Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tạo lọi nhuận.Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps).
52 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1593 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thu hút vốn đầu tư trên thị trường vốn của Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch liên tục. Đây cũng là thị trường được công chúng đầu tư quan tâm nhất và được theo dõi liên tục nhất.
5. Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường.
5.1 Thị trường cổ phiếu.
Người ta có thể có hàng trăm cách để đầu tư, muốn chọn được cách tốt nhất thì nhà đầu tư trước hết phải tìm được thông tin cơ bản về các công cụ tài chính mà họ đang xem xét. Trong thị trường chứng khoán thì cổ phiếu là công cụ tài chính thường được sử dụng nhất , thường được buôn bán nhiều nhất do tính đại chúng và lượng thông tin nhiều, được phổ biến rộng rãi.
Đối với các doanh nghiệp ,các công ty thì việc phát hành cổ phiếu có lợi hơn là việc phát hành các chứng chỉ nợ. Vì công ty nắm giữ tiền mà không phải trả lãi theo thời hạn định, đối với việc mua cổ phiếu các cổ đông được nắm giữ cổ phiếu trong công ty, có nghĩa là các cổ đông mới sẽ được chia quyền sở hữu đối với các cổ đông đầu tiên.
Cổ phiếu là một chứng thư, chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần, hay cổ phiếu là một giấy chứng nhận việc đầu tư vốn của một chủ thể vào một công ty cổ phần. Các cổ đông không phải là chủ nợ của công ty mà là người hùn vốn cùng công ty hoạt động , là người chủ sở hữu một phần của công ty. Cổ phiếu có thể có nhiều loại tuỳ thuộc vào đơn vị phát hành như : cổ phiếu ưu đãi , cổ phiếu biểu quyết , cổ phiếu phổ thông …
Thứ nhất : Thị trường chứng khoán của Việt Nam mặc dù còn non trẻ nhưng cũng đã góp phần rất lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Và được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao và được coi là thị trường đầy tiềm năng. Bên cạnh đó thì chính phủ Việt Nam cũng đã và đang rất quan tâm đến thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chính phủ đã có các nghị quyết và chủ trương liên quan đến chiến lược phát triển của toàn ngành chứng khoán, đẩy mạnh hơn nữa tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đi đôi với phát triển thị trường chứng khoán. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước được chuyển giao về Bộ Tài chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Những yếu tố trên đã khiến thị trường cổ phiếu sau một thời gian dài rơi vào tình trạng trầm lắng đã có sự hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ. Chỉ số VNIndex từ mức 166,94 điểm vào cuối năm 2003 đã tăng lên đến gần 280 điểm (tăng 67,7%) vào đầu tháng 4-2004 và hiện nay khá ổn định ở mức 230 điểm. Với việc giá cổ phiếu tăng mạnh, giới đầu tư đã quan tâm hơn đến thị trường chứng khoán khiến tình hình giao dịch cổ phiếu trên thị trường diễn ra sôi động hơn. Trong năm, Quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên đã được thành lập và được niêm yết chứng chỉ VF1 trên thị trường chứng khoán tập trung. Thứ hai : Trên thị trường không chính thức, các hoạt động mua bán cổ phiếu diễn ra hết sức sôi động với hơn 100 loại cổ phiếu được giao dịch khá thường xuyên; trong đó có những tên tuổi nổi tiếng như Vinamilk, Giống Cây trồng miền Nam, Dầu Tường An, Dược Hậu Giang, Bảo Minh, Sacombank, ACB, Eximbank… Bên cạnh đó, với nỗ lực đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và được khích lệ bởi sự tăng trưởng trở lại của thị trường chứng khoán chính thức, các đợt đấu giá bán cổ phần ra công chúng thật sự “bùng nổ” và thu hút sự quan tâm rất lớn của công chúng đầu tư. Đặc biệt, năm 2004 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của thị trường trái phiếu Việt Nam. Các đợt phát hành trái phiếu Chính phủ đã diễn ra đều đặn và mức độ thành công cũng khá hơn so với năm trước. Trên thị trường giao dịch, nghiệp vụ mua bán trái phiếu có kỳ hạn đã giúp tăng tính thanh khoản cho thị trường trái phiếu và thực sự đem lại lợi ích cho các đối tượng tham gia mua bán trái phiếu. Các đơn vị chiếm thị phần lớn trên thị trường trái phiếu cũng thu được lợi nhuận đáng kể từ nghiệp vụ này, nổi bật là Công ty Chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cùng với tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Việt Nam, tình hình hoạt động kinh doanh của phần lớn công ty niêm yết đều đạt những kết quả khả quan. Các công ty lớn trên thị trường như REE, Gemadept, Sacom … đều hoàn thành kế hoạch lợi nhuận trong năm. Một số công ty như Khahomex, Hacisco… cũng đã thành công trong việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn cho các dự án đầu tư mới. Bên cạnh đó, nhờ thị trường khởi sắc hơn và tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra mạnh mẽ hơn nên hoạt động của các công ty chứng khoán cũng đa dạng hơn và phần lớn đều đạt hiệu quả cao hơn mọi năm. Năm nay cũng chứng kiến sự tham gia mạnh mẽ hơn của các quỹ đầu tư chứng khoán như VEIL, PXP Fund, VF1 và các tổ chức đầu tư khác vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhờ sự tham gia của các tổ chức này mà thị trường chứng khoán đã có sự ổn định cần thiết trong một số giai đoạn.
