Đề tài Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam

Nhà nước là lực lượng trực tiếp chịu sự lãnh đạo của đảng,là lực lượng tổ chức thực hiện các chủ trương nghị quyết. . . của Đảng. Mặt khác Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng trong nền KTTT đinh hướng XHCN, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững theo đúng định hướng XHCN

Muốn làm tốt được những nhiệm vụ này chúng ta cần phải có một bộ máy Nhà nước gọn nhẹ, năng động, sáng tạo hiệu quả mang bản chất của giai cấp công nhân. Trước thựcc trạng về bộ máy Nhà nước hiện nay chúng ta cần phải có những giải pháp đúng đắn để đổi mới và xây dựng bộ máy Nhà nước đáp ứng yêu cầu đặt ra của quá trìng đổi mới.

 

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2363 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế nhanh và bền vững. Thành phần KTNN hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Đại hội Đảng thứ VIII đã chỉ rõ: vai trò chủ đạo của KTNN ở chỗ: “ Làm đòn bẩy tăng nhanh tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội, mở đường hướng dẫn hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển làm lực lượng vật chất để Nhà nước thực hiện chức năng và nhiệm vụ điều tiết quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới…” KTNN và kinh tế hợp tác dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, KTNN vẫn chưa phát huy đầy đủ tính ưu việt, sự chủ đạo của nó đối với nền kinh tế quốc dân khi tác động đến các thành phần kinh tế khác. KTNN vừa phải phát huy tính hơn hẳn của mình trong sự định hướng, điều tiết các thành phần kinh tế khác vừa khơi dậy tiềm năng của từng thành phần kinh tế. Hiện nay, KTNN chưa thực sự làm đầu tầu để kéo các thành phần kinh tế khác cùng phát triển, mặc dầu đã được xắp sếp và tổ chức lại nhưng hiệu quả kinh tế của khu vực này vẫn chưa tương xứng với vai trò và tiềm lực hiện có của nó. Các doanh nghiệp Nhà nước phần lớn là quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu không đủ sức cạnh tranh, hiệu quả sản xuất không tương xứng với vốn đầu tư: 85% tài sản cố định trong công nghiệp, 100% mỏ khoáng sản, 83% cây công nghiệp dài ngày, 90% lực lượng lao động được đào tạo, và có được những địa điểm kinh doanh thuận lợi nhất, trong khi đó mới chỉ đóng góp vào GDP 47% (1994), vẫn còn tồn tại những DNNN phải bị lỗ do làm ăn không có hiệu quả. Hiện tượng lãng phí, thất thoát tài sản của Nhà nước vẫn còn tồn tại. Vì lẽ đó,cần phải đổi mới KTNN làm cho nó thực sự đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân nhằm bảo đảm thực hiện định hướng XHCN. Để khu vực KTNN giữ vai trò chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, trong hơn 10 năm đổi mới, Nhà nước đã thực hiện việc sắp xếp lại các DNNN để tăng cường sức mạnh nội lực cho nó. Hiện nay, DNNN vẫn tiếp tục sắp xếp lại theo định hướng khắc phục những yếu kém của những doanh nghiệp này và khơi dậy những yếu tố tích cực, sức mạnh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm ăn tốt để phát huy ảnh hưởng của KTNN đối với nền kinh tế quốc dân. Cùng với việc đổi mới các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, việc cải tạo và đổi mới KTNN phải hết sức coi trọng đầu tư và thường xuyên tổng kết để rút ra bài học kinh nghiệm, bổ sung những tri thức “ cập nhập” nhằm thực hiện cho kì được vai trò chủ đạo và mục tiêu định hướng XHCN của thành phần kinh tế này. 2. 2. 