Đề tài Giải pháp phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam sau khi gia nhập WTO

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ 3

1.1. Quan niệm chung về bán lẻ 3

1.1.1. Khái niệm thị trường bán lẻ 3

1.1.2. Các loại hình bán lẻ 3

1.1.3. Vai trò của hoạt động bán lẻ 5

1.1.4. Chức năng của hoạt động bán lẻ 6

1.2. Thị trường bán lẻ. 7

1.2.1. Khái niệm thị trường bán lẻ 7

1.2.2. Cấu trúc kênh phân phối của thị trường bán lẻ. 7

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển tới thị trường bán lẻ. 12

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM. 14

2.1. Thị trường bán lẻ Việt Nam theo các cam kết gia nhập WTO. 14

2.2. Khái quát chung về thị trường bán lẻ Việt Nam. 14

2.2.1. Thị trường bán lẻ từ năm 1968 - nay 14

2.2.2. Nhu cầu đa dạng về hàng hóa 15

2.3. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam. 16

2.3.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ. 16

2.3.2. Mạng lưới phân phối. 18

2.3.3 Các doanh nghiệp bán lẻ. 19

2.3.4. Giá cả hàng hoá. 22

2.4. Đánh giá chung về thị trường bán lẻ Việt Nam. 24

2.4.1. Ưu điểm 24

2.4.2. Hạn chế 25

2.4.3. Nguyên nhân của hạn chế 26

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 30

1. Quy hoạch tổng thể thị trường. 30

1.1. Quy hoạch mạng lưới bán lẻ. 30

1.3. Tiếp tục mở rộng kênh phân phối. 31

1.4. Phát triển các mô hình tổ chức lưu thông theo từng thị trường ngành hàng. 32

2. Hoàn thiện khung pháp lý. 33

3. Những chính sách hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. 35

4. Đẩy mạnh mối liên kết với các doanh nghiệp. 36

KẾT LUẬN 38

TÀI LIỆU THAM KHẢO

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4151 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển nở rộ. Trong thời gian này, nổi danh trong lĩnh vực bán lẻ như Saigonco.op với hệ thông siêu thị Co.opmart; công ty Đông Hưng với hệ thống siêu thị Citimart... Đến năm 1999, thị trường bán lẻ Việt Nam bắt đầu có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư nước ngoài, đi đầu là tập đoàn Bourbon của Pháp với siêu thị đầu tiên BigC tại Đồng Nai. Tiếp sau đó hàng loạt các tên tuổi khác Metro Cash& Carry (Đức), Parkson( Malaixia)... thâm nhập thị trường bán lẻ Việt Nam. Đến năm 2007 là mốc quan trọng của thị trường bán lẻ Việt Nam. Năm 2007, Việt Nam chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giớ WTO và mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ năm 2009. Thị trường bán lẻ Việt Nam có sự góp mặt của các doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài. Sau 25 năm đổi mới, thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển nhanh chóng. mức tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2001 là 11,3% và năm 2005 là 20,53% (bình quân tăng 16,86%/năm), cao gấp 2,25 lần tốc độ tăng GDP, năm 2008 tăng kỷ lục 31%, cao gấp 4,71 lần tốc độ tăng GDP (bình quân 3 năm 2006 - 2008 tăng 26,32%/năm, cao gấp 3,46 lần tốc độ tăng GDP). Nhu cầu đa dạng về hàng hóa Cùng với sự phát triển của kinh tế nhu cầu về hàng hóa ngày càng đa dạng và phong phú, do thu nhập của người dân tăng lên cùng với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ con người có thể sản xuất được nhiều loại hàng hóa khác nhau để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Trong nền kinh tế thị trường quan hệ cung cầu sẽ định hình thị trường, “có cầu ắt có cung” thế giới có hơn 6 tỷ người với những tầng lớp người sẽ có nhu cầu về hàng hóa khác nhau. Tầng lớp