Thứ ba : Làn sóng tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần . Vấn đề tăng cường nội lực tài chính. Sức mạnh từ nội lực sẽ là nguồn gốc để tăng trưởng một cách bền vững chứ không dựa vào nguồn lực từ bên ngoài .Do đó để phát triển thị trường chứng khoán nói chung thì cần phải tăng cường nội lực, củng cố năng lực tài chính một cách vững mạnh. Hiện tại , theo ước tính cả nước ta có khoảng 34 ngân hàng thương mại cổ phần đang hoạt động. Hầu hết là những ngân hàng có tiềm lực tài chính vừa và nhỏ so với quy mô của thế giới, cho nên hầu hết các ngân hàng này đang thực hiện chính sách thắt lưng buộc bụng để tăng vốn điều lệ, nhất là trong hai năm gần đây. Nhờ có hệ số an toàn về vốn ngày càng tăng cao nên khả năng đáp ứng những khoản vay lớn cũng như các dịch vụ hiện đại cho đông đảo khách hàng. Một số đơn vị đã thành công với chiến lược tăng vốn của mình và trở thành những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu, như: Sacombank hiện có 505 tỷ đồng; ACB với 423,9 tỷ đồng. Kế đến là NHCP Xuất Nhập khẩu với 300 tỷ đồng, ngân hàng quân đội 280 tỉ , ngân hàng VIB 180 tỉ .Các ngân hàng đã thực hiện tăng vốn, mở rộng quy mô hoạt động; chuẩn bị cho thời kỳ hội nhập với các tổ chức thương mại quốc tế và thực hiện cam kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ; theo đó, ngân hàng sẽ phải đối đầu với những cạnh tranh gay gắt.
Tổng kết báo cáo hàng năm của các ngân hàng thương mại cổ phần cho thấy, các ngân hàng có bình quân lợi nhuận đạt từ 15-30%, tỷ lệ chia cổ tức đạt 15%. Nợ quá hạn của các ngân hàng đã giảm hơn 7% trong năm vừa qua và chỉ chiếm 6,35% trong toàn hệ thống. Theo các chuyên gia về kinh doanh tiền tệ, mặc dù số vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại cổ phần còn hạn chế nếu so với các ngân hàng liên doanh hay chi nhánh các ngân hàng nước ngoài, nhưng nhờ kinh doanh có hiệu quả trong mấy năm gần đây nên đầu tư vào các ngân hàng thương mại cổ phần đang có sự hấp dẫn hơn nhiều lĩnh vực khác; cổ phiếu các ngân hàng đang được các nhà đầu tư tìm mua. Điều đó cho thấy có một triển vọng lớn khi cổ phiếu các ngân hàng thương mại cổ phần được niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, một số ngân hàng thương mại cổ phần khi tăng vốn điều lệ đã bán được cổ phiếu của mình cao hơn mệnh giá nhiều lần. Khi ACB có được góp vốn của các cổ đông nước ngoài, lập tức giá cổ phiếu của cổ đông trong nước tăng 1,5 lần so với mệnh giá và cổ phiếu dành cho người nước ngoài đã tăng 2,1 lần. Cổ phiếu Sacombank đã bán được gấp 1,8 lần so với mệnh giá. Điều đó cho thấy các nhà đầu tư đã đặt niềm tin lớn vào hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại cổ phần.
