LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG 1:NGHIỆP VỤ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Cỏc hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.1. Khỏi niệm vờ Ngân hàng thương mại.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
1.1.2.2. Hoạt động cho vay và đầu tư
1.1.2.3. Hoạt động thanh toán
1.1.2.4. Các hoạt động kinh doanh khác
1.2. Cỏc hỡnh thức huy động vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại
1.2.2. Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
1.2.2.1. Huy động vốn dưới hỡnh thức tiền gửi:
1.2.2.2. Huy động vốn thông qua phát hành chứng chỉ tiền gửi có mệnh giá lớn:
1.2.2.3. Huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu:
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn
1.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến nghiệp vụ huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
73 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1230 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp tăng cường hoạt động huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa NH. Hiện nay, trong nền kinh tế thị trường hướng hoạt động kinh doanh của các NHTM đều hướng theo phương châm đi vay để cho vay, không sử dụng đến nguồn vốn cấp phát, huy động theo hướng có lợi cho kinh doanh.
2.2.2.1. Các nguồn vốn huy động:
Cách thức huy động vốn chủ yếu được áp dụng trong thời gian qua tại BIDVHN là: Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm dân cư, phát hành giấy tờ có giá (kì phiếu, trái phiếu).
Bằng nhiều hình thức biện pháp đã thực hiện công tác huy động vốn nên khối lượng vốn huy động không ngừng tăng lên với tỷ lệ khá cao cả bằng VNĐ và ngoại tệ ở tất cả các loại tiền gửi. Cụ thể như sau:
Bảng 2. Nguồn vốn huy động giai đoạn 2003-2005
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm
2005
2006
2007
Tổng nguồn vốn:
4.559.988
5.882.721
7.048.924
Nguồn vốn nội tệ
3.613.677
4.817.531
5.855.980
Nguồn vốn ngoại tệ
946.610
1.065.190
1.192.944
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn và QLKD-BIDVHN)
Theo bảng trên, ta thấy nhìn chung vốn huy động có xu hướng tăng lên phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của NH và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư.
Tổng nguồn vốn huy động của BIDVHN tăng trưởng đều đặn qua các năm, với kết quả như sau: năm 2005 là 4.559.988 triệu đồng, trong đó nguồn vốn nội tệ là 3.613.677 triệu đồng, chiếm 79,24% tổng nguồn vốn huy động; Năm 2006 là 5.882.721 triệu đồng, trong đó nguồn vốn nội tệ là 4.817.531 triệu đồng, tăng hơn năm 2005 là 1.203.854 triệu đồng tương ứng với tỷ lệ tăng vốn nội tệ là 24,98%; đến năm 2007, tính đến 31/12/2005, nguồn vốn huy động đạt 7.048.924 triệu đồng, tăng 1.166.203 triệu đồng ( tương ứng với tỷ lệ tăng 16%) so với năm 2006, hoàn thành vượt mức kế hoạch Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam giao). Trong đó, tỷ trọng nguồn vốn huy động bằng VNĐ chiếm 79% trong tổng nguồn vốn huy động.
a. Huy động vốn từ tổ chức kinh tế và tiền gửi dân cư:
Về bản chất của nguồn vốn này là bộ phận tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong quá trình sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt đời sống v.v..
Tiền gửi của các tổ chức kinh tế (TCKT) thường giữ vai trò quan trọng đối với một NH. Đây là khoản tiền gửi của các TCKT, các doanh nghiệp dùng để đảm bảo thanh toán để chi trả tiền nguyên vật liệu, hàng hoá, trả dịch vụ và công lao động... nhưng tạm thời nhàn rỗi chưa dùng đến trong một khoảng thời gian nhất định. Đối với NH, do thời gian và số lượng các khoản tiền không giống nhau, do đó NH có một khoản tiền dùng cho các doanh nghiệp, cá nhân thiếu vốn vay, vừa bù đắp các khoản chi phí cho NH vừa thu lợi nhuận. Vì đây là nguồn vốn huy động có lãi suất thấp nên NH cần khai thác nguồn vốn này vì nó có lợi cho hoạt động kinh doanh của NH.