thượng lưu có nhu cầu khác với tầng lớp trung lưu về 1 mặt hàng nào đó. Mà để tồn tại và phát triển con người lại có vô số nhu cầu khác nhau từ ăn mặc, ở, đi lại,học hành,....và có hàng triệu triệu công ty, mỗi công ty cung cấp các nhu cầu chưa được thỏa mãn của con người. Chỉ từ nhu cầu đi lại có nhu cầu sử dụng xe máy, xe đạp, ô tô, máy bay, tàu thủy,.... trong lĩnh vực sản xuất ô tô lại có rất nhiều công ty sản xuất nhằm thỏa mãn từng đoạn thị trường. Trên thực tế nhu cầu của con người là vô tận như họ bị giới hạn bởi khả năng tài chính vì vậy nghiên cứu xem nhu cầu nào chưa được đáp ứng để cung cấp các sản phẩm phục vụ nhu cầu đó thì doanh nghiệp sẽ thành công trong lĩnh vực của mình. Thực trạng thị trường bán lẻ Việt Nam. Từ năm 2005 cho tới nay thị trường bán lẻ Việt Nam phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trên 20% mỗi năm.Trong giai đoạn này có sự tham gia của các tập đoàn bán lẻ lớn trên thế giới. Chính những doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài này đã đem tới động lực mới, phương thức kinh doanh mới… cho thị trường bán lẻ Việt Nam Cùng với chu kỳ suy thoái kinh tế thế giới đã tạo ra 1 bức tranh muôn mầu về thị trường bán lẻ trong nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ. Theo số liệu của tổng cục thống kê thì tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của cả nước luôn đạt tốc độ tăng trưởng trên 20%. Số liệu chi tiết thể hiện thông qua biểu đồ. Biểu đồ 2.1. Tổng mức bán lẻ giai đoạn 2005-2009. Nguồn: Tổng cục thống kê. Tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 2005 – 2009 đều đạt trên 20%. Mức tăng trung bình của thời kỳ này là 26% cao gấp hơn 3 lần so với tốc độ tăng GDP. Đặc biệt năm 2008 tốc độ tăng đạt kỷ lục 34.9% và tổng giá trị đạt 1007.2 ngàn tỷ đồng gấp hơn 2 lần so với tổng mức bán lẻ 2005. Sang năm 2009 tốc độ tăng giảm mạnh xuống còn 20.6% điều này được giải thích bởi tác động của suy thoái kinh tế dẫn đến người dân ít chi tiêu hơn. Tốc độ tăng trưởng kỷ lục vào năm 2008 là do đó là năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO các rào cản dần được xóa bỏ doanh nghiệp nước ngoài ra nhập thị trường dễ dàng hơn tạo ra sự cạnh tranh gay gắt làm cho giá giảm mạnh cộng với cầu tiêu dùng của người dân ngày một cao và tốc độ tăng giá tiêu dùng ở mức cao 22,97%. Tuy nhiên, tổng mức bán lẻ này không có sự đóng góp đồng đều từ các vùng miền trên cả nước. Do điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau nên hoạt động bán lẻ trên các vùng miền trên cả nước cũng có sự khác biệt. Tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ tính theo các vùng miền được thống kê ở bảng dưới đây Bảng 2.1. Tổng mức bán lẻ hàng hoá dịch vụ tính theo các vùng trên cả nước Đơn vị: tỷ đồng 2005 2006 2007 2008 2009 cả nước 480293,5 596207,1 746159,4 1007213,5 1214532,1 Đồng bằng sông Hồng 106737,9 136853,8 171585,0 237424,5 280100,9 Trung du và miền núi phía Bắc 24783,7 29803,0 38015,8 50541,0 60663,8 Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung 76728,3 95477,0 119845,0 156810,5 187346,1 Tây Nguyên 17398,2 21681,0 27870,1 40170,8 48583,1 Đông Nam Bộ 157144,2 196027,9 244059,1 336668,2 414797,2 Đồng bằng sông Cửu Long 97501,2 116364,4 144784,5 185598,5 223041,0 Nguồn : Tổng cục thống kê Nhìn chung, sự phát triển hoạt động bán lẻ của các vùng trên cả nước đều có tốc độ tăng trưởng đồng đều cùng với sự tăng trưởng chung của hoạt động bán lẻ trên cả nước. Trong tất cả các