiệu quả siêu ngạch, nâng cao khả năng cạnh tranh cho các sản phẩm của doanh nghiệp .
Chương II
Thực trạng về khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp dệt may Việt Nam
I – Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua
Ngành may Việt Nam thực sự khởi săc từ thập niên 90 và có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Số liệu về tốc độ tăng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam trên ba thị trường chủ yếu: Mỹ , EU và Nhật Bản đã phản ánh những cố gắng lớn của ngành này trong hơn mười năm qua.
Hàng may Việt Nam xuất khẩu giai đoạn 1994-2000 sang thị ttrường Mỹ chưa đáng kể , tốc độ tăng xuất khẩu đạt trung bình 52,6 % / năm. Nhưng với sự mở đường của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ đã tăng nhanh từ 49 triệu USD năm 2001 lên 975 triệu USD năm 2002 và theo Hiệp định dệt may Việt Nam - Hoa Kỳ vừa ký, hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2003 ước đạt 1,7 tỷ USD và triển vọng tăng trưởng ổn định trong những năm tới.
EU được coi là thị trường chính, khá quen thuộc của ngành may Việt Nam, khi Việt Nam ký Hiệp định hàng Dệt- May vào năm 1992 thì từ năm 1993 đến 1997, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng dệt may đạt hơn 23%/ năm. Và hạn ngạch giai đoạn 1998 -2000 tăng thêm 40% so với giai doạn trước và thoả thuận sơ bộ cho giai đoạn 2003-2005 có mức tăng từ 50- 70% tuỳ theo nhóm hàng.Tuy nhiên, 2 năm 2001 và 2002 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU đang có xu hướng giảm từ 617 triệu USD năm 2001 xuống còn 540 triệu USD năm 2000 ( giảm 12%)
Nhật bản là thị trường không hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, đặc biệt kể từ năm 1994. Năm 1997, Việt Nam đã trở thành một trong bẩy nước xuất khẩu quần áo lớn nhất vào Nhật Bản với thị ttrường hàng dệt thoi là 3,6% và dệt kim là 2,3%. Nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Nhật Bản đang trong chiều hướng giảm, năm 2000 đã đạt 619 triệu USD tăng 5% so với năm trước nhưng năm 2001 giảm 0,5% còn 616 triệu USD và năm 2002 là 419 triệu USD, giảm 20%. Tuy nhiên, cũng như ở các thị trường khác, hàng may Việt Nam cũng chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng nhập khẩu của thị trường này: năm 2001 tỷ trọng hàng dệt may Việt Nam là 3,18%.
Trong 10 năm trở lại đây ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩu. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chỉ đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5% tức khoảng 160 triệu USD/năm. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD, tăng thêm 30% so với năm 2002 là một thắng lợi lớn của ngành dệt may. Nó không chỉ góp phần đưa kim ngạch xuất khẩu nói nhung của cả nước tăng 20% mà còn tạo cơ sở vững chắc cho sự tăng trưởng xuất khẩu trong những năm sau.
Hàng dệt may Việt Nam hiện đang xuất khẩu vào hai khu vực thị trường : thị trường có hạn ngạch và thị trường phi hạn ngạch.Trong các thị trường xuất khẩu đó thì ba thị trường quan trọng nhất là: thị trường Mỹ ,thị trường Eu và thị trường Nhật Bản với tình hình xuất khẩu như sau:
1.Tình hình xuất khẩu sang thị trường Mỹ
1.1.Kim ngạch xuất khẩu
Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu khoảng 50-60 tỷ USD hàng may mặc và dệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ tăng dần lên qua các năm, từ 19,74 triệu USD năm 1994 lên tới 26,34 triệu USD năm 1998 và đạt 49,57 triệu USD năm 2000. Năm 2002 con số này là 975 triệu USD và ước đạt 1,7 tỷ USD năm 2003.Tuy nhiên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ lại có xu hướng giảm dần. Nếu năm 1998 chiếm 8,4% sang Mỹ thì đến năm 1999 là 5,8% và năm 2001 chỉ còn 4,4% trong tổng kim ngạch xuất khẩu, trong khi kim ngạch xuất khẩu tuyệt đối vẫn tăng.
Mỹ nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu là từ Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc. Những nước này chiếm 1/2 khối lượng hàng dệt may Nhập khẩu vào Mỹ. Hiện nay, Hiệp định thương mại đã có hiệu lực, mức thuế hàng may mặc giảm từ 68,9% xuống còn 13,4%và hàng dệt từ 51,1% xuống còn 10,3%. Nếu tới đây, Việt Nam được hưởng mức thuế suất này thì chắc chắn kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam sẽ gia tăng mạnh mẽ.