Tuy nhiên , khi vốn tăng thì lại đặt ra một vấn đề là vấn đề sử dụng vốn như thế nào. Theo bà Bùi Thị Mai, Tổng giám đốc Habubank, việc điều hành một ngân hàng có số vốn điều lệ cả ngàn tỷ đồng hoàn toàn không giống việc điều hành một ngân hàng chỉ vài trăm tỷ vốn điều lệ. Vốn tăng vài trăm phần trăm, song khối lượng công việc tăng có khi đến vài ngàn phần trăm, khả năng bao quát, tầm nhìn, hệ thống thông tin - phản hồi... đều phải tăng và đòi hỏi tốt hơn trước là những áp lực đầu tiên.
Khi cổ đông góp vốn, đồng tiền của họ phải được sử dụng hiệu quả nhất. Cũng theo bà Mai, huy động vốn thì rất nhanh nhưng ngân hàng này đã phải chuẩn bị kế hoạch sử dụng lượng vốn huy động này trong nhiều tháng trời, đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả và đem lại nhiều lợi nhuận cho các cổ đông nhất. Vấn đề là làm sao khi mở rộng quy mô phải đảm bảo chất lượng nguồn nhân lực để không ảnh hưởng tới khả năng phục vụ khách hàng, đồng thời bài toán duy trì tỷ lệ cổ tức cao cũng là yêu cầu không hề dễ đối với ban điều hành
Thứ tư : Quá trình nhảy vào của các ngân hàng nước ngoài vào thị trường vốn ở Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mức sở hữu tối đa của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng cổ phần trong nước là 30%, dự thảo Nghị định về tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của ngân hàng trong nước do NHNN soạn thảo đã được trình Chính phủ. Cho dù như vậy, các ngân hàng nước ngoài dường như vẫn sẵn sàng cho một đợt tăng số tiền góp vốn trong các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các cổ đông chiến lược nước ngoài tới đây sẽ được sở hữu tới 20% cổ phần tại một ngân hàng Việt Nam.
Mới đây, một số hãng thông tấn nước ngoài đã đưa tin về việc HSBC và ANZ đã sẵn sàng tăng thêm vốn tại Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam (Techcombank) và Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (Sacombank). Cả hai ngân hàng nước ngoài này đều là các cổ đông chiến lược tại các ngân hàng mà họ đầu tư. Trong năm 2005, HSBC (ngân hàng lớn nhất châu Âu) và ANZ (ngân hàng cung cấp tín dụng lớn thứ 3 tại Australia) đã bỏ ra tương ứng 17,3 triệu USD và 27 triệu USD để mua 10% cổ phần tại Techcombank và Sacombank.
Theo tin đưa ra thì Đại hội cổ đông Techcombank đã thông qua Nghị quyết có điểm cho phép bán thêm 10% cổ phần cho HSBC khi Nhà nước cho phép mở room lên 20% đối với cổ đông chiến lược nước ngoài. Trả lời Báo Đầu tư Chứng khoán, ông Nguyễn Đức Vinh, Tổng giám đốc Techcombank đã xác nhận thông tin này. Theo ông Vinh, việc bán thêm 10% cổ phần cho HSBC đồng nghĩa với việc HSBC trở thành cổ đông lớn nhất tại Techcombank. Điều này cũng nằm trong kế hoạch tăng vốn lên mức khoảng từ 1.500 đến hơn 1.600 tỷ đồng của Techcombank trong năm tới. Việc tăng vốn của Techcombank thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu mới, gồm hai phần dành cho cổ đông cũ và cổ đông chiến lược là HSBC.Đối với Techcombank, việc tăng vốn của cổ đông chiến lược tương đối dễ dàng, bởi room dành cho các nhà đầu tư nước ngoài vẫn còn và HSBC mới là nhà đầu tư nước ngoài duy nhất của ngân hàng này. Nhưng đối với trường hợp của Sacombank sẽ khác, bởi hiện tại ngân hàng này đã sử dụng hết room 30% dành cho cổ đông nước ngoài. Hiện IFC, Dragon Capital và ANZ là 3 nhà đầu tư nước ngoài, mỗi nhà đầu tư nắm giữ 10% cổ phần của ngân hàng này.Mặc dù vậy, không có nghĩa ANZ không thể tăng thêm phần vốn góp bởi khi Sacombank phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ, ANZ có thể mua thêm và thay đổi tỷ lệ nắm giữ nếu các nhà đầu tư nước ngoài khác là IFC và Dragon Capital không mua thêm. Điều này không làm ảnh hưởng tới trần tối đa 30% như đã nói trên.Hiện trong 4 ngân hàng cổ phần có nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là Techcombank, Sacombank, Ngân hàng Á Châu (ACB) và Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank) thì ACB và Sacombank đã sử dụng hết room cho nhà đầu tư nước ngoài, Techcombank là 10% và VPBank là 20%.