năm, tất cả các vùng thì tổng mức bán lẻ tăng trung bình các năm là khoảng 26,3% Mức tăng của khu vực Tây Nguyên cao nhất trung bình 29,5% /năm và mức tăng thấp nhất thuộc về đồng bằng sông Cửu Long với mức tăng 23%/ năm. Mức tăng trung bình của các vùng trong 2008 là 35,3% trong đó Tây Nguyên có mức tăng cao nhất 44,1% thấp nhất là đồng bằng sông cửu 28,1% Tổng mức bán lẻ đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long luôn chiếm khoảng 1/3 tổng mức bán lẻ của cả nước. Khu vực Đông Nam Bộ với các thành phố mà mức tiêu dùng lớn ( thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Bình Dương...) thì tổng mức bán lẻ lớn nhất so với các vùng khác trên toàn quốc. Tổng mức bán lẻ của Đông Nam Bộ gần bằng tổng mức bán lẻ tại Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long cộng lại. Như vậy, tổng mức bán lẻ tại ba vùng này đã chiếm tới 2/3 tổng mức bán lẻ của cả nước. Hầu hết các siêu thị lớn, trung tâm thương mại hiện đại đều được xây dựng tại những vùng này. Giải thích cho vấn đề này có hai lí do chính. Thứ nhất, tại những vùng này giao thông đi lại và vận chuyển hàng hoá dễ dàng (ở đây là các vùng đồng bằng đường xá thuận tiện, có những cảng biển lớn như Sài Gòn, Hải Phòng...). Thứ hai, tại những vùng này là những trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, dân cư tập trung đông đúc, thu nhập của người dân cũng cao hơn các vùng khác nên sức tiêu thụ sẽ lớn hơn. Ngược lại, tại những vùng giao thông khó khăn, đời sống của người dân còn nhiều khó khăn như Tây Nguyên, Tây Bắc thì tổng mức bán lẻ rất khiêm tốn. Tổng mức bán lẻ Trung du miền núi phía bắc chỉ chiếm hơn kém 5% tổng mức bán lẻ của cả nước. Vùng Tây Nguyên tổng mức bán lẻ cũng luôn chỉ chiếm khoảng 3-4 % tổng mức bán lẻ của cả nước. Do vậy, những vùng này cần sự quan tâm hơn nữa của Nhà nước để phát triển hoạt động bán lẻ Mạng lưới phân phối. Mạng lưới bán lẻ ở Việt Nam chủ yếu được phân phối theo các kênh truyền thống như chợ (bao gồm 8500 chợ), các cửa hàng bán lẻ truyền thống và cửa hàng tạp hóa chiếm trên 80%. Hàng hóa lưu thông qua kênh bán hàng hiện đại (trung tâm thương mại, siêu thị cửa hàng tự chọn) chiếm khoảng 12% với 451 siêu thị trên cả nước tập trung chủ yếu ở 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra hàng hóa còn được lưu thông qua các doanh nghiệp trược tiếp sản xuất hình thức này chiếm khoảng 6%. Hàng hóa ở các vùng sâu, vùng xa thuộc các tỉnh phía nam, miền trung và miền bắc, tiểu thương, tư thương đảm nhận vai trò phân phối hàng là chủ yếu. Nếu đem so sánh với các nước khác trên thế giới thì càng chứng tỏ hệ thống phân phối bán lẻ của Việt Nam vẫn còn lạc hậu. Tại các nước phát triển thị phần của siêu thị trong lĩnh vực bán lẻ chiếm tới 80-90%. Ở các nước như Nam Mỹ, Đông Á trừ Trung Quốc thì lượng hàng hóa qua kênh phân phối hiện đại chiếm tới 50-60%. Ngay cả các nước ở Đông Nam Á ( Thái Lan, Philipin) tỷ lệ này cũng là 30-50%. Các doanh nghiệp bán lẻ. Theo tổng cục thống kê số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối năm 2005 là 22736 doanh nghiệp thì năm 2008 số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này là 44609 tăng gần gấp đôi. Các doanh nghiệp bán lẻ gồm 13304 năm 2005 và năm 2008 là 24226 tăng 82% . Các doanh nghiệp bán lẻ (bao gồm tất cả các doanh nghiệp bán lẻ chính thống và các doanh nghiệp thương mại khác thực hiện thêm chức năng bán lẻ, chẳng hạn doanh nghiệp bán buôn nhưng vẫn tham gia bán lẻ) ở các thành phần kinh