Bảng 3. Nguồn vốn huy động từ tiền gửi TCKT
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm
2005
2006
2007
1
Tiền gửi của các TCKT
2.896.838
3.895.979
5.102.837
Tổng cộng
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn và QLKD-BIDVHN)
Số liệu cho thấy, tổng nguồn vốn huy động từ tiền gửi của các TCKT và tiền gửi dân cư có sự tăng trưởng đều đặn qua các năm: Năm 2005, nguồn vốn huy động từ tiền gửi của các TCKT đạt 2.896.838 triệu đồng. Năm 2006, tiền gửi từ TCKT đạt được là 3.895.979 triệu đồng, tăng hơn so với năm 2005 là 999.141 triệu đồng .Đến ngày 31/12/2007, tiền gửi của các TCKT tại BIDVHN đã đạt được một khối lượng đáng kể là 5.102.837 triệu đồng, tăng hơn so với năm 2006 là 1.206.858 triệu đồng .
2.2.3. Doanh số, cơ cấu nguồn vốn huy động:
Bên cạnh việc xem xét quy mô tiền gửi, tỷ trọng lượng tiền nội tệ hoặc ngoại tệ trong tổng nguồn vốn mà còn có một số chỉ tiêu quan trọng khác cần được phân tích để thấy được đầy đủ hơn tình hình nguồn vốn huy động. Đó là cơ cấu nguồn vốn, được phân loại thành cơ cấu nguồn vốn theo kỳ hạn và theo hình thức.
a. Cơ cấu huy động vốn theo hình thức:
Theo chỉ tiêu này, nguồn vốn huy động được phân chia làm 3 loại là tiền gửi tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm và các loại giấy tờ có giá như kì phiếu và trái phiếu. Dưới đây là các số liệu được tổng hợp và phân chia theo nội dung của chỉ tiêu này:
Bảng 4. Cơ cấu huy động vốn theo hình thức
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT
Kì hạn
Năm
2005
2006
2007
Giá trị
Tỷ lệ (%)
Giá trị
Tỷ lệ (%)
Giá trị
Tỷ lệ (%)
1
Tiền gửi của các TCKT
2.896.838
63,53
3.895.979
66,22
5.102.837
72,39
2
Tiền gửi tiết kiệm
1.284.045
28,16
1.546.280
26,28
1.770.115
25,11
3
Kì phiếu, trái phiếu
379.103
8,31
440.462
7,5
175.972
2,5
Tổng NVHĐ
4.559.988
100
5.882.721
100
7.048.924
100
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn và QLKD-BIDVHN)
Qua số liệu ở bảng trên, ta thấy:
Cơ cấu nguồn vốn huy động của BIDVHN có sự phân chia rõ rệt thị phần của tiền gửi của các TCKT, TGTK và các GTCG (kì phiếu, trái phiếu), trong đó:
Tỷ trọng tiền gửi của các TCKT chiếm mức cao nhất trong cơ cấu tổng nguồn vốn huy động (với tỷ lệ tăng đều đặn qua các năm lầnlượt là 63,53%, 66,22% và 72,39%) so với tỷ trọng TGTK (tỷ lệ lầnlượt là 28,16%; 26,28% và 25,11%) và kì phiếu, trái phiếu.
Nguồn vốn huy động từ nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá (kì phiếu, trái phiếu): Huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu, trái phiếu có lẽ là biện pháp cho phép huy động được một số vốn lớn nhanh nhất vì lãi suất huy động của loại này rất cao. Việc phát hành kỳ phiếu nhằm mục đích huy động tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư để cho dân cư và các tổ chức kinh tế vay vốn thực hiện đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đồng thời thu hút một lượng tiền mặt từ lưu thông góp phần kiềm chế lạm phát. BIDVHN đã thực hiện huy động vốn thông qua phát hành GTCG với nhiều thời hạn khác nhau và lãi suất ưu đãi nên đã thu hút được lượng trong tiền mặt lưu thông, đáp ứng được nhu cầu vốn trung và dài hạn của NH, đồng thời huy động hộ Trung ương, NH ĐT&PT Việt Nam.
