Trong thời kỳ này thì vùng Đông Nam Bộ đã chiếm hơn nửa tổng số vốn đầu tư 54%. Tiếp theo là Đồng bằng sông Hồng với 30%. Còn các vùng khác thì con số này là rất thấp. Duyên hải Nam Trung Bộ là 8%. Đồng bằng Sông Cửu Long là 2%, Bắc Trung Bộ (2%) và Đông Bắc (4%). Còn hai vùng Tây Nguyên, Tây Bắc con số này là 0%. Qua đây ta thấy tỉ lệ vốn đầu tư vào các vùng không đồng đều nhau. Tập trung ở vùng có các tỉnh thành phố phát triển. Còn các vùng khác thì cơ cấu vốn lẻ tẻ, ít ỏi. Đây cũng là điều bất cập làm cho đất nước phát triển không đều, gây nên khoảng cách giàu nghèo. Mặt khác ở từng vùng thì tỉ lệ vốn cũng khác nhau. Nếu hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. Thành phố Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 9991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký cả nước. Số liệu tương ứng của các địa phương như sau: Hà Nội 7763,5 (22%); Đồng Nai 34390 (9,7%); Bà Rịa - Vũng Tàu 2515,9 (7,1%); Bình Dương và Bình Phước 1677,9 (4,8%); Hải Phòng 1507,7 (4,3%); Quảng Ngãi 133,0 (3,8%); Quảng Nam Đà Nẵng 1013,7 (2,9%)
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1782 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hướng phục vụ tốt hơn công cuộc cnh, hđh của đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên thực hiện (1988) đã có 37 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với tổng số vốn đầu tư là 366 triệu USD. Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ra đời phù hợp với xu hướng của sự hợp tác nhiều mặt, nhiều chiều, tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. Tuy nhiên sau hai năm thực hiện đầu tư nước ngoài cũng đã bộc lộ một số quan điểm chưa phù hợp với điều kiện thực tế và thông lệ quốc tế. Vì vậy chúng ta đã thực hiện hai lần sửa đổi. Luật bổ sung thứ nhất được quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30-6-1990 và luật sửa đổi thứ hai là vào 23-12-1992. Trên cơ sở nhận thức ngày càng đúng đắn về hoạt động đầu tư nước ngoài, chúng ta đã có quan điểm rõ ràng về thu hút và sử dụng nguồn lực bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền kinh tế. Chúng ta coi trọng nguồn lực trong nước là quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng đối với sự phát triển lâu dài của nền kinh tế.
a) Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài thời gian qua
Giai đoạn trước 1996: FDI liên tục gia tăng cả về số dự án và vốn đầu tư, đạt mức kỷ lục là 8,6 tỷ USD về tổng số vốn đăng ký vào năm 1996. Trong giai đoạn này tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt khoảng 50% một năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng đáng kể từ mức 37 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký 342 triệu USD năm 1988 lên 326 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký 8640 triệu USD năm 1996.
Giai đoạn sau 1996: FDI vào Việt Nam liên tục giảm. Trong giai đoạn 1997-2000 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm trung bình khoảng 24% một năm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giảm đáng kể từ mức vốn đầu tư đăng ký khoảng 8,6 tỷ USD năm 1996 xuống còn 1,9 tỷ USD năm 2000. Ngoài ra, trong giai đoạn này, còn có một xu hướng khác rất đáng lo ngại và vốn đầu tư giải thể tăng cao hơn nhiều so với giai đoạn trước. Tổng số vốn đầu tư giải thể giai đoạn 1997-2000 khoảng 2,56% tỷ USD so với 2,69 tỷ USD của năm trước đó cộng lại.
Tính đến cuối năm 2002 đã có hơn 4500 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký và tăng vốn đạt trên 80 tỷ USD. Trừ các dự án giải thể trước thời hạn hoặc đã hết hạn hoạt động, hiện có trên 3670 dự án đang có hiệu lực, với tổng vốn đăng ký đạt trên 39 tỷ USD. Trong đó có gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh. 980 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính, gần 700 dự án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân. Tổng số vốn đầu tư thực hiện của các dự án đã cấp giấy phép khoảng 24 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện của các dự án còn hiệu lực là trên 21 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài chủ yếu dựa vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 66% số dự án và 64,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực này cũng thu hút tới trên 70% số lao động và tạo ra trên 90% giá trị xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 21% số dự án và 22,5% vốn thực hiện, lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chiếm 13% số dự án và 6% vốn thực hiện.