tế khác nhau có mức đóng góp trong tổng mức bán lẻ cũng khác nhau. Có thể nhìn vào biểu đồ cơ cấu các thành phần kinh tế trong tổng mức bán lẻ hàng hóa để thấy rõ hơn điều đó. Biểu đồ 2.3 Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của cả nước phân theo cơ cấu các thành phần kinh tế giai đoạn 2005 – 2009 ( Nguồn tổng cục thống kê) Thông qua biểu đồ có thể thấy thị trường bán lẻ đã có sự thu hút và tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thấp thường ở mức dưới 4% và tốc độ tăng hàng năm không cao và có sự sụt giảm vào các năm 2008 và 2009. Điều này được giải thích bởi trước năm 2007 Việt Nam chưa là thành viên của WTO nên các doanh nghiệp nước ngoài muốn tham gia thị trường phải dưới hình thức góp vốn liên doanh và luật pháp việt nam vẫn còn hạn chế khu vực này. Sang năm 2008 tuy Việt Nam đã gia nhập WTO các dào cản gia nhập dần được xóa bỏ việc gia nhập thị trường dễ dàng hơn tuy nhiên đây là thời kỳ kinh thế thế giới bước vào chu kỳ suy thoái các doanh nghiệp nước ngoài không đẩy mạnh gia nhập thị trường. Tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ của thành phần kinh tế nhà nước giảm trong khoảng 2005 -2009 trung bình là 1,1% 1 năm do nhiều doanh nghiệp nhà nước kinh doanh theo kiểu kinh doanh bao cấp làm ăn thua lỗ đã bị giải thế. Bởi vậy, năm 2005 tỷ trọng thành phần kinh tế này là 12,9% thì đến năm 2009 là 9,7%. Thành phần kinh tế ngoài nhà nước (bao gồm các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình bán lẻ) với sự năng động nhạy bén của mình thực sự đã chiếm phần chi phối thị trường bán lẻ. Tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ của thành phần kinh tế này luôn trên 80% và tăng đều đặn qua các năm. * Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam: Dưới đây là một số doanh nghiệp bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam: Liên hiệp tác xã thương mại Sài Gòn Co.op khi ra đời có vốn ban đầu 100 triệu đồng đến nay tổng tài sản trị giá vài trăm tỷ đồng và hiện là DNBL hàng đầu tại Việt Nam. Đến nay Sài Gòn Co.op đã có 47 siêu thị (tính đến tháng 11/2010) mang nhãn hiệu Co.op Mart hoạt động chủ yếu ở TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Quy Nhơn, Tiền Giang sắp tới là An Giang, Vĩnh Long, Long An. Ngoài ra doanh nghiệp này còn mở rộng thêm kênh phân phối là các cửa hàng tiện lợi mang tên Co.op. Công ty cổ phần Thương mại và dịch vụ G7: Công ty chủ trương xây dựng hệ thống chuỗi các cửa hàng tiện lợi G7 Mart. Công ty chủ trương không hình thành những cửa hàng trong chuỗi các cửa hàng được trang bị quá hiện đại. Mỗi cửa hàng công ty chỉ đầu tư khoảng từ 50-200 triệu. Chủ yếu các cửa hàng là các cửa hàng có sẵn cơ sở vật chất (địa điểm cửa hàng) nhân công tại chỗ ( chủ cửa hàng). Điểm chung nhất của các cửa hàng này là chuẩn hoá. Tức là công ty tiến hành nâng cấp, trang trí thiết kế lại cửa hàng; tổ chức trưng bày lại hàng hoá; thống nhất và ổn định nguồn cung; chuẩn hoá các dịch vụ thông qua đào tạo kỹ năng bán hàng, ứng dụng công nghê... Hiện nay dự án bán lẻ này phát triển rất nhanh chóng đã có tới hơn 500 cửa hàng tiện lợi được thành lập. Công ty trách nhiệm hữu hạn Phú Thái: Đây là một tập đoàn phân phối phát triển rất nhanh và có phong cách làm việc rất hiện đại, chuyên nghiệp. Công ty có tốc độ tăng trưởng ấn tượng trung bình khoảng 40% / năm trong những năm gần đây. Hiện nay công ty đã có hơn 3000 đại lý bán sỉ; 50000 đại lý bán lẻ; hàng trăm nhà phân phối phụ... Công