Năm 2005, nguồn vốn huy động được từ phát hành GTCG là 379.103 triệu đồng, chiếm 8,31% tổng nguồn vốn huy động. Sang năm 2006, huy động từ nguồn này đạt 440.462 triệu đồng (chiếm 7,5% trong tổng nguồn vốn huy động), năm 2007 huy động từ nguồn này đạt 175.972 triệu đồng (chiếm 2,5% trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng).
Như vậy BIDVHN đã thu hút được một lượng vốn khá lớn thông qua nghiệp vụ phát hành GTCG. Có thể thấy rằng, trong giai đoạn 2003-2005, nguồn vốn huy động được qua các thông qua phát hành GTCG có tăng về số tuyệt đối nhưng số tương đối lại giảm đi. Chính vì tầm quan trọng của nguồn vốn huy động từ nghiệp vụ phát hành GTCG này (chủ yếu là phát hành kỳ phiếu Ngân hàng có thời hạn 12 tháng, 13 tháng với phương thức trả lãi trước, trả lãi sau), nên nếu BIDVHN tổ chức triển khai thực hiện tốt hoạt động này sẽ thu hút được một lượng vốn đáng kể để đáp ứng cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và hỗ trợ một phần nguồn vốn cho NH để sử dụng nguồn này cho đầu tư trung dài hạn. Chính vì vậy, trong thời gian sắp tới, BIDVHN cần phát huy việc huy động từ nguồn này nhiều hơn nữa.
Tóm lại, trong hệ thống NHTM nói chung, tiền gửi các TCKT chiếm vị trí rất quan trọng. Vì đây là nguồn vốn huy động với chi phí thấp nhất tạo điều kiện cho NH tăng sức cạnh tranh trên thị trường, Tăng được tỷ trọng nguồn này nghĩa là NH đã thắng trong kinh doanh, không chỉ trong hoạt động tín dụng mà còn trong công tác dịch vụ NH.
Là kênh cung ứng vốn trung và dài hạn chính cho nền kinh tế, huy động vốn và cho vay là hai khâu đan xen và diễn ra liên tục trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Trong 10 năm gần đây, tỷ trọng vốn có kì hạn trên 12 tháng (bao gồm tiền gửi tiết kiệm có kì hạn, tiền gửi có kì hạn của pháp nhân và giấy tờ có giá) thường chiếm từ tỷ lệ rất cao trong tổng nguồn vốn huy động của BIDVHN.
Sở dĩ lượng tiền tiết kiệm tăng như vậy là do thu nhập của dân cư tăng, do tâm lí của người dân muốn đảm bảo an toàn cho tài sản của mình cũng như nhu cầu đầu tư cho nền kinh tế lớn, nên đòi hỏi NH phải đưa ra những biện pháp thích hợp thu hút nguồn vốn này. Mặc dù tăng nhưng nguồn tiền gửi tiết kiệm của NH còn thấp một phần là do cơ chế lãi suất của NH chưa hấp dẫn được người gửi tiền, không cạnh tranh được với các ngân hàng khác trên địa bàn.
Tiền gửi trên một năm tăng do nhu cầu về cuộc sống sinh hoạt nhà cửa ổn định, do vậy lượng tiền để dành của dân cư gửi tiết kiệm đã tăng hơn về trung và dài hạn, vì đối với họ loại tiền gửi này có lãi suất cao hơn, chính vì điều này làm cho nguồn vốn trung và dài hạn của chi nhánh tăng lên đáng kể. Đây là điều đáng mừng cho NH vì hiện nay nhu cầu đầu tư trung và dài hạn tăng nhanh so với các năm. Trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều tổ chức tín dụng cả trong và ngoài nước, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt. Mặc dù trong điều kiện đó nhưng nguồn tiền gửi trên một năm tăng chủ yếu là từ ngoại tệ, điều này thể hiện ưu thế của NH trong cạnh tranh với các NH khác.
Nói chung tiền gửi tiết kiệm của dân cư vào NH ngày càng tăng lên về qui mô bởi vì họ muốn tăng thu nhập cho bản thân và gia đình thông qua số tiền lãi mà NH trả cho họ, vì bảo đảm về tài sản và tính mạng trong cơ chế thị trường và về bí mật thu nhập thuận tiện chi trả khi cần thiết. Vấn đề đặt ra là làm sao để ngày càng tăng lượng tiền vốn nhàn rỗi trong dân cư tại Chi nhánh. NH phải thưc sự tạo được lòng tin cho người dân khi họ gửi tiền.