1.2. Chủng loại hàng
Hàng dệt may của Việt Nam vào Mỹ chủ yếu là: sơ mi nam, com lê, áo khoác nam, găng tay đan móc, áo sơ mi đan móc của nữ . Còn các mặt hàng khác như:áo Jacket, bộ quần áo, áo Blu nam nữ cho người lớn, áo nịt nam nữ cho trẻ em, hàng may cho trẻ sơ sinh, váy ngắn, váy dài, đồ ngủ, đồ lót, áo gối , chănchỉ ở vị trí khiêm tốn . Còn các sản phẩm dệt kim chưa thâm nhập được vào thị trường Mỹ mà ngược lại còn phải nhập khẩu từ Mỹ.
2 .Tình hình xuất khẩu sang thị trường EU
2.1.Kim ngạch xuất khẩut
EU là thị trường có hạn ngạch quan trọng và tiêu biểu nhất. Là một thị trường đông dân khoảng 380 triệu người với sức tiêu dùng vải cao(17 kg/người) . Trước năm 1990, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giữa Việt Nam - EU hết sức nhỏ bé, do quan hệ hai bên chưa được bình thường hoá. Kể từ khi Hiệp định buôn bán hàng dệt may ký ngày 15/12/1992và có hiệu lực ngày1/1/1993, trải qua bốn lần sửa đổi, bổ sung. Năm 1992, Việt Nam xuất khẩu sang EU khoảng gần 200 triệu USD nhưng đến năm 2002, sau 10 năm Việt Nam đã xuất khẩu sang EU khoảng 550 triệu USD hàng dệt may hàng năm. Trong lần đàm phán mới nhất từ 12-15 /2/2003, EU đã dành cho Việt Nam mức tăng trưởng đột phá.Tất cả các cat nóng, EUđều tăng cho Việt Nam từ 50-70%. Đến năm 2003,hy vọng các doanh nghiệp Việt Nam có thể xuất khẩu sang EU khoảng 550 triệu USD.
2.2. Chủng loại hàng
Về chủng loại hàng xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ tập trung vào sản xuất một số sản phẩm, các mã hàng nóng như: áo Jacket, áo sơ mi, quần Âu, áo len , áo dệt kim, quần áo.T.Shirt và Polo Shirt, quần dệt kim, bộ quần áo bảo hộ lao động, áo khoác nam và áo sơ mi nữ
3. Tình hình xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản
3.1.Kim ngạch xuất khẩu
Nhật Bản là thị trường không hạn ngạch lớn nhất, đứng thứ 3 trong các nước nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Với số dân trên 127 triệu dân, là một thị trường rất tiềm năng. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Nhật Bản tăng hàng năm, đến năm 2000 đạt cao nhất là 620 triệu USD và thị phần đạt khoảng 29%. Sau đó đến năm 2001 lại giảm 5% so với năm 2000 còn 592 triệu USD, năm 2002 lại giảm 20% so với năm 2001 đạt 419 triệu USD. Năm 2003 Việt Nam xuất khẩu sang Nhật khoảng 480 triệu USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may ( 3,7 tỷ USD) .
3.2. Chủng loại hàng
Các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản chủ yếu là hàng may mặc như: áo Jacket, quần áo thể thao, quần âu, sơ mi nữ, sơ mi nam, quần áo lót cho nam, nữ, quần áo dệt kim của nam nữ. Còn các mặt hàng khác xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn còn hạn chế
Bảng1: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua
Đơn vị: triệu USD
Năm Năm
Tổng knxk
Knxk sang
Nhật Bản
Knxk sang EU
Knxk sang
Mỹ
Knxk sang
thị trường khác
1996
1.150
248
225
9,1
668
1997
1.349
325
410
12
612
1998
1.351 1.351
321
521
26,34
483
1999
1.747
417
605
34
690,9
2000
1.892
620
599
49,57
725,5
2001
1.962
588
617
44,6
710
2002
2.710
419
540
975
775
2003
3.602
480
550
1.731
840
Nguồn: Bộ thương mại và tổng công ty VINATEX
Cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam được biểu hiện qua biểu đồ. Đơn vị : Triệu USD
III - Ma trận SWOT và khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam
Trong quá trình hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Ngành dệt may Việt Nam đang có nhiều cơ hội, song cũng đứng trước những thách thức lớn. Phân tích SWOT( Strengths- Điểm mạnh, Weaknesses- Điểm yếu, Opportunities- Cơ hội và Threals- Nguy cơ, thách thức) đối với ngành dệt may Việt Nam có thể nêu ra một số nét chủ yếu trong những năm trước mắt(xem bảng 3)
Trên cấp độ ngành thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam chủ yếu được tạo ra bởi nguồn nhân lực với đội ngũ nhân công có tay nghề khéo léo, cộng với chi phí tiền lương thấp.