Qua đó chúng ta có thể thấy được khả năng huy động vốn từ đầu tư gián tiếp của nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán mà cụ thể ở đây là thông qua việc mua cổ phiếu để trở thành cổ đông. Tuy nhiên ở đây chúng ta phải lưu ý là việc huy động từ đầu tư nước ngoài phải hết sức phòng tránh việc thôn tính của các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng trong nước. Từ đó có thể làm đảo lộn thị trường tài chính của Việt Nam , tránh một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng. Hơn nữa, hầu hết các ngân hàng của Việt Nam hầu hết còn non trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc quản lý và sử dụng vốn một cách có hiệu quả từ các nguồn vốn có thể huy động được. Từ đó mới thấy hết tầm quan trọng của nguồn vốn.
5.2. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chỉ là mới giai đoạn đầu với sự tồn tại sơ khai của trái phiếu chính phủ. Dư nợ của trái phiếu còn rất thấp, chỉ mới chiếm khoảng 7% GDP so với các thị trường khác trong khu vực như : Trung Quốc 21% , Thái Lan 33% và Malaxia 62% . Thị trường trái phiếu của Việt Nam chưa có sự đa dạng trong chủ thể phát hành, chưa có hệ thống các nhà tạo lập thị trường và hệ thống giao dịch, khả năng thanh toán còn nhiều hạn chế. Hơn nữa, một thị trường để giúp hai đối tượng rất quan trọng là doanh nghiệp và chính quyền địa phương huy động vốn lại hầu như chưa tồn tại. Do đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân 7,5%/năm trong giai đoạn 2000 - 2010, nhu cầu vốn đầu tư của toàn bộ nền kinh tế là rất lớn, khoảng 30 - 35% GDP/năm. Do đó, hiện nay Việt Nam đang triển khai hàng loạt các biện pháp nhằm phát triển thị trường trái phiếu nội địa, đặc biệt là tạo kênh huy động vốn hữu hiệu cho các doanh nghiệp và các chính quyền địa phương trong bối cảnh Việt Nam thực hiện cải cách kinh tế theo hướng xoá bỏ bao cấp của nhà nước cho khu vực doanh nghiệp và phân cấp ngân sách cho chính quyền địa phương.
Một cách cụ thể , theo quan điểm của chính phủ trong việc phát triển thị trường trái phiếu của Việt Nam hiện nay là phải nâng cao tỉ trọng trái phiếu trên GDP , gắn việc phát hành trái phiếu với phát triển thị trường vốn và thị trường chứng khoán; tăng cường khả năng quản lý, giám sát để thị trường hoạt động an toàn, có hiệu quả; đáp ứng yêu cầu hội nhập của khu vực và quốc tế: thị trường trái phiếu châu Á, liên kết thị trường vốn với Singapore..
Tuy còn non trẻ về tuổi đời, ít đa dạng trong chủ thể phát hành nhưng trong năm 2005 được coi là năm thành công của thị trường trái phiếu của Việt Nam và cũng là năm đánh dấu sự nở rộ của các loại trái phiếu trong nước được đăng kí giao dịch trên thị trường chứng khoán .
Trong năm qua , tuy còn ít loại trái phiếu nhưng cũng đã có nhiều loại trái phiếu được phát hành ra công chúng như trái phiếu chính phủ , trái phiếu chính quyền địa phương và trái phiếu doanh nghiệp, công trái giáo dục.