Về địa bàn đầu tư thì đầu tư trực tiếp nước ngoài tập trung chủ yếu vào vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng kinh tế trọng điẻem ở phía Nam. Trong số các địa phương thu hút mạnh mẽ đầu tư nước ngoài, thành phố Hồ Chí Minh giữ vị trí hàng đầu với 1224 dự án và 10394 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực, tiếp theo là Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương. Khu vực phía Bắc thu hút được ít hơn, trong đó đáng kể là Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh với tổng số 634 dự án, 9.625 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực.
b) Những hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định có ba hình thức chủ yếu là: Xí nghiệp liên doanh , xí nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng và hình thức ký hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao(BOT). Với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Việt Nam.
+ Hình thức xí nghiệp liên doanh.
Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều nhất trong thời gian qua, bởi vì:
Một là, họ tranh thủ được sự hỗ trợ và những kinh nghiệm của các đối tác Việt Nam trên thị trường mà họ chưa quen biết.
Hai là, các nhà đầu tư nước ngoài muốn san sẻ rủi ro với các đối tác Việt Nam do môi trường đầu tư Việt Nam còn nhiều bất trắc.
Ba là, hình thức này có khả năng thuận lợi hơn để các nhà đầu tư nước ngoài mở rộng phạm vi và lãnh thổ hoạt động kinh doanh so với hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Mặt khác, nhà nước cũng tạo điều kiện và giúp đỡ các doanh nghiệp trong nước liên doanh với nước ngoài nhằm sử dụng có hiệu quả mặt bằng và nhà xưởng, máy móc thiết bị hiện có.
Hiện nay, hình thức này chiếm 66,4% trong tổng số 815 xí nghiệp liên doanh đã được cấp giấy phép, 51% số vốn đăng ký và 30% số dự án.
+ Xí nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài.
Hình thức này ngày càng phát triển trong những năm gần đây, từ 5% năm 1989 đến 27% năm 1995 trong tổng số các dự án đã được cấp giấy phép.
Hình thức 100% vốn nước ngoài được các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài lựa chọn ngày càng nhiều vì nó có phần dễ thực hiện và thuận lợi hơn cho họ. Nhưng bằng hình thức đầu tư này, về phía nước nhận đầu tư thường chỉ nhận được các lợi ích trước mắt, về lâu dài, hình thức đầu tư này không hứa hẹn những lợi ích tốt đẹp, mà thậm chí nước nhận đầu tư còn phải gánh chịu nhiều hậu quả khó lường.
Khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế, hoặc áp dụng các hoạt động xây dựng- vận hành- chuyển giao(BOT) hay xây dựng chuyển giao vận hành (BTO)
Hiện nay hình thức này chiếm 36% vốn đăng ký và 66% số dự án
+ Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Là hình thức mà theo đó bên nước ngoài và bên Việt Nam cùng nhau thực hiện một hợp đồng đã được ký giữa hai bên, quy định rõ trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên trong sản xuất kinh doanh mà không thành lập một pháp nhân mới.
Hình thức này đã xuất hiện sớm ở Việt Nam nhưng đáng tiếc cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện được các qui định pháp lý cho nó. Điều đó đã gây không ít khó khăn cho việc giải thích hướng dẫn và vận dụng vào thực tế.
Lợi dụng sơ hở này, một số nhà đầu tư nước ngoài đã trốn tránh sự quản lý của nhà nước, đầu tư chui vào Việt Nam. Hoặc khi thực hiện các dự án lớn, các bên hợp doanh thường gặp khó khăn trong việc điều hành dự án.
Hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức dễ thực hiện và có ưu thế lớn trong việc phối hợp sản xuất các sản phẩm kỹ thuật cao đòi hỏi có sự kết hợp thế mạnh của nhiều công ty ở nhiều quốc gia. Đây cũng sẽ là xu hướng hợp tác sản xuất kinh doanh trong một tương lai gần, xu hướng của sự phân công lao động chuyên môn hóa sản xuất trên phạm vi quốc tế.
Và hình thức này chiếm 13% vốn đăng ký và 4% số dự án.
c) Các đối tác đầu tư
Đối tác Việt Nam
Theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài (LĐTNN) đã sửa đổi bổ sung 12/1992 thì mọi tổ chức kinh tế Việt Nam, kể cả doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp tư nhân (DNTN) được hợp tác trực tiếp với nước ngoài.
Nhưng thực tế thời gian qua, hầu như chỉ có các DNNN tham gia hợp tác kinh doanh với nước ngoài (chiếm 96% số dự án và 99% tổng số vốn đầu tư). Tình hình này phản ánh tình trạng thực tế của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn nhỏ bé, trình độ sản xuất và năng lực quản lý còn yếu kém.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải có chính sách thích hợp để khuyến khích phát triển DNTN và đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước đối với các DNTN.
Đối tác nước ngoài:
Thời kỳ đầu mới thực hiện luật đầu tư nước ngoài chủ yếu là các công ty nhỏ, thậm chí cả công môi giới đầu tư vào nước ta. Phần lớn là công ty thuộc khu vực Đông Á-TBD và Tây- Bắc Âu.
Về khu vực các nước đầu tư vào Việt Nam thì khu vực Đông Bắc Á(gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông) chiếm 55,4% số dự án và 40,8 vốn đăng ký của tất cả dự án đang còn hiệu lực. Đầu tư các nước ASEAN vào Việt Nam từ năm 1997 trở lại đây có chiều hướng suy giảm do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực và những hạn chế về khả năng phục hồi kinh tế (Singapore, vẫn giữ vị trí hàng đầu với 236 dự án và 7,2 tỷ USD vốn đăng ký). Đầu tư các nước Châu Âu như Pháp, Hà Lan vẫn nằm trong số 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, Hoa Kỳ đứng ở vị trí 13 với hơn 1,1 tỷ USD vốn đăng ký trong năm 2002.
d) Thực trạng đầu tư của Mỹ vào Việt Nam.
Tính đến ngày 31-8-2001, Mỹ có dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 1058 triệu USD và vốn đầu tư thực hiện đạt 489,4 triệu USD, Mỹ có 82 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm 58,6% tổng số vốn đầu tư là 306,2 triệu USD, tiếp đến là ngành dầu khí, công nghiệp nhẹ, xây dựng và thực phẩm. Nông, lâm nghiệp có 16 dự án chiếm 13,5% tổng vốn đầu tư.
Theo hình thức đầu tư, Mỹ có 83 dự án 100% vốn nước ngoài (chiếm 64,3% tổng số dự án), với tổng số vốn đầu tư là 554,3 triệu USD (chiếm 52,4% tổng vốn đầu tư); Tiếp theo là hình thức liên doanh có 33 dự án (25,6%) với vốn đầu tư là 369,8 triệuUSD (34,9%) và hợp đồng hợp tác liên doanh có 11 dự án (10,1%) với tổng vốn đầu tư là 134,1 triệu USD (12,7%).
Các dự án đầu tư của Mỹ đầu tư tại 26 tỉnh thành phố nhưng tập trung chủ yếu tại thành phố HCM với 37 dự án, với vốn đầu tư là 187,5 triệu USD; Hà Nội: 22 dự án với 158,1 triệu USD và Đồng Nai với 14 dự án, với vốn đầu tư là 181,4 triệu USD; 3 địa phương này chiếm 56% tổng số dự án và 50% tổng vốn đầu tư của Mỹ tại Việt Nam. Đây là những địa bàn có cơ sở hạ tầng và điều kiện sản xuất kinh doanh tốt hơn so với các tỉnh thành trong cả nước.
Tác động của hiệp định thương mại Việt - Mỹ đến triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam.