Bảng2: so sánh giá nhân công ở một số nước Châu á.
Tên nước
Chi phí nhân công (USD/ tháng)
Việt Nam
40
Trung Quốc
45
Indonesia
83
Thái Lan
100
Malaixia
120
Singapore
415
Hồng Kông
612
Hàn Quốc
767
Đài Loan
772
Nguồn : Báo cáo của Tổng công ty dệt may Việt Nam.
Hiện nay, giá nhân công rẻ vẫn là lợi thế trong cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nên vẫn hấp dẫn các đơn đặt hàng gia công từ các nước: EU,Mỹ, Nhật Bản và một số nước khác. Một thuận lợi cho hàng xuất khẩu nói chung và cho việc xuất khẩu hàng may nói riêng là đồng tiền Việt Nam có xu hướng yếu đi trên các thị trường, điều này tạo điều kiện cho việc cạnh tranh về giá.
ở cấp độ doanh nghiệp và sản phẩm thì khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam là rất thấp, do các doanh nghiệp chưa quan tâm đến việc xây dựng và phát triển thương hiệu và mẫu mã sản phẩm, chưa chú trọng đến khâu thiết kế và kiểu dáng sản phẩm.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng một số điểm mạnh của ngành dệt may Việt Nam cũng như về cơ hội mà chúng ta có thể tận dụng được hiện nay là chỉ mang tính tạm thời. Trong tương lai có thể không còn hoặc biến thành các nguy cơ.
Việc Trung Quốc, Đài Loan đã ra nhập WTO và thương mại dệt may đang tiến gần đến thời điểm 1/1/2005, cột mốc quan trọng đánh dấu sự chấm dứt chế độ hạn ngạch kéo dài suốt 30 năm kể từ năm 1974 với Hiệp định hàng đa sợi (MFA ) và sự bắt đầu thời kỳ mới- thời kỳ tự do hoá thương mại dệt may. Cuộc cạnh tranh trong lĩnh vực này sau năm 2004 sẽ vô cùng khốc liệt và khi hạn ngạch bị rỡ bỏ thì hàng may Việt Nam sẽ khó cạnh tranh được với sản phẩm của các nước khác.
Một thuận lợi hiện nay của ngành dệt may Việt Nam mà trong tương lai có thể trở thành một nguy cơ là giá nhân công thấp bởi khi ra nhập WTO, các doanh nghiệp phải trả công cho người lao động theo những chuẩn mực chung. Khi đó nếu các doanh nghiệp dệt may vẫn tiếp tục trả công thấp thì các nước sẽ không chấp nhận sản phẩm của họ. Còn nếu tăng tiền công thì lượng đơn hàng gia công có thể sẽ giảm đi đáng kể.
Trong tương lai, ngành may mặc nói chung và từng doanh nghiệp dệt may nói riêng cần có chiến lược mặt hàng mũi nhọn trên cơ sở bí quyết công nghệ đặc thù, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dệt may Việt Nam.
Bảng 3:Ma trận SWOT
Strengths- Điểm mạnh
Có nguồn nhân công dồi dào và có trình độ
Lương giờ bình quân thấp
Chi phí sản xuất/1 phút thấp hơn nhiều nước trong khu vực
Yêu cầu đầu tư tối thiểu đối với chủ doanh nghiệp
Phương tiện gửi hàng và vận chuyển quốc tế thuận lợi và có chi phí thấp
Miễn thuế nhập khẩu đối với vật tư dùng cho sản xuất hàng xuất khẩu
Hầu hết các doanh nghiệp được trang bị tốt và có đội ngũ công nhân được đào tạo tốt
Đội ngũ quản lý có kỹ năng kinh doanh và đang chuyển sang hình thức tiếp cận trực tiếp với khách hàng.
Weaknesses- Điểm yếu.