ty cổ phần đầu tư và phát triển hệ thống phân phối Việt Nam VDA: Công ty được thành lập dựa trên sự liên kết của 4 doanh nghiệp bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam : công ty trách nhiệm hữu hạn Phú Thái; tổng công ty Sài Gòn Co.op; Công ty Thương mại Sài Gòn (SATRA); tổng công ty thương mại Hà Nội (HAPRO). Công ty này được kỳ vọng sẽ là công ty đầu tàu trên thị trường bán lẻ Việt Nam. Đồng thời, sự thành lập của công ty có thể coi là bước đi kịp thời của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đó là thành lập các tổng công ty mạnh về vốn và quy mô để có thể cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. Một số doanh nghiệp bán lẻ có quy mô lớn khác: Hệ thống chuỗi siêu thị thời trang Vinatex của Tổng công ty Dệt may Việt Nam, tính đến đầu năm 2010 đơn vị đã phát triển được 56 điểm bán hàng có mặt trên 24 tỉnh thành trong nước. Hiện nay, đơn vị đang kinh doanh 50.000 mặt hàng do trên 800 nhà cung ứng gồm 5 ngành hàng chính: Dệt may, thực phẩm, hóa phẩm, hàng gia dụng, lưu niệm và đồ chơi trẻ em. công ty trách nhiệm hữu hạn Cà phê Trung Nguyên với trên 100 cửa hàng; công ty trách nhiện hữu hạn An Nam cớ 12 cửa hàng Phở 24... * Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài: Doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam từ năm 1997. Số lượng các doanh nghiệp tăng lên 1 cách nhanh chóng kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO cuối năm 2007 và giảm mạnh đầu năm 2009 do sự suy thoái của kinh tế thế giới Nhìn chung các doanh nghiệp nước ngoài có ưu thế về vốn, hệ thống phân phối và trình độ quản lý hiện đại các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài tiêu biểu ở Việt Nam như: Tập đoàn Bourbon của Pháp: Tập đoàn này bắt đầu hoạt động tại Việt Nam năm 1999 khi mở siêu thị Big C tại Đồng Nai. Hoạt động kinh doanh của tập đoàn này rất phát triển. Doanh số kinh doanh trung bình các năm luôn lên tới 20- 30%. Hệ thống các siêu thị Big C cũng không ngừng được mở rộng: Big C Thăng long Hà Nội, Big C tại Hồ Chí Minh, Big C tại Hải Phòng.Hệ thống Big C được đánh giá là một trong những hệ thống siêu thị bán lẻ lớn nhất tại Việt Nam. Tập đoàn Metro Cash & Carry của Đức: Đây là tập đoàn bán lẻ lớn thứ 3 trên thế giới. Tập đoàn này bắt đầu mở 2 siêu thị bán buôn đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 3/2002 và tháng 12/2002. Hệ thống siêu thị bán buôn Metro là những kiểu mẫu cho loại hình hệ thống phân phối dọc do thành viên là nhà bán buôn có quy mô lớn và có ảnh hưởng lớn trong công tác quản lý. Hệ thống siêu thị Metro đem lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng: + Chủng loại hàng hoá đa dạng + Giá rẻ: Nhờ có sức mua lớn và chi phí thấp nên Metro đảm bảo cung ứng hàng chất lượng cao với giá rẻ nhất cho khách hàng + Dịch vụ hậu mãi: Bộ phận dịch vụ khách hàng hỗ trợ một cách hữu hiệu mọi vấn đề liên quan đến bảo hành sản phẩm + Nhà kho của khách hàng: Nhờ có hệ thống quản lý hiện đại của Metro, mọi hàng hoá luôn sẵn sàng thoả mãn nhu cầu theo số lượng, giúp các nhà bán lẻ giảm tối đa lượng hàng lưu kho và vận dụng tối đa nguồn vốn. + Ngoài ra: bãi đậu xe miễn phí, thông tin trực tiếp đến khách hàng, giờ mở của thuận tiện... Chính những lợi thế cạnh tranh lớn như vậy mà trong vòng 8 năm (tính đến hết 11/2010) hệ thống siêu thị của Metro đã lên tới con số 12 Bên cạnh đó cũng cần kể đến một số doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài khác như: Parkson (Malaisia), Zen plaza (Nhật Bản)... 