Việc phát hành các GTCG của NH cũng có nhiều hạn chế như: Chi phí cho việc phát hành lớn, mức lãi suất cao( cao hơn so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn), thêm vào đó là việc phát hành GTCG lại không thể liên tục mà phải theo từng đợt. Hơn nữa nhiều khi phát hành kỳ phiếu với mục đích tăng nguồn vốn huy động nhưng trong thực tế nguồn vốn huy động tăng rất ít mà chỉ có sự thay đổi trong cơ cấu nguồn vốn huy động mà thôi. Do đó khi phát hành kỳ phiếu, NH cần phải lựa chọn hình thức phát hành và thời hạn cho phù hợp.
* Hoạt động sử dụng vốn của BIDVHN.
Bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn, ở BIDVHN công tác sử dụng vốn cũng rất được đề cao vì hoạt động này mang lại lợi nhuận chủ yếu cho NH, thúc đẩy công tác huy động vốn.
Thực hiện Nghị Quyết 15 của Bộ Chính trị về thủ đô Hà Nội và Nghị Quyết Đại hội Đảng Bộ thành phố lần thứ 13 về CNH-HĐH Thủ đô, với nguồn vốn huy động được BIDVHN đã tích cực chủ động tìm các dự án đầu tư, tìm đến với khách hàng, bám sát định hướng phát triển kinh tế của thủ đô và định hướng mở rộng kinh doanh của ngành nghề để mở rộng kinh doanh. Có thể thấy được hoạt động sử dụng vốn của NH thông qua các số liệu về dư nợ cho vay trung và dài hạn như sau:
Bảng 5. Tình hình dư nợ cho vay trung dài hạn
Đơn vị tính: Triệu đồng
STT
Chỉ tiêu
Năm
2005
2006
2007
1
Tổng dư nợ cho vay
3.459.374
3.823.014
3.790.552
2a
Dư nợ cho vay ngắn hạn
2.527.792
2.994.203
3.055.307
2b
Dư nợ cho vay TDH
793.920
761.801
732.870
3
Tỷ trọng TDH/Tổng dư nợ cho vay (%)
22,94
19,92
19,33
4
Cho vay theo KHNN
64.291
14.485
2.375
5
Khoanh chờ xử lý
10.257
6
ODA
63.113
52.525
0
(Nguồn: Phòng Nguồn vốn và QLKD-BIDVHN
Theo số liệu ở bảng trên ta thấy, từ năm 2005 đến nay, do nhu cầu đầu tư phát triển của nền kinh tế quốc dân tăng mạnh nhưng do nhiều lý do khác nhau nên Dư nợ cho vay TDH của Ngân hàng BIDV giảm dần qua các năm nhưng không đáng kể do chính sách của Ngân hàng ĐT TW.Tính đến 31/12/2007, tổng dư nợ (không kể ODA, nợ khoanh, chờ xử lý) là 732.870 tỷ đồnggiảm 28.931 tỷ đồng so với năm 2006. Tuy nhiên,dư nợ cho vay ngăn hạn lại tăng dáng kể do Ngân hàng chú trọng vào việc thu hồi vốn nhanh.
Trong đó:
- Dư nợ tín dụng ngắn hạn năm 2007 là 3.055.307 tỷ đồng, tăng 61.104 tỷ đồng so với năm 2006;
- Dư nợ tín dụng trung và dài hạn thương mại là 959 tỷ đồng, tăng 79 tỷ đồng (+9%) so với năm 2006.
- Dư nợ tín dụng theo kế hoạch nhà nước và chỉ định là 2.375ty đồng, giảm 12.11tỷ đồng so với năm 2006
Các cơ cấu lớn về tín dụng đã chuyển dịch theo chiều hướng tích cực phù hợp với định hướng của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam và hoạt động của Chi nhánh: Tính đến 31/12/2007 dư nợ trung dài hạn chiếm 22,94 .