Chưa chủ động tạo được nguồn nguyên phụ liệu trong nước phù hợp yêu cầu sản xuất hàng xuất khẩu
Sự liên kết với khách hàng kém phát triển: quá phụ thuộc vào các đối tác nước ngoài, ít mối liên hệ với khách hàng cuối cùng
Khả năng tiếp thị hạn chế, đặc biệt trong việc đột phá thị trương mới
Hầu như chưa có thương hiệu riêng và chủng loại sản phẩm còn hạn chế
Việc đào tạo còn hạn chế, đặc biệt đối với các nhà quản lý chuyên ngành
Opportunities- Cơ hội
Tỷ giá hối đoái thực tế của VND trên một số thị trường đang yếu đi làm tăng khả năng xuất khẩu hàng vào các thị trường đó.
Xu hướng chuyển dịch hàng dệt may sang các nước đang phát triển.
Xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập kinh tế, tự do hoá thương mại trong đó có thương mại dệt may theo ATC/WTO.
Việt Nam tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA).
Trong tương lai gần, Việt Nam sẽ gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Các số liệu xuất khẩu quá khứ cho thấy các thị trường xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là EU,Nhật Bản.
Thị trường Mỹ đang có nhu cầu lớn về hàng dệt may Việt Nam
Các thị trường mới, trong đó có Nga và các nước SNG là những thị trường tiềm năng lớn đối với hàng dệt may Việt Nam.
Threats- Nguy cơ, thách thức.
Tính khốc liệt trong cạnh tranh ở tất cả các thị trường đang tăng
AFTA sẽ giảm các hàng rào thương mại ở châu á và khuyến khích cạnh tranh khu vực; nhân công một số nước trong khu vực rẻ hơn như Inđônesia, Bangladesh
Chi phí cho các dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng cao: cước phí điện thoại, dịch vụ viễn thông, giá điện, nước,
Cạnh tranh khốc liệt từ phía Trung Quốc do ở đó công nghiệp dệt và phụ liệu đã phát triển và có nguồn nhân công rẻ hơn, năng suất lao động cao hơn.
Hiệp định dệt may Việt Nam- Hoa Kỳ quy định việc khống chế hạn ngạch nhập hàng dệt may từ Việt Nam vào Mỹ
Trung Quốc ra nhập tổ chức thương mại thế giới – WTO.
IV - Hạn chế và nguyên nhân trong cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may
1 .Hạn chế
Khả năng cạnh tranh của hàng may mặc nước ta hiện nay còn yếu so với các nước trong khu vực và thế giới. Năm 1997, Canada xoá bỏ hạn ngạch, mặt hàng áo sơ mi của Việt Nam đã không đủ khả năng cạnh tranh và phải rút khỏi thị trường Canada. Đầu năm 2002, EU xoá bỏ hạn ngạch áo Jacket, mặc dù là mặt hàng truyền thống của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, nhưng kim ngạch xuất khẩu áo Jacket vào EU năm 2002 giảm xuống đáng kể, chỉ còn 2/3 và đến năm 2003 chỉ còn 1/2 so với năm 2002. Mặc dù đây là hai mặt hàng có lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam, nhưng khả năng cạnh tranh còn rất hạn chế. Sự hạn chế của các mặt hàng dệt may xuất khẩu thể hiện trên các mặt sau:
1.1.Về chất lượng sản phẩm
Các sản phẩm may mặc Việt Nam được đánh giá chung là có chất lượng chưa cao, không đồng đều, đến hơn 60% tổng kim ngạch xuất khẩu là làm gia công cho nước ngoài, có nghĩa là làm theo mẫu mã và thêo yêu cầu chất lượng của bên nước ngoài. Còn trong số xuất khẩu trực tiếp thì hầu hết là đáp ứng cho phân đoạn thị trường có nhu cầu “bình dân” yêu cầu về chất lượng thấp, giá rẻ, chỉ có một số ít sản phẩm đủ tiêu chuẩn đáp ứng cho những phân đoạn thị trường có nhu cầu chất lượng cao. Nếu đánh giá theo chỉ số trình độ chất lượng thì hàng may mặc xuất khẩu nước ta có chất lượng còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.
1.2.Về giá
Tính tỷ lệ giá/chất lượng hàng may Việt Nam có tỷ lệ cao, do đó khả năng cạnh tranh về giá cho hàng may mặc xuất khẩu còn nhiều hạn chế.Việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cấp bách của các doanh nghiệp may xuất khẩu nước ta trong thời gian tới.