Cơ hội đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam thể hiện ở những điểm chính sau:
Thứ nhất, với mức thuế suất của nhiều mặt hàng giảm từ 40-60% xuống còn 3%, xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng. Ngân hàng Thế giới dự báo xuất khẩu Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng từ 368 triệu USD (mức năm ngoái) lên 1 tỷ USD/năm trong vòng 4 năm tới. Điều này sẽ khuyến khích các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam, đặc biệt có lợi cho ngành sản xuất quần áo, giày dép vì các doanh nghiệp Mỹ muốn tận dụng lợi thế nhân công rẻ ở Việt Nam "Việt Nam thực sự là nơi lý tưởng cho sản xuất, và điều này sẽ còn trở nên tốt hơn trong thời gian tới". Đó là lời phát biểu của ông Lalit Monteiro. (Tổng giám đốc hãng Nike tại Việt Nam)
Thứ hai, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ làm cho vị thế của Việt Nam được nâng trên trường quốc tế do đó sẽ có một số nhà đầu tư nước ngoài đến đây để xây dựng nhà máy sản xuất hàng hoá xuất khẩu đi Mỹ và những nhà đầu tư nước ngoài khác đang đầu tư tại Việt Nam sẽ có kế hoạch sản xuất.
Thứ ba, bằng những cam kết thực hiện dần việc minh bạch hoá, giảm thuế xuất, bỏ hàng rào phi thuế quan, cởi mở hơn nữa cho đầu tư nước ngoài, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ… Môi trường kinh doanh của Việt Nam chắc chắn sẽ ngày càng tốt hơn và mọi bên đều có lợi. Điều đó đồng nghĩa với đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam sẽ tăng.
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
1. Quy mô nhịp độ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh
Từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết ngày 12 năm 2001 thì nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số lượng dự án cũng như vốn đăng ký.
Đồ thị: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần không nhỏ trong tổng số vốn tiến hành CNH, HĐH đất nước. Tư khi luật đầu tư ra đời năm 1988 đã có 371,8 triệu USD đến nay con số đã tăng lên hàng nghìn (năm 1996 là 8497,3 triệu USD). Thời kỳ đầu tăng mạnh nhất vào những năm 1993, 1994, 1995 và sau đó có xu hướng giảm xuống vào những năm 1996, 1997, 1998, 1999 và đến năm 2001, 2002, 2003 đang tăng lên cho thấy tín hiệu khả quan hơn.
Sự biến động trên phần nào do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Phần lớn vốn đầu tư nước ngoài (trên 70%) vào Việt Nam là xuất phát từ các nhà đầu tư châu Á. Khi các nước này lâm vào cuộc khủng hoảng thì các nhà đầu tư ở đây rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính, khả năng đầu tư giảm sút. Một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng đó là sự giảm sút về khả năng hấp dẫn do điều kiện nội tại của nền kinh tế Việt Nam. Trong đó có việc do giảm bớt một số ưu đãi trong luật đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1996 so với trước.
Số lượng vốn cùng được thể hiện qua các dự án, quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1988-2000 là 11,44 triệu USD/1 dự án theo số lượng vốn đăng ký. Tuy nhiên quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân năm 1999 bị nhỏ đi một cách đột ngột (5,04 triệu USD/1 dự án). Quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 chỉ bằng 40,06% quy mô bình quân thời kỳ 1988-2001 và chỉ bằng 28,5% của năm cao nhất là năm 1995. Quy mô vốn bình quân của các dự án mới được cấp phép trong năm 2000 tuy đã tăng lên, nhưng sang năm 2001 mặc dù có thêm dự án với quy mô đầu tư lớn (nhà máy điện Phú Mỹ III số vốn đăng ký là 412,9 triệu USD, mạng điện thoại di động số vốn đăng ký 230 triệu USD) dự án chế biến nông sản phẩm tại TP HCM có vốn đăng ký 120 triệu USD…). Nhưng quy mô vốn bình quân của các dự án đạt bằng 97,4% mức bình quân năm 2000. Điều đó chứng tỏ năm 2001 có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với qui mô nhỏ.