2) Thành phần kinh tế hợp tác. Kinh tế hợp tác là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tập thể. Nó bao gồm những đơn vị kinh tế do những người lao động góp vốn cùng sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, quản lý dân chủ và cùng có lợi. Kinh tế hợp tác được phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác xã (HTX) đến HTX là hình thức chủ yếu của kinh tế hợp tác. Kinh tế hợp tác tồn tại trong: Nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ… Hiện nay, một thực tế đặt ra là nếu không phát triển và củng cố HTX để nó cùng với KTNN tạo thành nền tảng của xã hội thì mục tiêu phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN là rất khó khăn. Phong trào hợp tác hoá ở nước ta xuất hiện từ cuối những năm 50. Nó đã đóng góp rất quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những HTX với mô hình cũ khi chuyển qua KTTT đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Để đổi mới kinh tế HTX nông nghiệp theo định hướng XHCN, Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới theo tinh thần chỉ thị 100 của ban bí thư và nghị quyết 10 của bộ chính trị tiến hành từ khoán khâu đến khoán hộ. Thay đổi đó đã có tác dụng to lớn đối với sự phát triển nông nghiệp, trong khi đó lại có tình trạng kinh tế tập thể dần yếu đi, thậm chí không còn tác động nữa. Đại hội đại biểu lần VIII đã đề ra nhiệm vụ phát triển kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX với hình thức liên kết tự nguyện của người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh của tập thể để giải quyết những vấn đề của sản xuất kinh doanh. Như vậy kinh tế hợp tác xã phải phát triển với nhiều hình thức đa dạng, từ thấp đến cao, tuân thủ nguyên tắc tự nguyện và bình đẳng cùng có lợi, quản lý dân chủ. Cái mới hơn trước đây của mô hình kinh tế hợp tác xã nông nghiệp là: “ HTX được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần, mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung”. Như vậy vị trí và vai trò của kinh tế hợp tác mà nòng cốt là HTX đã được khẳng định và ngày càng phát huy tác dụng định hướng XHCN sự phát triển kinh tế nhất là kinh tế HTX Nông nghiệp. 2. 2. 3) Kinh tế tư bản tư nhân (KTTBTN). Là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê. Thành phần kinh tế này tồn tại dưới các hình thức sau: - Doanh nghiệp tư nhân. - Công ty TNHH - Công ty cổ phần trong đó không có vốn của Nhà nước. . . KTTBTN là thành phần kinh tế đại diện cho trình độ phát triển cao về kinh tế với trình độ kỹ thuật, công nghệ, quản lý tiến bộ hơn so với nhiều thành phần kinh tế khác. Trong thời kỳ quá độ KTTBTN vẫn là hình thức kinh tế có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như tạo việc làm… Vì vậy cần khuyến khích KTTB tư nhân phát triển trong những ngành nghề mà luật pháp không cấm. Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của họ huy động hết các tiềm năng và các nguồn lực của thành phần kinh tế này cho công cuộc xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Từ năm 1991 sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ra đời KTTBTN phát triển mạnh đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta tư nhân chưa sẵn sàng đầu tư vào sản xuất vì họ thiếu lòng tin và kiến thức kinh doanh. Cho nên,một mặt cần phải tạo điều kiện để họ tiếp cận với hoạt động kinh doanh,sẵn sàng đón nhận cái may và chấp nhận cái rủi trong kinh doanh. Cần khẳng định nhất quán chủ trương phát triển KTTBTN, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, khuyến khích TBTN(tư bản tư nhân) đầu tư vào sản xuất,bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp,tạo điều kiện và niềm tin để các nhà tư bản đàu tư vào phát triển sản xuất. 2. 2. 