1.3.Về cơ cấu mặt hàng và khả năng đổi mới mặt hàng:
Cơ cấu mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu còn “hẹp”, chủ yếu tập trung vào những mặt hàng được cấp hạn ngạch như: áo sơ mi, áo Jacket và tập trung vào một số thị trường chính như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Khả năng đổi mới mặt hàng và tạo ra các mặt hàng mới còn chậm, nên khả năng cạnh tranh để mở rộng thị trường còn nhiều hạn chế. Vào đầu năm 2005, khi hàng dệt may xoá bỏ hạn ngạch, các mặt hàng truyền thống của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn, phải cạnh tranh không cân sức với các mặt hàng của Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, vốn đã có lợi thế cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản và khi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu còn “hẹp” nếu bị “ tổn thương” sẽ ảnh hưởng rất lớn đến kim ngạch xuất khẩu của ngành may mặc nước ta.
1.4. Về tiến độ giao hàng và hậu mãi
Để luôn luôn giao hàng đúng hạn, đặc biệt đối với thị trường có khoảng cách xa như thị trường Hoa Kỳ đối với các doanh nghiệp vẫn là một vấn đề hết sức khó khăn. Việc không thường xuyên giao hàng đúng hạn, có những sản phẩm không đúng quy cách, chất lượng không phù hợp và chậm trễ trong vấn đề giải quyết khiếu nại không những làm giảm uy tín của các doanh nghiệp mà còn làm hạn chế khả năng cạnh tranh của các mặt hàng .
2. Nguyên nhân
Những tồn tại và hạn chế trên chủ yếu là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trong những năm qua, một khoảng thời gian dài, các doanh ngiệp Việt Nam được hưởng chế độ ưu đãi của hàng dệt may, cho nên đã phần nào không kích thích được các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh, đổi mới, mở rộng mặt hàng mà có xu hướng tập trung vào sản xuất những mặt hàng có hạn ngạch.
Thứ hai, hầu hết các doanh nghiệp may mặc Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp có quy mô lớn, có cơ sở vật chất kỹ thuật, nhà xưởng thiết bị và công nghệ sản xuất còn nghèo nàn, lạc hậu, thiếu các thiết bị có tính chuyên dùng, chưa đáp ứng yêu cầu mới, năng suất lao động thấp, đặc biệt các doanh nghiệp có qui mô nhỏ thường làm gia công thì thiết bị rất lạc hậu so với các nước trong khu vực và thế giới, làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng. Do đó làm sản phẩm may mặc nước ta có chất lượng thấp, không ổn định, chi phí cao, kém khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thứ ba, khả năng cung cấp thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào cho ngành may mặc nước ta phụ thuộc vào nhập khẩu. Hầu hết các thiết bị, nguyên phụ liệu đầu vào cung cấp cho ngành may phải nhập khẩu, tỉ lệ nội địa hoá thấp, giá nhập khẩu và chi phí nhập khẩu cao sẽ bất lợi cho sản xuất kinh doanh.
Thứ tư, nguồn nhân lực của ngành may mặc nước ta còn thiếu và yếu. Thiếu những nhà thiết kế mẫu có tính chuyên nghiệp và trình độ cao, cho nên khả năng tạo ra những kiểu mốt phù hợp với nhu cầu thị trường và khả năng đổi mới mặt hàng, tạo ra những mặt hàng mới còn nhiều hạn chế. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân may Việt Nam chỉ đạt hiệu suất 70%, trong khi đó ở các nước khu vực là trên 90%. Năng suất lao động của công nhân thấp, ảnh hưởng đến chất lượng, chi phí và thời gian giao hàng của hàng may mặc xuất khẩu nước ta. Ngoài ra, vấn đề quản lý sản xuất, kinh doanh, khả năng nghiên cứu , tiếp cận , mở rộng thị trường của các doanh nghiệp may xuất khẩu nước ta cũng còn nhiều bất cập, còn phải xuất khẩu thông qua các trung gian là các công ty của Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông
Chương III
Giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may
Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp dệt may nước ta còn yếu trong khu vực và thế giới là do những nguyên nhân trên dẫn đến chất lượng sản phẩm dệt may của Việt Nam còn thấp, giá thành cao, chưa chủ động về thị trường, tính cạnh tranh của sản phẩm không cao, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Như vậy, làm thế nào để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang thị trường quốc tế được đánh giá là có khả năng cạnh tranh cao? Sau đây là những giải pháp khắc phục những khó khăn, tồn tại nhằm nâng cao khả năng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QT1981.doc