Đối tượng cho vay trung dài hạn của NH là tất cả các pháp nhân và cá nhân Việt Nam và nước ngoài thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện vay. Tuy nhiên, trong những năm qua, đối tượng được vay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước (đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước trung ương) và ngành nghề được đầu tư nhiều vốn trung dài hạn nhất là thuộc lĩnh vực thương mại
Nhìn chung dư nợ tăng cùng doanh số cho vay, chứng tỏ rằng hiệu quả tín dụng của Ngân hàng là tốt, tạo điều kiện cho chi nhánh tăng thêm thị phần tín dụng nghĩa là tăng thêm doanh thu cho Ngân hàng.
Có thể nói nguồn vốn trung dài hạn của NH đã góp phần quan trọng vào đầu tư phát triển nền kinh tế nói chung và hỗ trợ tích cực sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá Thủ đô cũng như giúp các doanh nghiệp tăng cường năng lực công nghệ và phát triển hạ tầng hỗ trợ sản xuất, kinh doanh nói riêng. Hiệu quả này thể hiện qua mức tăng trưởng GDP liên tục cao và mức tăng trưởng của ngành thương mại của thành phố Hà Nội từ năm 2000 đến nay.
Trước nhu cầu ngày càng tăng mạnh về vốn trung và dài hạn, BIDVHN đã sử dụng nhiều biện pháp để thu hút nguồn vốn này, nhưng kết quả còn hạn chế. Hàng năm, vốn huy động trung dài hạn tuy tăng về số tuyệt đối nhưng về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động thì tăng không đáng kể (vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn hơn). Sự thay đổi chủ yếu ở hình thái giá trị tiền VNĐ hoặc ngoại tệ hay thay đổi tính chất tiền gửi tiết kiệm có kì hạn dài, người dân có xu hướng chuyển sang mua các loại giấy tờ có giá tuỳ theo sự hấp dẫn của lãi suất của mỗi hình thức trong từng thời kỳ.
2.3. Đánh giá thực trạng công tác huy động vốn tại BIDVHN.
2.3.1. Những thành tựu đạt được
Trong 3 năm gần đây, nguồn vốn của BIDVHN liên tục tăng trưởng và được huy động từ rất nhiều nguồn gồm: từ các TCKT và dân cư, từ Kho bạc nhà nước và các tổ chức khác. Với cơ cấu nguồn vốn của NH cho thấy nguồn tiền gửi dân cư chiếm tỷ trọng lớn nhất và là nguồn ổn định nhất. Trong cơ cấu nguồn vốn huy động thì tỷ trọng vốn huy động có kỳ hạn trên 12 tháng, tỷ trọng vốn huy động không kỳ hạn trong tổng nguồn vốn huy động ngày càng giảm. Điều này chứng tỏ nguồn vốn huy động của BIDVHN có tính chất ổn định cao, NH có thể sử dụng để đầu tư cho những dự án trung và dài hạn. Sở dĩ, để đạt được những thành tựu trên đây, là do:
- BIDVHN đã không ngừng quan tâm tới công tác đào tạo, bồi dưỡng kết hợp với tuyển dụng cán bộ mới. Trong đó xây dựng chiến lược nguồn lực cán bộ vừa có phẩm chất vững vàng vừa có năng lực chuyên môn trở thành vấn đề then chốt, quyết định đối với mọi hoạt động của Chi nhánh. Chú trọng giáo dục đạo đức, phong cách nghề nghiệp cho đội ngũ nhân viên, đổi mới phong cách giao dịch, nên tạo được uy tín và lòng tin đối với KH.
- Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ NH khác bên cạnh nghiệp vụ huy động vốn, BIDVHN cũng đã coi trọng việc phát triển và đổi mới về công nghệ NH. Từ chỗ chỉ có 02 máy tính với chương trình phần mềm ứng dụng chỉ là hạch toán đơn thuần (năm 1992) đến nay Chi nhánh đã xây dựng mạng máy tính diện rộng nối mạng từ BIDVHN với Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam và 4 chi nhánh trực thuộc, chương trình phần mềm ứng dụng cũng được nâng cấp, đáp ứng yêu cầu quản lý điều hành của BIDVHN, đồng thời BIDVHN đã mở rộng nhiều hoạt động dịch vụ phục vụ KH: Chuyển tiền nhanh qua màng vi tính, thực hiện mua bán ngoại tệ, thanh toán bù trừ...