4) Thành phần kinh tế tư bản nhà nước (KTTBNN). Là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn hợp giữa Nhà nước và TBTN trong và ngoài nước,nhằm sử dụng phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia,đặt dưới sự kiểm soát và giúp đỡ của Nhà nước . KTTBNN có vai trò quan trọng trong việc huy động, sử dụng nguồn vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các nhà tư bản. Lê _nin chỉ rõ:”trong một nước tiểu nông …phải xuyên qua CNTBNN,tiến lên CNXH. ” Tong thời kỳ quá độ lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta, phải sử dụng CNTBNN vì: Do yêu cầu của việc dùng quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Do yêu cầu của việc thu hút vốn, kỹ thuật -công nghệ nước ngoài để nhanh chóng páht triển lực lượng sản xuất. Do yêu cầu của việc phát triển nền kinh tế theo đúng định hướng XHCN. Như vậy, trong thời kỳ quá độ KTTBNN có vị trí quan trọng trong việc huy động về vốn,kỹ thuật công nghệ hiện đại,khả năng tổ chức quản lý của các nhà tư bản vì lợi ích cả bản thân họ cũng như của công cuộc xây dựng CNXH. KTTBNN được coi là khâu trung gian để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta, nên sự phát triển của thành phần này có tầm quan trọng đặc biệt. Đảng ta cũng đã chỉ rõ ra là:phải áp dụng rộng rãi các hình thức KTTBNN để phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng XHCN. Từ khi có luật đầu tư nước ngoài, KTTBNN phát triển mạnh, góp, phần không nhỏ vào phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Tuy nhiên trong quá trình hình thành và phát triển nảy sinh nhiều vấn đề thực tiễn cần phải giảp quyết như:vấn đề về hoàn thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, bảo vệ lợi ích người lao động. 2. 2. 5)Kinh tế cá thể tiểu chủ. Là thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh dựa trên tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân người sở hữu. Kinh tế cá thể tiểu chủ tồn tại trong nhiều ngành sản xuất cả ở thành thị và nông thôn. Hiện nay, thành phần kinh tế này tồn tại dưới hình thức kinh tế hộ gia đình. Thế mạnh của thành phần kinh tế này là phát huy nhanh, có hiệu quả tiền vốn sức lao động, tay nghề, sản phẩm truyền thống, tạo ra nhiều của cải vật chất và góp phần giải quyết việc làm. Vì thế nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp vào phát triển kinh tế -xã hội, nó cũng có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở VN. Đảng và Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế chủ trương giúp đỡ kinh tế cá thể tiểu chủ về vốn, khoa học- công nghệ, thị trường tiêu thụ sản phẩm …Song kinh tế cá thể tiểu chủ cũng có những hạn chế vốn có của nó không phù hợp với kinh tế XHCN. Vì vậy cần hướng dẫn nó đi vào làm ăn một cách hợp tác tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các doanh nghiệp Nhà nước và hợp tác xã… Như vậy nền kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ tồn tại nhiều thành phần kinh tế với những kiểu sản xuất hàng hoá không cùng bản chất vừa mâu thuẫn vừa thống nhất với nhau. Các thành phần kinh tế trong quá trình hoạt động không biệt lập mà gắn bó đan xen xâm nhập lẫn nhau thông qua các mối liên hệ kinh tế. Mỗi thành phần kinh tế đều có vai trò và chức năng của nó trong đời sống kinh tế xã hội và đều chịu sự điều tiết thông nhất của Nhà nước. Các thành phần kinh tế đều là yếu tố điều tiết thống nhất của hệ thống các quy luật kinh tế đang tác động trong thời kỳ quá độ. Bên cạnh việc tồn tại nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế. Trong nền KTTT định hướng XHCN ở VN còn thực hiện nhiều hình thức phân phối. 3) Đặc trưng về cơ chế phân phối trong nền KTTT định hướng XHCN ở VN. Phân phối là một khâu không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, phục và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Mặt khác, quan hệ phân phối còn là một yếu tố rất trọng yếu của quan hệ sản xuất, nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên với lợi ích của toàn xã hội. Tính chất của quan hệ phân phối do tính chất của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất quyết định. Bản thân phân phối là sản phẩm của nền sản xuất không chỉ về nội dung mà cả về hình thức, bởi vì phương thức tham gia vào sản xuất của con người quyết định