2.3.4. Giá cả hàng hoá. Các mặt hàng trên thị trường bán lẻ chủ yếu là các mặt hàng thuộc nhóm hàng tiêu dùng. Do điều kiện kinh tế sản xuất phát triển cộng với chính sách mở cửa nền kinh kế khá thông thoáng của Nhà nước nên trong những năm gần đây hàng hoá trên thị trường bán lẻ rất phong phú, đa dạng. Người tiêu dùng đã ngày càng được tiếp cận, tiêu dùng những sản phẩm hiện đại, mẫu mã hợp thời trang và chất lượng đảm bảo. Rất nhiều thương hiệu nước ngoài như Sony, Sam sung, Nokia...xuất hiện tại Việt Nam đã tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn hơn cho người tiêu dùng. Đồng thời, khối lượng hàng hoá sản xuất, nhập khẩu, cung ứng trên thị trường cũng luôn luôn dồi dào đủ đảm bảo cung ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Ngoài ra, số lượng và chất lượng hàng hoá thì giá cả cũng là một yếu tố rất đáng quan tâm của người tiêu dùng. Giá cả hàng hoá trên thị trường bán lẻ Việt Nam trong những năm gần đây biến động mạnh. Chỉ số giá tiêu dùng được thể hiện qua đồ thị sau. Biểu đồ 2.4. chỉ số giá tiêu dùng (giai đoạn 2005- 2009) Bảng 2.4. chỉ số giá tiêu dùng (2005-2009) 2005 2006 2007 2008 2009 chỉ số giá tiêu dùng 108,29 107,48 108,30 122.97 106,88 hàng ăn và dịch vụ ăn uống 111,32 108,70 111,16 136,57 108,71 lương thực 109,48 108,91 115,02 149,16 104,57 thực phẩm 112,13 108,48 110,07 132,36 108,39 đồ uống và thuốc lá 104,07 104,97 106,02 110,75 109,56 may mặc, giày dép, mũ nón 104,20 105,88 106,15 110,33 108,87 nhà ở và vật liệu xây dựng 107,05 108,90 111,02 120,51 103,46 thiết bị và đồ dùng gia đình 104,34 105,56 106,15 109,06 108,53 dược phẩm, y tế 105,38 104,89 105,12 108,87 106,10 phương tiện đi lại, bưu điện 108,20 107,22 103,60 116,00 97,86 giáo dục 101,74 104,40 103,30 104,16 105,72 văn hóa, thể thao, giải trí 101,58 103,00 103,18 105,87 105,70 hàng hóa dịch vụ khác 105,79 106,12 107,72 113,17 111,33 Nguồn: Tổng cục thống kê Như vậy, giá cả hàng hoá trên thị trường biến động mạnh có những diễn biến thất thường khó đoán trước. Năm 2008 với tốc độ tăng giá kỷ lục 22,97% cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây là 1 thách thức lớn trong việc bình ổn thị trường, phát triển kinh tế. Đánh giá chung về thị trường bán lẻ Việt Nam. Ưu điểm + Hệ thống chợ trên toàn quốc tiếp tục nhận được sự quan tâm của Chính phủ và các địa phương. Đầu tư xây mới hệ thống truyền thống ở vùng nông thôn theo hướng hiện đại gồm nhiều cả cửa hàng kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau. Ngoài ra, rất nhiều chính sách hỗ trợ, chính sách nhằm huy động nguồn lực địa phương, chính sách phát triển nguồn nhân lực, thay đổi cơ chế quản lý chợ... cũng được các địa phương lưu tâm. + Đã bắt đầu có sự liên kết giữa các nhà bán lẻ trong nước: Nhiều tập đoàn, hãng , tổng công ty bán lẻ đã được hình thành trên cơ sở kết hợp hoạt động của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Công ty cổ phần đầu tư và phát triển hệ thống phân phối Việt Nam VDA là một ví dụ điển hình. Nhiều tổng công ty như : Tổng công ty thương mại Sài Gòn, Tổng công ty thương mại Hà Nội... đã chuyển đổi hoạt động theo mô hình công ty mẹ, công ty con để tăng tính năng động, linh hoạt của các công ty thành viên. + Đã bắt đầu đẩy mạnh xây dựng các mô hình kinh doanh bán lẻ hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại. Nhiều doanh nghiệp bán lẻ đã ứng dụng các phương thức hoạt động bán lẻ tiên tiến: thiết lập hệ thống phân phối