Thông qua hoạt động đấu thầu qua Ngân hàng nhà nước , qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bảo lãnh phát hành , Chính phủ đã huy động khoảng hơn 30.000 tỉ đồng trái phiếu. Riêng trái phiếu Chính phủ , tổng số vốn huy động trong giai đoạn 2001-2005 đã đạt gần 60.000 tỉ đồng.
Phát hành trái phiếu chính quyền địa phương cũng có nhiều khởi sắc. Đến nay, đã có 3 tỉnh, thành phố phát hành trái phiếu chính quyền địa phương với tổng số tiền huy động trên 7.000 tỷ đồng, trong đó Thành phố Hồ Chí Minh đã huy động 2.000 tỷ đồng trái phiếu, nâng tổng số huy động trong 3 năm (2003-2005) lên gần 6.000 tỷ đồng, Hà Nội huy động trên 1.100 tỷ đồng trái phiếu Thủ đô và Đồng Nai huy động khoảng 243 tỷ đồng
Năm 2005 cũng là năm các doanh nghiệp bắt đầu phát hành trái phiếu doanh nghiệp, góp phần giảm bớt áp lực vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Tính đến hết tháng 11/2005, tổng giá trị trái phiếu doanh nghiệp phát hành đạt trên 2.000 tỷ đồng
Một điểm nổi bật khác của thị trường vốn năm 2005 là nhiều doanh nghiệp hoạt động tại thị trường tài chính đã được đưa vào diện cổ phần hóa. Tiến độ chuẩn bị cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được đẩy nhanh với việc phát hành 1.365 tỷ đồng trái phiếu tăng vốn vào cuối tháng 12 vừa qua. Chính phủ cũng đã cho phép Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam cổ phần hóa theo hướng chuyển thành một tập đoàn tài chính mạnh
Trong năm 2006 thì chính phủ đang có dự án thành lập một thị trường trái phiếu chính phủ chuyên biệt tại thị trường giao dịch chứng khoán Hà Nội . Có thể nói, việc tập trung đấu thầu TPCP tại Hà Nội, đã đem lại hiệu quả bước đầu rất đáng khích lệ. Không những tỷ lệ thành công của các đợt đấu thầu cao, huy động được khối lượng vốn lớn cho đầu tư phát triển mà lãi suất trúng thầu thì ngày càng được điều chỉnh thấp xuống... Đây chính là tiền đề cho việc tổ chức một thị trường giao dịch trái phiếu thứ cấp chuyên biệt và hiệu quả.
Có thể nói , trong hai năm vừa qua chúng ta đã đạt được rất nhiều thành quả trong việc huy động vốn trên thị trường trái phiếu , nhất là việc đáp ứng nhu cầu khát vốn của các doanh nghiệp , các tổ chức tài chính. Tuy có nhiều thành công trong việc huy động vốn nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Đó là làm sao có thể phát triển thị trường trái phiếu một cách tốt hơn , làm sao có thể đa dạng hoá được các loại trái phiếu và khả năng toán cũng như việc có thể đưa ra nhiều dịch vụ, nhiều tiện ích hơn nữa. Vấn đề này đòi hỏi nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải có những chính sách phù hợp với thực tế hơn nữa.
5.3. Chứng khoán phái sinh
Khi nhắc đến thị trường vốn người ta thường chỉ chú ý đến cổ phiếu và trái phiếu. Nhưng trong thị trường vốn ngoài cổ phiếu và trái phiếu còn có thêm một công cụ nữa là chứng khoán phái sinh.
Vậy, chứng khoán phái sinh là gì? Và chứng khoán phái sinh bao gồm những loại nào?
Trong đề tài này, tôi chỉ xin giới thiệu một vài loại của chứng khoán phái sinh thông thường.
Chứng khoán phái sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như phân tán rủi ro, bảo vệ hoặc tạo lọi nhuận.Các chứng khoán phái sinh sẽ là đòn bẩy, làm tăng nhiều lần giá trị các các đối tượng đầu tư như cổ phiếu, trái phiếu, để đảm bảo rằng nếu giá của cổ phiếu, trái phiếu có thay đổi bao nhiêu thì giá của các công cụ phái sinh vẫn sẽ được duy trì ở mức ban đầu. Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính, như quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn. Các công cụ phái sinh rất phong phú và đa dạng, nhưng nhìn chung có bốn công cụ chính là Hợp đồng kỳ hạn (forwards), Hợp đồng tương lai (futures), Quyền chọn (options) và Hợp đồng hoán đổi (swaps).