hình thức đặc thù của phân phối. Khi nói về cơ sở kinh tế của sự phân phối, ở đây bao hàm ý nghĩa nói đến việc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân mỗi thành viên trong xã hội. Nhưng vì sự phân phối bao giờ cũng gồm cả phân phối cho sản xuất- xem là yếu tố của sản xuất, và phân phối cho tiêu dùng xem là kết quả của quá trình sản xuất, cho nên không phải toàn bộ sản phẩm xã hội tạo ra đều được phân phối cho tiêu dùng cá nhân. Trước hết, xã hội cần phải trích ra một phần để: Để bù đắp những tư liệu sản xuất đã hao phí. Mở rộng sản xuất. Lập quỹ dự phòng khi tai họa bất ngờ. Phần trích này là một tất yếu về kinh tế, vì nếu không khôi phục, mở rộng sản xuât thì không thể đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội để tiêu dùng. Nhưng trước khi tiến hành phân phối trực tiếp cho tiêu dùng cá nhân còn phải trích một phần để: Chi phí về quản lý hành chính và tổ chức, bảo vệ Tổ quốc. Mở rộng các sự nghiệp phúc lợi công cộng và cứu tế xã hội. Sau đó, phần vật phẩm còn lại mới được trực tiếp phân phối tiêu dùng cá nhân của những người làm việc trong nền sản xuất xã hội phù hợp với số lượng và tài sản mà họ đóng góp vào quá trình sản xuất. Trong thời kỳ quá độ hiện nay ở nước ta có một số hình thức phân phối sau đây: Một là: Phân phối theo lao động. Hai là: Phân phối ngoài thù lao lao động, thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Ba là: Phân phối theo tài sản, vốn và những đóng góp khác. Trong đó phân phối theo lao động là hình thức chủ yếu, phân phối ngoài thù lao lao động và qua các quỹ phúc lợi xã hội ngày càng trở nên quan trọng. Hai cách phân phối này dựa vào nhau bổ sung cho nhau để góp phần giải quyết những yêu cầu chung của xã hội. Đồng thời phân phối theo tài sản, vốn, và những đóng góp khác ngày nay cũng trở thành một tất yếu hợp quy luật. 3. 1) Phân phối theo lao động là hình thức phân phối căn bản, là nguyên tắc phân phối chủ yếu thích hợp nhất với các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất. Trong thành phần kinh tế này, tất cả mọi người đều có quyền bình đẳng đối tư liệu sản xuất, thì chỉ có thể thực hiện việc phân phối thông qua việc lấy lao động làm thước đo. Đối với thành phần này việc phân phối theo lao động là tất yếu: Do dựa cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất mà chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ. Quyền làm chủ của người lao động về mặt kinh tế được xác lập. Lao động trở thành cơ sở quyết định địa vị xã hội và phúc lợi vật chất của mỗi người. Vì vậy mà phân phối theo lao động phù hợp vơí quan hệ sản xuất của thành phần kinh tế này. Hiện tại ở nước ta vẫn còn có sự khác biệt giữa các loại lao động như: lao động trí óc, lao động chân tay, lao động phức tạp, lao động giản đơn… Do đó mà cần phải dựa vào kết quả lao động để phân phối. Mặt khác trong xã hội nước ta hiện nay vẫn còn có những người muốn trút bỏ gánh nặng lao động cho người khác. Nền kinh tế nước ta vẫn còn trong tình trạng lạc hậu. Trong tình hình đó phân phối theo lao động là phù hợp. Để thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động đòi việc trả công phải căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động của mỗi người phải trả công bằng nhau cho lao động ngang nhau, trả công khác nhau cho lao động khác nhau với tất cả mọi người. Thực hiện tốt nguyên tắc theo lao động có tác dụng to lớn đối với xã hội và bản thân người lao động: Một là: Nó đáp ứng được những đòi hỏi cấp bách của sự công bằng xã hội đang đặt ra ở nước ta, nó kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của từng cá nhân người lao động. Hai là:Nó khuyến khích người lao động đi sâu vào nghề nghiệp chuyên môn,làm cho đội ngũ những người lao động lành nghề ngày càng đông đảo. Ba là:Tạo điều kiện cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lực sức lao động được ổn định trong cả nước, đảm bảo cho sản xuất xã hội phát triển cân đối có kế hoạch. Bốn là: Góp phần giáo dục về quan điểm,thái độ và kỷ luật lao động đối với mỗi thành viên trong xã hội. Nó làm cho bản thân người lao động vì lợi ích của bản thân mình mà quan tâm đến kết quả lao động của mình,từ đó ra sức đẩy mạnh sản xuất. 3. 