- Ngoài các yếu tố trên, BIDVHN đặc biệt tăng cường vận động các đơn vị, cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại NH, tài khoản tiền gửi cá nhân tại NH ngày một tăng. Thực hiện giao khoán đến từng cán bộ NH. Đồng thời luôn gắn việc huy động vốn với sử dụng vốn có hiệu quả cao, điều này đảm bảo an toàn vốn mà NH huy động, đảm bảo chi trả đủ gốc và lãi cho người gửi tiền và có lợi nhuận.
2.3.2. Những hạn chế trong công tác huy động vốn của BIDVHN.
Bên cạnh những kết quả đạt được trong công tác huy động vốn của BIDVHN còn có những hạn chế nhất định. Điều này được thể hiện như sau:
2.3.2.1. Vốn có kì hạn từ 2 năm trở lên chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng số vốn huy động:
Theo quy định về kỳ hạn nợ của NHNN: tín dụng trung hạn là các khoản cấp tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng đến 60 tháng và tín dụng dài hạn là các khoản cấp tín dụng có thời hạn từ trên 60 tháng trở lên. Như vậy, chỉ có các nguồn vốn huy động có kỳ hạn phù hợp với thời gian quy định trên mới có thể gọi là vốn trung và dài hạn. (ở Mỹ, một công cụ vay nợ là ngắn hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 1 năm hoặc ít hơn và là dài hạn nếu kỳ hạn thanh toán của nó là 10 năm hoặc lâu hơn, công cụ vay nợ có kỳ hạn thanh toán giữa 1 năm và 10 năm được gọi là trung hạn).
Nếu theo những tiêu chuẩn trên, các NHTM Việt Nam nói chung, ở Hà Nội nói riêng và đặc biệt là BIDVHN từ trước đến nay chưa huy động được vốn dài hạn, chủ yếu là vốn có kỳ hạn từ 12 tháng đến 24 tháng. Hiện tại, BIDVHN vẫn chưa tìm ra được biện pháp hữu hiệu nào để khơi tăng nguồn vốn dài hạn.
2.3.2.2. Hiệu quả sử dụng vốn trung và dài hạn của BIDVHN trên địa bàn, đặc biệt là với các doanh nghiệp, chưa cao:
Tuy dư nợ cho vay trung dài hạn của các NHTM trên địa bàn Hà Nội nói chung cũng như BIDVHN nói riêng ở mức khá cao nhưng phần lớn số này cho vay các dự án của Chính phủ, của các Tổng công ty 90, 91 triển khai tại các địa phương khác chứ không phải ở Hà Nội.
Dư nợ cho vay dài hạn của BIDVHN chỉ tập trung vào cho vay các doanh nghiệp nhà nước do thành phố quản lý, trong khi trên địa bàn thành phố có một khối lượng lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế-xã hội Thủ đô thì dư nợ cho vay trung dài hạn đối với loại doanh nghiệp này chỉ đạt 1,99% năm 2003; 4,63% năm 2004 và 6,95% năm 2005 trong tổng số dư nợ cho vay trung dài hạn.
Đây là một con số rất thấp so với yêu cầu đầu tư phát triển Thủ đô hiện nay khi mà các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hầu hết đều thường xuyên thiếu cả vốn đầu tư và vốn lưu động, và doanh nghiệp hầu như không có cơ hội tìm kiếm nguồn vốn dài hạn ngoài NH.
- Nhu cầu vốn dài hạn của các doanh nghiệp nhà nước địa phương và doanh nghiệp dân doanh ở Hà Nội chưa lớn. Những năm qua chúng ta đã nghe nhiều lời phàn nàn của doanh nghiệp về việc thiếu vốn, nhưng đó là vốn ngắn hạn và trung hạn, vì phần lớn doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa quen với tư duy quản lý và chiến lược kinh doanh dài hơi, bên cạnh đó những thủ tục đầu tư còn phức tạp vì phải qua nhiều cấp xét duyệt, mất nhiều thời gian và chi phí, cộng thêm vào đó là mặt bằng sản xuất không có, nên nhiều doanh nghiệp chỉ quan tâm đến thu lợi nhuận nhanh chóng, ít nghĩ đến đầu tư trung và dài hạn. Doanh nghiệp dân doanh chủ yếu kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, du lịch và dịch vụ (chiếm đến 57% tổng số doanh nghiệp đăng ký theo Luật doanh nghiệp) sử dụng ít lao động và ít vốn.