2. Cơ cấu vốn đầu tư
a) Cơ cấu vốn đầu tư FDI tại Việt Nam theo vùng lãnh thổ
Trong thời kỳ này thì vùng Đông Nam Bộ đã chiếm hơn nửa tổng số vốn đầu tư 54%. Tiếp theo là Đồng bằng sông Hồng với 30%. Còn các vùng khác thì con số này là rất thấp. Duyên hải Nam Trung Bộ là 8%. Đồng bằng Sông Cửu Long là 2%, Bắc Trung Bộ (2%) và Đông Bắc (4%). Còn hai vùng Tây Nguyên, Tây Bắc con số này là 0%. Qua đây ta thấy tỉ lệ vốn đầu tư vào các vùng không đồng đều nhau. Tập trung ở vùng có các tỉnh thành phố phát triển. Còn các vùng khác thì cơ cấu vốn lẻ tẻ, ít ỏi. Đây cũng là điều bất cập làm cho đất nước phát triển không đều, gây nên khoảng cách giàu nghèo. Mặt khác ở từng vùng thì tỉ lệ vốn cũng khác nhau. Nếu hai thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã chiếm hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. Thành phố Hồ Chí Minh với số vốn đăng ký 9991,3 triệu USD (chiếm 28,3% tổng vốn đăng ký cả nước. Số liệu tương ứng của các địa phương như sau: Hà Nội 7763,5 (22%); Đồng Nai 34390 (9,7%); Bà Rịa - Vũng Tàu 2515,9 (7,1%); Bình Dương và Bình Phước 1677,9 (4,8%); Hải Phòng 1507,7 (4,3%); Quảng Ngãi 133,0 (3,8%); Quảng Nam Đà Nẵng 1013,7 (2,9%)…
Với mong muốn thu hút hoạt động đầu tư nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng nên chính phủ ta đã có chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào "những vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa". Tuy vậy, vốn nước ngoài vẫn được đầu tư trực tiếp chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế. Và vì thế đầu tư nước ngoài theo vùng lãnh thổ để kết hợp hoạt động này với việc khai thác tiềm năng trong nước, đạt kết quả chưa cao. Đây cũng là vấn đề cần điều chỉnh trong thời gian tới trong lĩnh vực này.
b) ĐTTTNN vào Việt Nam phân theo ngành kinh tế
Đồ thị 2: Cơ cấu vốn FDI tại Việt Nam theo ngành kinh tế
Nhìn vào đồ thị tính cả thời kỳ 1988-2001, các dự án đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm tỉ trọng lớn cả về số dự án lẫn vốn đầu tư (38%), tiếp đó là các lĩnh vực dịch vụ, khách sạn - du lịch, xây dựng… còn các ngành tài chính ngân hàng, văn hoá, y tế, giáo dục, GTVT, bưu điện chiếm con số nhỏ. Ta nhận thấy cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã có chuyển biến tích cực, phù hợp hơn với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với sự nghiệp CNH- HĐH. Ở thời kỳ đầu các dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực khách sạn văn phòng cho thuê… từ 1995, 1996 đến nay các dự án đã tập trung vào lĩnh vực sản xuất nhiều hơn. Theo số liệu thống kê trên đồ thị ta nhận thấy rằng sự phù hợp tương đối của các chỉ số này với yêu cầu về cơ cấu của một nền kinh tế hiện đại, CNH: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp. Việt Nam đi lên từ một nước nông nghiệp và nông nghiệp là một thế mạnh của Việt Nam, tập trung hơn 75% số lao động. Và nông nghiệp của Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để khai thác. Sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH là thực hiện CNH, HĐH ở nông thôn, nông nghiệp, để tạo ra việc làm, thu nhập cho một số đông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số dân cư Việt Nam.
3. Tình hình sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tiến độ thực hiện vốn đầu tư của các dự án.
Năm
Vốn thực hiện (triệu USD)
So với vốn đăng ký mới trong năm (%)
Vốn nước ngoài (triệu USD)
Vốn trong nước (triệu USD)
1991
478
37,49
432
46
1992
542
26,74
478
64
1993
1097
42,37
871
226
1994
2213
59,08
1936
277
1995
2761
41,79
2363
398
1996
2837
32,84
2447
390
1997
3032
62,53
2768
264
1998
2189
56,17
2062
127
1999
1933
123,36
1758
175
2000
2100
105,69
1900
200
2001
2300
94,42
2100
200
Tổng
21482
51,72
19115
2367
Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế 2001-2002 Việt Nam và thế giới, tr50.
Đến hết năm 2001 tổng số vốn đã thực hiện bằng 51,72% của tổng số vốn đăng ký. Trong điều kiện của Việt Nam kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị trường phát triển chưa đầy đủ… thì tỷ lệ vốn thực hiện như vậy là không thấp. Đặc biệt vào những năm (1999, 2000) số vốn thực hiện lớn hơn số vốn đăng ký (123,9%). Ở Việt Nam, số vốn thực hiện của từng năm chủ yếu là các dự án đã phê duyệt từ trước đó vì khi phê duyệt các dự án chưa có đủ điều kiện để thực hiện ngay vì thế so sánh số vốn thực hiện của từng năm so với số vốn đăng ký còn lại (tổng số vốn đăng ký trước đó trừ đi số vốn thực hiện) thì tỉ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thiếu ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu năm 1997 và sau đó giảm dần từ 1998 đến 1999, năm 2000, 2001 đã có biểu hiện của xu hướng tăng lên. Nếu xét trên tổng thể hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam thì tỷ trọng vốn nước ngoài đang chiếm phần lớn (9%) trong tổng số vốn thực hiện. Và số vốn đang có xu hướng giảm xuống kể từ năm 1996.
Khu chế xuất và khu công nghiệp là loại địa bàn tương đối hấp dẫn nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài nước. Vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là 2037,6 triệu USD.
Đầu tư nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế được lựa chọn:
+ Lĩnh vực dầu khí: thu hút tập đoàn kinh tế lớn của thế giới tham gia đầu tư.
+ Lĩnh vực công nghiệp điện tử: là lĩnh vực các nhà đầu tư nước ngoài có mặt tương đối sớm, vốn thực hiện chiếm tỉ lệ cao so với vốn đăng ký. Vốn đăng ký 615 triệu USD, vốn thực hiện là 60%.
+ Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy: thu hút được nhiều nhà đầu tư nổi tiếng như Toyota, Honda, Suzuki… với số vốn thực hiện của các dự án đầu tư sản xuất ô tô là 376 triệu USD (bằng 43,12% vốn đăng ký).
+ Lĩnh vực viễn thông: tổng số vốn đăng ký là 2 tỷ USD.
+ Hoạt động kinh doanh khách sạn du lịch có 7585 triệu USD vốn đăng ký và đã có 33,26% (2553 triệu USD) vốn thực hiện.
+ Lĩnh vực công nghiệp hoá chất: tổng số vốn đăng ký là trên 2 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 682 triệu USD.
+ Lĩnh vực dệt may giày dép: vốn đăng ký là 2396 triệu USD, vốn thực hiện là 1079 triệu USD.
+ Lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp: Vốn đăng ký là 1,86 tỷ USD và vốn thực hiện là 852 triệu USD.
4. Tác động tích cực của đầu tư nước ngoài đối với công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Thứ nhất: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong những điều kiện kiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Thực tế cho thấy, từ khi thực hiện chính sách FDI cho đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện Việt Nam bình quân 1.111,75 triệu USD/năm; vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân 16291 tỷ tỷ đồng/năm, thời kỳ 1991 - 1999.
Đối với một nền kinh tế như của nước ta, thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến, không chỉ về qui mô mà còn có vai trò như "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu tư của ta đạt được hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991 - 1999 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án FDI chiếm 26,51% và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên.
Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng, giúp Việt Nam phát triển một nền kinh tế bền vững theo yêu cầu của công cuộc CNH - HĐH.
Hoạt động FDI còn là một trong những nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, điều này được chứng minh thông qua số tiền thực hiện nộp ngân sách nhà nước tăng lên qua các năm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về định tính, sự hoạt động của đồng vốn có nguồn vốn từ FDI như là một trong những động lực gây phản ứng dây chuyển làm thúc đẩy sự hoạt động của đồng vốn trong nước.