2) Phân phối theo tài sản hay nguồn vốn và những đóng góp khác. Một đặc điểm khá rõ nét của nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ là:xây dựng CNXH từ một nến sản xuất nhỏ trong tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn. Một phần tương đối lớn vốn hiện nay vẫn còn nằm rải rác phân tán trong tay người lao động,tư hữu nhỏ,tư sản nhỏ. Để có thể sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này cho sản xuất xã hội chúng ta không thể áp đặt các chính sách áp đặt như trưng thu, trưng mua hay đóng góp cổ phần một cách bình quân. Tất cả các cách làm đó đều làm suy yếu lực lượng sản xuất vốn có của xã hội. ở nước ta đã xuất hiện một số biện pháp huy động vốn như: một số đơn vị quốc doanh và tập thể huy động vốn dưới các vay vốn, hùn vốn góp cổ phần …cách làm như vậy đã có tác dụng đưa nguồn vốn nhàn rỗi vào chu chuyển. Qua đó kinh tế quốc doanh và tập thể nắm giữ nguồn vốn lớn hơn nhiều so với vốn tự có. Thích ứng với điều kiện cụ thể của nước ta trong thời kỳ quá độ,xét trên mặt lợi ích kinh tế,chính trị và nhiệm vụ phát triển đất nước,cần tạo đủ các điều kiện pháp lý để các thành phần kinh tế,tư nhân, cá thể,tất cả thành viên trong xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Với quan điểm đó,cần phải xem việc phân phối theo kết quả sản xuất kinh doanh,theo vốn và theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình sản xuất xã hội dưới hình thức lợi tức và lợi nhuận là một hình thức phân phối hợp pháp. 3. 3) Phân phối ngoài thù lao lao động và thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Phân phối theo thù lao lao động và phân phối theo tài sản,vốn đầu tư là tất yếu khách quan. trong thời kì quá độ, các hình thức phân phối đó thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển và tạo lập sự công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Nhưng trong điều kiện cụ thể của nước ta hiện nay,ngoài những người có sức khoẻ đang làm việcđược trả công theo lao động,những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất kinh doanh để thu được lợi tức và lợi nhuận thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác không thể tham gia vào lao động để được trả công của xã hội. Đời sống của số đông người này là do gia đình họ hoặc xã hội đảm bảo. Mặt khác,với những cán bộ công nhân viên chức Nhà nước thì mức sống của họ cũng dựa một phần vào các quỹ phúc lợi công cộng của Nhà nước,của các doanh nghiệp. Với đặc điểm đó,ở nước ta hiện nay ngoài hai hình thức phan phối trên còn áp dụng hình thức phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Hình thức phân phối này là môt sự bổ sung cần thiết và quan trọng đối với nguyên tắc phân phối theo lao động. Nó thích hợp nhất với việc thoả mãn những nhu cầu công cộng của xã hội. Nó có lợi trước hết cho những gia đình mà mà thù lao lao động tính theo đầu người thấp hơn mức bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất,kích thích sự phát triển toán diện của mỗi thành viên trong xã hội. Trong điều kiện kinh tế_chính trị _ xã hội ở nước ta hiện nay việc áp dụng hình thức phân phối này được coi là mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội và côn người,khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân và tập thể. Đảm bảo sự thống nhất giữa các chính sách kinh tế và các chính sách xã hội. Trong khi năng suất lao động còn thấp, nguồn thu của ngân sách còn hạn chế, cần phải xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề chính sách xã hội, phải huy động mọi khả năng của Nhà nước và nhân dân, trung ương và từng địa phương cùng làm. Như vậy, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta gồm nhiều thành phần kinh tế thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập. Chỉ có như vậy mới khai thác được tiềm năng của cơ cấu kinh tế thành phần, huy động được mọi nguồn lực của đất nước vào việc phát triển kinh tế. 4. Cơ chế vận hành nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 4. 