- Một số doanh nghiệp có nhu cầu vay thì lại không có đủ điều kiện vay: không đủ tỷ lệ vốn tự có tối thiểu (20% trong tổng nhu cầu vay), không có tài sản bảo đảm tiền vay hoặc có tài sản nhưng không có giấy tờ hợp pháp để bảo đảm khoản vay. Khả năng xây dựng các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh hạn chế, nên khi NH xem xét các dự án thường thấy không khả thi và không có hiệu quả thì NH không cho vay. Đây cũng là một thực tế và là quy luật tất yếu của hoạt động kinh doanh tiền tệ và cơ chế thị trường.
- Lãi suất cho vay trung và dài hạn của NH cao so với tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo nguyên lý chung, thời hạn huy động và cho vay càng dài thì khả năng rủi ro càng lớn nên lãi suất càng cao. Trong thời kỳ nền kinh tế của cả nước cũng như của Hà Nội đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường thì sự thiếu ổn định, khó lường là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy, cả về phía NH và KH đều có những khó khăn trong việc đẩy mạnh huy động và sử dụng vốn dài hạn. Hiện nay việc áp dụng lãi suất cho vay trung và dài hạn của BIDVHN thường tính trên cơ sở lãi suất huy động trái phiếu kì hạn 2 hoặc 3 năm cộng với biên độ dao động từ 1,5% đến 2%/năm. Ví dụ, BIDVHN huy động trái phiếu kì hạn 2 năm, lãi suất 8,5%/năm cộng với 2%/năm biên độ dao động khiến lãi suất cho vay trung và dài hạn của BIDVHN lên tới 0,81%-0,82%/tháng nên doanh nghiệp khó có thể vay được.
- Khả năng thẩm định các dự án, phương án sản xuất-kinh doanh của BIDVHN còn một số hạn chế nên không NH không dám cho vay một số dự án lớn. Các chi nhánh của BIDVHN dành nhiều vốn huy động trên địa bàn để điều chuyển vốn trong hệ thống hưởng phí điều chuyển. Tỷ lệ sử dụng vốn để cho vay và đầu tư của BIDVHN chỉ đạt khoảng 43% tổng nguồn huy động của Ngân hàng.
2.3.2.3. Dư nợ cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ cho vay khiến BIDVHN phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản:
Việc sử dụng hệ thống chi nhánh huy động vốn ngắn hạn để tài trợ cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án dài hạn thì rủi ro là rất lớn. Như chúng ta đã biết, các NHTM nói chung cũng như BIDVHN nói riêng phải luôn bảo đảm khả năng thanh khoản (khả năng chuyển đổi nhanh các tài sản của NH ra tiền mặt hoặc các tài sản Có đủ để trang trải các khoản nợ ngắn hạn) nhất là NH kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Việc BIDVHN phải sử dụng một tỷ lệ lớn vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn đã khiến NH phải đối mặt với nguy cơ rủi ro thanh khoản. Nếu có những biến động xấu trên thị trường tài chính thì BIDVHN dễ mất khả năng thanh khoản vì tỷ lệ các khoản cho vay trung và dài hạn quá lớn, thời hạn cho vay dài không thể thu hồi ngay được. Đây cũng chính là lý do tại sao BIDVHN không ẩy mạnh cho vay trung và dài hạn (hiện tỷ trọng dư nợ cho vay trung và dài hạn thương mại của BIDVHN chiếm 23,49% tổng dư nợ cho vay của NH).
2.3.2.4. Một số khó khăn, vướng mắc chủ yếu khác:
Ngoài một số hạn chế còn tồn tại nêu trên, hoạt động huy động vốn của BIDVHN trên địa bàn Hà Nội vẫn còn gặp tồn tại một số khó khăn, vướng mắc sau:
Thứ nhất, sự cạnh tranh “phân chia thị trường” bởi các kênh huy động vốn khác nhau: tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm, các tổ chức tín dụng và tài chính khác… vẫn là khó khăn chủ yếu hiện nay đối với hoạt động huy động vốn của BIDVHN. Đặc biệt, tiết kiệm bưu điện với lợi thế về cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho phép thực hiện các giải pháp kỹ thuật hiện đại trong việc gửi và rút tiền nhanh, thuận tiện và an toàn đã thu hút nhiều người dân gửi tiền qua hình thức này, thời gian giao dịch dài hơn và liên tục hơn.