thứ nhất : Hợp đồng tương lai
Hợp đồng tương lai (Futures) là việc thoả thuận giữa các bên về những nghĩa vụ mua bán phải thực hiện theo mức giá đã xác định cho tương lai mà không phụ thuộc vào giá thị trường tại thời điểm đó. Lúc đầu, đối tượng của các future trên thị trường là các mặt hàng đơn giản như lúa mì hay cà phê. Các nhà đầu tư mua và bán các hợp đồng future với mục đích nhằm giảm bớt sự lo ngại xảy ra những biến cố khiến giá bị đẩy lên cao hay xuống thấp trong những tháng sau đó. Ví dụ, công ty sản xuất sô- cô- la Hershay đã bao tiêu nguồn cung cấp ca- cao trên thị trường với các hợp đồng futures để giới hạn rủi ro nếu giá ca- cao tăng lên. Future thường được các nhà đầu tư xem là một phương thức tốt để hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Đến thập niên 80, các hợp đồng futures bắt đầu nở rộ và phố biến trong các giao dịch thương mại và bao gồm nhiều loại khác nhau, như Hợp đồng tương lai chỉ số chứng khoán (index futures), Hợp đồng tương lai lãi suất (interest futures), Hợp đồng tương lai ngoại hối (currency futures), Hợp đồng tương lai nông sản (agricultural futures), Hợp đồng tương lai kim loại và khoáng sản (metal and mineral futures)...
thứ hai : Hợp đồng kỳ hạn.
Hợp đồng kỳ hạn (Forward) là một thoả thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Hàng hoá ở đây có thể là bất kỳ thứ hàng hoá nào: từ nông sản, tiền tệ cho tới các chứng khoán. Điểm khác biệt của forward với future là giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau dựa theo những ước lượng mang tính cá nhân và giá này vào thời điểm giao nhận hàng hoá có thể thay đổi, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng
thứ ba : Option ( quyền của nhà đầu tư)
trong Option có hai loại là Option mua và Option bán.
OPTION mua: là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua option sẽ trả cho người bán option một khoản tiền, gọi là giá trị quyền chọn hay phí quyền chọn (option premium) và người mua option sẽ có quyền được mua (nhưng không bắt buộc phải mua) một lượng tài sản nhất định (chứng khoán, ngoại tệ, hàng hoá…) theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại thời điểm đã xác định trong tương lai. Người bán option nhận được tiền từ người mua option nên họ có trách nhiệm phải bán một lượng chứng khoán nhất định theo một giá cả đã được thoả thuận trước vào một ngày xác định trong tương lai (hoặc được thực hiện trước ngày đó) khi người mua option muốn thực hiện cái quyền được mua.
OPTION bán : là quyền của nhà đầu tư trong đó người mua OPTION bán sẽ phải trả cho người bán option bán một khoản tiền, gọi là phí quyền chọn và người mua option bán nay sẽ có qưyền được bán một lượng tài sản nhất định theo một mức giá đã được thoả thuận trước tại thời điểm đã được xác định trong tương lai.
Tuy nhiên, trên thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay thì chưa xuất hiện hai quyền này, do nó còn quá mới mẻ và thị trường chứng khoán Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện. Nhưng trên tất cả các thị trường chứng khoán khác trên thế giới thì hai quyền này rất phổ biến vì khả năng phân tán rủi ro của nó rất cao.