từ nhà sản xuất, có chương trình quảng cáo, khuyến mại, chăm sóc khách hàng, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và phân phối hàng hoá. + Các doanh nghiệp bán lẻ trên thị trường đã bắt đầu quan tâm, tìm hiểu và nắm bắt được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. + Chính phủ đã xây dựng và phổ biến rộng rãi “Đề án phát triển thương mại nông thôn giai đoạn 2010-2015, định hướng đến năm 2020”. Việc phổ biến rộng rãi đề án này, một mặt nâng cao nhận thức về cơ hội và thách thức khi gia nhập WTO đối với thương mại nói chung và thị trường bán lẻ nói riêng. Mặt khác, nó tác động tới cộng động các doanh Hạn chế + Thị trường bán lẻ Việt Nam nhìn chung vẫn phân phối hàng hoá theo kiểu truyền thống. Đa phần hàng hoá đến với tay người tiêu dùng thông qua hệ thống chợ các cửa hàng bán lẻ truyền thống. Hệ thống chợ trên toàn quốc vẫn tồn tại nhiều chợ cóc, chợ tạm, chợ họp lề đường dẫn tới tình trạng tắc nghẽn giao thông và khó quản lý chất lượng hàng hoá. Các cửa hàng bán lẻ truyền thống ở Việt Nam có diện tích rất nhỏ với trang thiết bị thô sơ, phương thức quản lý lạc hậu. + Tỷ trọng giá trị dịch vụ phân phối trong GDP của Việt Nam năm 2010 ước khoảng 14% GDP sử dụng 5 triệu lao động thị trường bán lẻ Việt Nam vẫn chưa phát huy vai trò của mình đối với sự phát triển của đất nước. + Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam sức cạnh tranh còn yếu trước sự lấn lướt của các doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp nội địa yếu về mọi mặt: năng lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, khả năng liên kết, hoạt động marketing...Chưa hình thành được những doanh nghiệp bán lẻ đầu tàu có khả năng dẫn dắt các doanh nghiệp khác và đủ năng lực cạnh tranh với các tập đoàn bán lẻ nước ngoài. + Các yếu tố khoa học kỹ thuật chưa được ứng dụng nhiều trong hoạt động bán lẻ. Thương mại điện tử phát triển còn non trẻ. Các loại hình kinh doanh hiện đại khác như : sàn giao dịch hàng hoá, trung tâm đấu giá... còn chưa xuất hiện. + Hàng hoá trên thị trường bán lẻ phải trải qua quá nhiều tầng lớp trung gian nên giá cả và chất lượng hàng hoá trên thị trường rất khó kiểm soát. + Các doanh nghiệp làm nhiệm vụ bán buôn chưa nhiều. Đồng thời quy mô của các doanh nghiệp bán buôn cũng chưa đủ lớn để giữ vai trò định hướng cho các doanh nghiệp sản xuất, dẫn đến các doanh nghiệp sản xuất lại tự tổ chức hệ thống tiêu thụ, còn doanh nghiệp thương mại lại tự đầu tư vào sản xuất. Chính vì chưa có nhà bán buôn chuyên nghiệp và quy mô nên người kinh doanh bán lẻ phải tự tìm đến các nhà sản xuất và ngược lại. Tại một siêu thị bán lẻ có đến hàng trăm, hàng nghìn nhà cung cấp khác nhau. Do vậy, số lượng và chất lượng hàng hoá cũng khó đảm bảo ổn định. Nguyên nhân của hạn chế - Chính sách hỗ trợ của Chính phủ: Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện đang rất cần chính sách hỗ trợ của chính phủ về mặt bằng kinh doanh. Địa điểm, mặt bằng kinh doanh là một yếu tố vô cùng quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp bán lẻ. Nhiều khi doanh nghiệp có vốn rồi, có phương án kinh doanh rồi nhưng vẫn không thể có được mặt bằng kinh doanh do gặp khó khăn trong việc giải phóng. Theo đánh giá của các chuyên gia thì mặt bằng kinh doanh là một lợi thế của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Trước khi các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài tràn vào thì Nhà nước cần nhanh chóng hỗ trợ các doanh nghiệp bán lẻ nội địa để có thể chiếm giữ những mặt bằng kinh doanh thuận lợi. - Năng lực tài chính của các doanh nghiêp: Ngoài trừ các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài có năng lực tài chính dồi dào thì các doanh nghiệp bán lẻ trong nước nguồn vốn còn hạn chế. Một phần là đa số các doanh nghiệp trong nước mới được thành lập thời gian hoạt động ngắn nên nguồn vốn tích luỹ không nhiều. Phần khác là các doanh nghiệp bán lẻ trong nước chủ yếu là nhỏ bé mới mang tầm quốc gia. Nguồn vốn trung và dài hạn hạn chế ảnh hưởng rất nhiều tới khả năng mở rộng mạng lưới phân phối của các doanh nghiệp. Cụ thể để có thể mở một siêu thị hạng trung bình cần có 20- 30 tỷ đồng. Mà doanh nghiệp không thể lấy nguồn vốn đó từ hoạt động kinh doanh từ các cơ sở cũ. Do đặc thù của ngành bán lẻ là điểm hoà vốn cao, thời gian thu hồi vốn chậm. Bởi vậy, doanh nghiệp phải đi vay vốn tại ngân hàng. Ngân hàng yêu cầu doanh nghiệp nhất thiết phải có tài sản thế chấp và không chấp nhận tín chấp theo đó doanh nghiệp thực sự khó khăn trong việc huy động vốn để phát triển sản xuất. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ nội địa chủ yếu hoạt động vẫn theo kiểu đại lý, ký gửi và các yếu tố khác như nhân công, phí vận chuyển, chi phí điện... tăng cao cũng khiến cho nguồn tài chính doanh nghiệp thêm khó khăn. -Hệ thống cơ sở hạ tầng: Hệ thống đường giao thông Việt Nam thực sự là một vấn đề nhức nhối. Do đường xá chất lượng kém khiến cho tốc độ và lưu lượng vận chuyển hàng hoá thấp. Bởi vậy, nó làm tăng chi phí vận chuyển hàng hoá và bảo quản của doanh nghiệp đẩy giá hàng hoá tăng cao khi đến tay người tiêu dùng. Ví dụ như: một con tôm từ Thái Bình có giá ơ ngoài bờ đê là 90 ngàn/ kg . Quá trình vận chuyển tốn đến 3- 4 h mặc dù có 80 km đường, do đường xấu và phải qua 3 trạm kiểm soát. Phải qua trung gian khi con tôm đến với tay người tiêu dùng Hà Nội tại các chợ giá đã tăng 30% lên 120 ngìn/kg. Ngoài ra giao thông nội thị cũng là một vấn đề đáng bàn. Giao thông tại các thành phố đặc biệt là các thành phố lớn , nơi tập trung nhiều siêu thị và trung tâm thương mại thì thường xuyên xảy ra tình trạng tắc đường. Điều này gây tâm trí lo ngại ra đường tới các siêu thị, trung tâm thương mại mua sắm. Thay vào đó họ mua sắm hàng hoá tại các cửa hàng bách hoá, chợ cóc ở gần nhà. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì giá thuê mặt bằng cũng tăng theo. Đối với các doanh nghiệp bán lẻ thì mặt bằng chính là lợi thế chiến lược của họ. Mặt bằng ở khu vực trung tâm, mặt bằng rộng rãi là những điểm cạnh tranh vô cùng lớn của các doanh nghiệp bán lẻ. Theo nghiên cứu của tập đoàn Carrefour thì để mở một siêu thị cỡ trung bình thì thu nhập của người dân khu vực quanh đó cần tối thiểu là 1000 USD / năm. Như vậy, các siêu thị và trung tâm thương mại chỉ có thể được xây dựng ở các thành phố lớn tại Việt Nam như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh... Điều này cộng với nhu cầu mua sắm của người dân tăng cao cộng với quỹ đất để phát triển sản xuất giảm đi khiến cho giá thuê mặt bằng tại Việt Nam rất cao và có xu hướng tăng thêm trong thời gian tới. Không chỉ các nhà sản xuất nội địa lo ngại trước giá thuê mặt bằng mà các doanh nghiệp nước ngoài với nguồn tài chính dồi dào cũng ngần ngại. Cụ thể giá thuê mặt bằng tại thành phố Hồ Chí Minh là 80 US

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGiải pháp phát triển thị trường bán lẻ Việt Nam sau khi gia nhập WTO.doc
Tài liệu liên quan