Thứ hai, tỷ trọng vốn huy động trung và dài hạn chưa cao nên gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng tiếp cận với các dự án thuộc chương trình kích cầu đầu tư phát triển hạ tầng các ngành y tế, giáo dục, và hạ tầng giao thông của thành phố có nhu cầu vốn vay rất lớn.
Thứ ba, người dân chưa có thói quen gửi tiền tiết kiệm trung và dài hạn, mặc dù tiền gửi có kì hạn chiếm 80% vốn huy động, nhưng tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 1 năm) lại chiếm 50% vốn huy động. BIDVHN hiện đã có loại hình tiền gửi trung hạn (24 tháng, 36 tháng) nhưng chưa thu hút được người dân gửi tiền.
Thứ tư, khả năng can thiệp để điều chỉnh lãi suất bằng các công cụ gián tiếp thông qua nghiệp vụ thị trường mở của NHNN lại rất hạn chế. Do đó, khi lãi suất huy động bị đẩy lên quá cao, NHNN tỏ ra lúng túng trong việc điều tiết, gây khó khăn trong công tác huy động vốn, nhất là vốn trung và dài hạn trong hệ thống NHTM nói chung cũng như BIDVHN nói riêng.
Thứ năm, công cụ tài chính chủ yếu để thu hút vốn dài hạn là trái phiếu. Về lý thuyết, thời hạn huy động và cho vay càng dài thì lãi suất phải càng cao. Nhưng cũng do thiếu sự ổn định chung của nền kinh tế, đặc biệt là việc dự báo lạm phát, tỷ giá rất khó khăn, nên NH còn nhiều lúng túng trong việc định ra lãi suất huy động (trái phiếu) để sao cho Ngân hàng huy động được, cho vay được và ngân sách không phải bù đắp một cách quá mức.
Thứ sáu, các công cụ có tác dụng bảo đảm an toàn cho người gửi tiền và người đầu tư chưa đủ để có thể giảm thiểu rủi ro cho người gửi tiền (các nhà đầu tư).
Thứ bảy, các dịch vụ ngân hàng của BIDVHN tuy đã có bước phát triển mới, đa dạng và phong phú hơn, nhưng vẫn còn sơ sài và hạn chế ở tính hữu dụng. Thực tế này làm hạn chế khả năng tăng luân chuyển vốn, nhất là ở các vùng nông thôn, dẫn đến không khuyến khích được tiết kiệm.
Thứ tám, hệ thống cơ sở hạ tầng công nghệ-kỹ thuật tài chính (dịch vụ kiểm toán, tư vấn tài chính, đầu tư, hệ thống kế toán, thông tin, lưu ký, đăng ký, xếp hạng tín nhiệm…) còn chưa đáp ứng được yêu cầu cho sự phát triển thị trường vốn dài hạn, nhất là để thị trường cổ phiếu hoạt động có hiệu quả.
2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế.
2.3.3.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng:
- Trong nhiều năm qua, nền kinh tế Việt Nam cũng như của Thủ đô Hà Nội chưa phát triển vững chắc, còn chứa đựng những nhân tố biến động không lường trước được về lạm phát, tỷ giá, lãi suất, phá sản v.v.. Vì vậy, người dân chưa thực sự tin tưởng để có thể gửi tiền dài hạn vào hệ thống NH; Đặc biệt là sau sự kiện khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan và khu vực năm 1997 (tâm lý) . Sự đổ vỡ của các quỹ tín dụng đầu thập kỷ 1990 tại Hà Nội và việc phá sản của một số NHTM cổ phần ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua khiến người dân chưa hoàn toàn yên tâm khi quyết định gửi tiền dài hạn vào ngân hàng. Có thể cảm nhận được mức độ tín nhiệm này qua số liệu là 87% vốn dài hạn là do các chi nhánh NHTM nhà nước huy động được;
- Chênh lệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37238.doc