Thứ tư : SWAPS ( hợp đồng hoán đổi )
SWAPS dựa trên sự trao đổi và thực hiện hợp đồng trong lĩnh vực lãi suất và tiền tệ. Nhiều công ty, ngân hàng muốn có swap để ấn định tỷ lệ lãi suất nhằm giảm thiểu sự bất ổn trong kinh doanh. Ngoài ra, swap cũng rất hiệu quả trong việc huy động vốn. Đầu thập niên 90, Citi Bank, ngân hàng lớn nhất tại Mỹ đã mở rộng một số hoạt động đầu tư sang Nhật bản nên cần một lượng tiền yên Nhật rất lớn trong một thời gian ngắn, trong khi vốn của Citibank lại không có đủ đồng yên. Các chuyên gia nghiệp vụ ngân hàng của Citibank lập tức nghĩ ngay đến Chifon Bank của Nhật bản. Citibank đã thoả thuận một swap với Chifon Bank, theo đó Citi Bank chuyển cho Chifon Bank một lượng USD nhất định, đổi lại Chifon Bank sẽ cung cấp đồng yên cho hoạt động đầu tư của Citibank tại Nhật bản. Nhờ vậy mà chỉ trong vòng 24 tiếng, Citibank đã có đủ vốn cần thiết cho dự án đầu tư tại đây. Như vậy, swap là một cam kết song phương, theo đó các nhà đầu tư sẽ trao cho nhau vào một ngày nhất định một số lượng nhất định đồng tiền của một quốc gia A để lấy một số lượng nhất định đồng tiền của quốc gia B đã được quy đổi theo tỷ giá ngoại tệ hiện tại trong một thời hạn xác định, với điều hứa hoàn lại vốn khi đến kỳ hạn.
Trên thực tế, việc đầu tư vào các các công cụ phái sinh vẫn chưa được nhiều nhà đầu tư chú ý, bởi nếu các nhà đầu tư mạo hiểm mua thật nhiều cổ phiếu mà không băn khoăn về khả năng thua lỗ thì họ sẽ thu về hàng triệu USD lợi nhuận; trong khi đầu tư vào các công cụ phái sinh, tuy đảm bảo được sẽ không bị thua lỗ nhưng do các bên cung cấp công cụ phái sinh trên thị trường thường giới hạn một lượng cung cấp nhất định đồng thời yêu cầu mức phí khá cao, nên các nhà đầu tư chỉ thu về một phần lợi nhuận nhỏ hơn rất nhiều. Thông thường, thị trường sẽ không biến động nhiều như những suy đoán của các nhà đầu tư khi áp dụng công cụ phái sinh, nên đa phần các nhà đầu tư thường tiếc nuối vì đã bỏ qua lợi nhuận, hơn là mừng thầm vì đã đầu tư vào công cụ phái sinh.
Trên đây là những công cụ phái sinh phổ biến trên các thị trường giao dịch chứng khoán trên thế giới. Đây là những công cụ giúp các nhà đầu tư tránh được những nguy cơ do rủi ro khi đầu tư vào thị trường đầy mạo hiểm này.
6. Căn cứ vào phương thức hoạt động
6.1 Thị trường niêm yết tập trung
thị trường niêm yết tập trung hay còn gọi là sở giao dịch được tổ chức tập trung có địa điểm giao dịch cố định. Chứng khoán được mua bán là loại đã được niêm yết tại Sở giao dịch, việc mua bán được thực hiện theo phương thức đấu giá hai chiều giữa đại diện người mua và đại diện người bán.Các môi giới sàn giao dịch cùng nhau trả giá cạnh tranh và sẽ thực hiện giao dịch khi đạt được giá thoả đáng nhất cho khách hàng đầu tư .
Thị trường chứng khoán của Việt Nam hiện nay do mới xuất hiện nên chúng ta chỉ có hai thị trường niêm yết tập trung tại thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình phát triển của thị trường chứng khoán thì uỷ ban chứng khoán nhà nước cho biết trong năm 2006 tăng quy mô và chất lượng thị trường giao dịch chứng khoán. Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. Xây dựng đề án chuyển trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh thành Sở giao dịch chứng khoán; từng bước hoàn thiện hệ thống giao dịch của trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội theo hướng mô hình thị trường giao dịch phi tập trung với quy mô phù hợp. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết, hoàn chỉnh các quy trình nghiệp vụ để đưa Trung tâm lưu ký đi vào hoạt động trên cơ sở nhiệm vụ lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ chứng khoán từ các thị trường giao dịch chứng khoán.
Với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì thị trường niêm yết tập trung cũng đã có sự phát triển để đáp ứng với nhu cầu vốn đầu tư của các doanh nghiệp trên thị trường niêm yết cũng như trên thị trường giao dịch phi tập trung
6.2 thị trường phi tập trung (OTC)
thị trường phi tập trung(OTC) được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định nào mà chỉ dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế cạnh tranh và thương lượng giữa các công ty chứng khoán với nhau thông qua một sự trợ giúp quyết định nhiều đến hiệu quả hoạt động
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA317.doc