Thứ hai: Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo nên năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước (chỉ số phát triển của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm 1997 là: 120,75% và chỉ số phát triển chung của cả nước là 108,15%; năm 1998 là: 116, 88% và 105,8%. Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong GDP cũng có xu hướng tăng lên (năm 1997 là 9,08%; năm 1998 là 10,12%; 1999 là 13,3%).
Đối với ngành công nghiệp: Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những chiếm tỷ trọng cao mà còn có xu hướng tăng lên đáng kể trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp. Tỷ trọng giá trị sản xuất của khu vực này, đạt từ 28,9% năm 1997 đã tăng lên 31,98% năm 1998 và 34,73% năm 1999. Trong ngành công nghiệp khai thác, các doanh nghiệp có vón đầu tư nước ngoài đang có vị trí hàng đầu với tỷ trọng 79% giá trị sản xuất của toàn ngành. Trong ngành công nghiệp chế biến, tỷ trọng này chiếm khoảng 22% và có xu hướng ngày càng tăng.
Đối với ngành công nghiệp: Tính đến nay, có 211 dự án FDI đang hoạt động trong ngành với tổng số vốn đăng ký hơn 2 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài đã góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất cho ngành, chuyển giao cho lĩnh vực nhiều giống cây, giống con tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, góp phần thúc đẩy quá trình đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp và khả năng cạnh tranh của nông lâm sản hàng hoá. Vốn đầu tư nước ngoài còn góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông lâm nghiệp theo yêu cầu của nền kinh tế CNH - HĐH. Nếu như trước đây đầu tư nước ngoài chỉ chủ yếu tập trung vào chế biến gỗ, lâm sản thì những năm gần đây nhiều dự án đã hướng vào các lĩnh vực sản xuất giống, trồng trọt, sản xuất thức ăn chăn nuôi, mía đường, trồng rừng…
Vấn đề những công nghệ đang được sử dụng ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hiện còn những ý kiến đánh giá khác nhau. Nhưng nếu phân tích theo logic, cùng với đánh giá thực tế của một số cơ quan chuyên môn thì thấy rằng: Các nhà đầu tư nước ngoài bao giờ cũng đặt lợi nhuận và thời gian thu hồi vốn là mục tiêu hàng đầu. Tiếp theo là thiết bị công nghệ. Mặc dù chưa phải là hiện đại nhất của thế giới nhưng phần lớn là hiện đại hơn những thiết bị đã cố trước đây của Việt Nam.
Một vấn đề cũng rất quan trọng là, nếu như trước đây, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ biết sản xuất kinh doanh thụ động thì sự xuất hiện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành nhân tố tác động mạnh làm thay đổi cản bản phương thức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam theo hướng thích cực và ngày càng thích nghi với nền kinh tế thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam phải đương đầu với vấn đề xác định khả năng tồn tại hay phá sản. Để có thể tồn tại các doanh nghiệp Việt Nam chỉ còn cách là thay đổi một cách canư bản từ công nghệ cho đến phương thức sản xuất kinh doanh.
Thứ ba: Hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một số lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp có thu nhập cao, đồng thời góp phần hình thành cơ chế thúc đẩy việc nâng cao năng lực sản xuất cho người lao động.
Tính đến ngày 31/12/1999 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 296.000 việc làm trực tiếp và khoảng 1 triệu lao động gián tiếp. Như vậy, số lao động làm việc trong các bộ phận có liên quan đến hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài chiếm khoangr 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực nhà nước.
Thu nhập bình quân của lượng lao động này là 70 USD/ tháng bằng khoảng 150% mức thu nhập bình quân của lao động trong khu vực Nhà nước. Đây là yếu tố hấp dẫn đối với lao động Việt Nam do đó đã tạo ra sự cạnh tranh nhất định trên thị trường lao động. Tuy nhiên, lao động làm việc trong các doanh nghiệp này đòi hỏi cường độ lao động cao, kỷ luật nghiêm khắc, trình độ cao là yếu tố tạo nên người Việt Nam có ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ tay nghề.
Về đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- CD211.doc