1 Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có quản lý của Nhà nước theo XHCN. Điều đó có nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta cũng vận động theo những quy luật nội tại của nền kinh tế thị trường nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Sự quản lý của nhà nước nhằm khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được. Cơ chế kinh tế hiện nay ở Việt Nam đã khác hẳn với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trước đây. Trước hết, cơ chế này được xây dựng trên nền tảng đa thầnh phần kinh tế và hỗn hợp các hình thức sở hữu. Thứ hai, Nhà nước điều hành nền kinh tế không phải bằng hệ thống các chỉ tiêu kế hoạch là chủ yếu mà bằng hệ thống pháp luật - hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô căn cư vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Thứ ba, về cơ bản các doanh nghiệp đã hoạt động theo nguyên tắc hạch toán đầy đủ, lời ăn, lỗ chịu. Thứ tư, cơ chế này được thiết kế theo hướng dần đưa nền kinh tế nước ta hội nhập với nền kinh tế thế giới. Cơ chế đó là phát huy vai trò điều tiết của thị trưòng, hình thành bước đầu một thị trưòng cạnh tranh, làm cho hàng hoá được lưu thông thông thông suốt,cung cầu được cân đối, thoát khỏi khủng hoảng thiếu, giá cả ổn định dần lạm phát được ngăn chặn. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính chủ động sáng tạo của hộ kinh tế và chủ doanh nghiệp. Ngay phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước cũng được giải phóng khỏi các chỉ tiêu, pháp lệnh để thích ứng theo nhu cầu của thị trường. Cơ chế này cũng đã làm đảo lộn cả hệ thống tư duy và quan điển kinh tế cũ như: vấn đề về sở hữu và thành phần kinh tế với sự đánh giá cao vai trò của chính sách kinh tế nhiều thành phần, đồng thời cũng xác định những biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của khu vực kinh tế quốc doanh cho phù hợp với thực tiễn nước ta. Cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng, giácả từng bước được đổi mới, đặc biệt giá và tỷ giá được hình thành thông qua thị trường tạo bước ngoặt trong cơ chế kinh tế. Tuy nhiên cơ chế thị trường của chúng ta hiện nay còn thiếu đồng bộ, mang nhiều yếu tố tự phát,rối loạn. Trước hết, thể chế thị trường chưa tạo môi trường ổn định và an toàn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là những yếu kém trong thể chế tín dụng, tài chính, tiền tệ đang là lực cản của quá trình chuyển đổi. Sự hình thành và vận động của nền KTTT còn mang nhiều yếu tố tự phát,cơ chế vận hành còn thô sơ tạo điều kiện cho kiểu làm ăn bất chính, cơ chế quản lý dổi mới thiếu triệt để hình thành vùng” tranh tối, tranh sáng”là mảnh đất màu mỡ của tệ nạn tham nhũng và những tiêu cực trong xã hội phát sinh và phát triển. Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là vấn đề hoàn toàn mới mà chưa có tiền đề trong lịch sử, và không có mô hình vạch sẵn. Do vậy không thể ngay từ đầu hình dung được toàn bộ các chi tiết của mô hình, cũng không thể vạch ngay được một lộ trình cứng nhắc của bước chuyểnmà phải vừa thực hiện cơ chế thị trường vừa tổng kết những kinh nghiêm để tiếp tục hoàn thiện mô hình KTTT mà chúng ta đang xây dựng cho phùhợp với đặc điểm kinh tế - chính trị xã hội ở nước ta. Cho đến nay chúng ta đã có những yếu tố cơ bản của cơ chế thị trường mặc dù chưa đầy đủ và hoàn thiện. Điều quan trọng là cơ chế này được nhân dân đồng tình và phát huy được tác dụng trong mọi mặt đời sống KT. Từ thực tiễn quá trình đổi mới cũng đã xuất hiện hàng loạt vấn đề mới đồng thời cũng phát triển thêm nhận thức,khẳng định thêm các quan điểm quan trọng như: quan điểm về CNXH, quan điểm về vai trò của Nhà nước trong nền KTTT. Mà thiếu chúng không thể có cơ sở để vận hành nền kinh tế một cách đúng đắn, phù hợp với điều kiện thực tế ở nước ta. Mặt khác chúng ta không thể phủ định sạch trơn những gì đã đạt được trong mô hình kinh tế cũ. Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nha nước theo định hướng XHCN vai trò quản lý của nhà nước là hết sức quan trọng. Sư quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài Nhà nước lại có thể giảm bớt được chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa nông nghiệp và công nghiệp, giữa các vùng trong của cả nước. Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế phải sao cho tương hợp với thị trường. Vì vậy Nhà nuóc sử dụng các biện pháp kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế. 4. 2)Một trong những đặc trưng nữa của cơ chế thị trường ở nước ta là vận hành theo xu hướng mở cửa và hội nhập với kinh tế thế giới và khu vực. Thực ra đây không phải là đặc trưng riêng của nền KTTT định hướng XHCN mà là xu thế chung của nền kinh tế thế giới hiện nay (ở đây muốn nhấn mạnh giữa nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới với nền kinh tế hiện nay). Trong điều kiện hiện nay, chỉ có mở cửa kinh tế, hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực mới thu hút được vốn, khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến để khai thác hết tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát triển kinh tế theo kiểu rút ngắn. Nhận thức được xu thế tất yếu đó của thời đại nước ta chủ trương mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực. Chúng ta đã thực hiện mở cửa kinh tế theo hướng đa phương hoá đa, dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, trên cơ sở hợp tác, tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi. Chính việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới đã tạo ra bước phát triển mới cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Bên cạnh những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được còn không ít những mặt yếu kém của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam cần có những giải pháp đúng đắn, hợp lý trong thời gian tới. III). Giải pháp phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Để phát triển nền KTTT định hướng XHCN đạt được các mục tiêuđặt ra chúng ta cần thực hiện những giải pháp sau: 1. Giữ vững và tăng cường bản chất của Nhà nước XHCN. Mục tiêu của thời kỳ quá độ là xây dựng thành công cơ sở vật chất của CNXH, tiến tới dân giàu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh. Xây dựng một Nhà nước XHCN vững mạnh của dân, do dân và vì dân. Mặt khác trong thời kỳ quá độ - thời kỳ đổi mới sâu sắc và toàn diện mọi mặt đời sống kinh tế- xã hội. . Do vậy mà, việc tăng cường và giữ vững bản chất XHCN của Đảng, Nhà nước ta, nhằm xây dựng Đảng Nhà nước thành một lực lượng lãnh đạo vững mạnh đủ sức lãnh đạo nền kinh tế đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Trong thời kỳ quá độ chúng ta thực hiện chủ trương phát triển KTTT định hướng XHCN. Thực hiện đa dạng hoá các thành phần kinh tế,các hình thức sở hữu,mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế. Bên cạnh những nhân tố tích cực còn có nhiều mặt tiêu cực cần phải hạn chế luôn đe doạ sự tồn taị của chế độ XHCN của chúng t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50710.doc
Tài liệu liên quan