Thực chất của chính sách xúc tiến hỗn hợp là sử dụng các chính sách thích hợp như khuyếch trương, quảng cáo, khuyến mại. để thúc đẩy bán hàng.
- Quảng cáo: Là hình thức truyền thông không trực tiếp, phi cá nhân, được thực hiện thông qua các phương tiện truyền tin phải trả tiền và các chủ thể quảng cáo cho hàng hóa sản phẩm, dịch vụ hay cho uy tín hình ảnh của Công ty. Thông qua các phương tiện truyền tin quảng cáo đối tượng người nhận tin đó là khách hàng tương lai. Các doanh nghiệp phải lựa chọn phương tiện quảng cáo phù hợp với sản phẩm của mình, phong tục tập quán của tường nơi để đạt được hiệu quả của quảng cáo cao nhất, đó là tăng khối lượng tiêu thụ.
- Xúc tiến bán: Là sử dụng hỗn hợp các công cụ để cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại chỗ tức thì. Xúc tiến bán còn gọi là khuyến mại có tác động trực tiếp và tích cực đến việc tăng doanh thu. Hình thức này gần đây đã được hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng và bước đầu đã thu được những thành công
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1732 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm của ngành dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất nhiều nhà quản trị học cho rằng dịch vụ cũng thuộc phạm trù vật phẩm tiêu dùng.
Trong nghiên cứu thị trường nói chung và nghiên cứu cầu nói riêng chú ý nghiên cứu sản phẩm thay thế.
Việc thường xuyên nghiên cứu thị trường nhằm xác định những thay đổi của cầu do tác động của các nhân tố mốt, sự ưa thích, sản phẩm thay thế, thu nhập và mức sống của người tiêu dùng. Đồng thời nghiên cứu thị trường cũng phải phản ứng cụ thể của người tiêu dùng trước các biện pháp quảng cáo, các phản ứng của đối thủ cạnh tranh trước những chính sách bán hàng mới của doanh nghiệp .
Nghiên cứu thị trường không chỉ có nhiệm vụ tạo ra các cơ sở dữ liệu về thị trường mà hơn thế còn phải tìm các khả năng có thể ảnh hưởng tới cầu. Chẳng hạn: giá cả sản phẩm, giá cả sản phẩm thay thế, thu nhập người tiêu dùng, các biện pháp quảng cáo cũng như có giãn của cầu đối với từng nhân tố tác động đến nó...
1.2. Nghiên cứu cung
Nghiên cứu cung để hiểu rõ đối thủ cạnh tranh hiện tại trong tương lai. Sự thay đổi trong tương lai gắn với khả năng mở rộng hay thu hẹp quy mô của các doanh nghiệp cũng như sự thâm nhập mới hoặc rút khỏi thị trường của các doanh nghiệp hiện có. Nghiên cứu cung phải xác định được số lượng đối thủ như thị phần, chương trình sản xuất, đặc biệt là chính sách chất lượng và sự khác biệt hóa sản phẩm... Mặt khác, phải làm rõ khả năng phản ứng của đối thủ trước các biện pháp về giá cả, quảng cáo, xúc tiến bán hàng... của doanh nghiệp. Trong thực tế, trước hết phải quan tâm nghiên cứu đối thủ mạnh, chiếm thị phần cao trong thị trường. Cần chú ý không phải mọi doanh nghiệp cùng sản xuất một loại sản phẩm đều trở thành đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp vì khả năng cạnh tranh còn phụ thuộc vào yếu tố khu vực, điều kiện giao thông cũng như các yếu tố gắn với khả năng giao lưu thương mại khác.
Nghiên cứu cung không chỉ giới hạn ở việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh mà còn phải quan tâm đến các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thay thế cũng như ảnh hưởng này đến thị trường tương lai của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của sản phẩm thay thế gắn với việc xác định hệ số có giãn chéo của cầu.
1.3. Nghiên cứu mạng lưới tiêu thụ
Tốc độ tiêu thụ không những phụ thuộc vào quan hệ cung-cầu mà còn tùy thuộc rất lớn vào việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ. Việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ cụ thể thường phụ thuộc vào các đặc điểm kinh tế-kỹ thuật, chiến lược kinh doanh, chính sách và kế hoạch tiêu thụ... của doanh nghiệp. Khi nghiêc cứu mạng lưới tiêu thụ phải chỉ rõ các ưu nhược điểm của từng kênh tiêu thụ của doanh nghiệp và của đối thủ cạnh tranh; phải biết lượng hàng hóa mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả tiêu thụ cũng như phân tích các hình thức tổ chức bán hàng cụ thể của doanh nghiệp cũng như của các đối thủ cạnh tranh và từ đó tìm ra phương thức tiêu thụ có lợi cho doanh nghiệp về chi phí cũng như khả năng bán hàng.
2. Kế hoạch hóa khâu tiêu thụ
2.1. Kế hoạch hóa bán hàng
Dựa vào kinh nghiệm thời kỳ trước và nghiên cứu, thăm dò thị trường để xác định chính sách giá cả và kế hoạch hóa tiêu thụ. Để xây dựng kế hoạch tiêu thụ cần dựa trên các nguyên tắc cụ thể: doanh thu tiêu thụ ở các thời kỳ trước, các kết quả nghiên cứu thị trường cụ thể, năng lực sản xuất và chi phí kinh doanh tiêu thụ của doanh nghiệp. Tốt nhất là phải có số liệu thống kê cụ thể về doanh thu từng loại, nhóm loại sản phẩm trên từng thị trường tiêu thụ trong từng khoảng thời gian ngắn. Mặt khác, phải dự báo những thay đổi về các nhân tố liên quan đến hoạt động tiêu thụ. Sẽ là rất tốt nếu kế hoạch hàng năm dựa trên cơ sở các hợp đồng đã ký kết hoặc dự kiến ký với khách hàng và các dự kiến tiêu thụ cho nhóm khách hàng theo từng loại, nhóm loại sản phẩm, trên từng khu vực thị trường cụ thể.
Để xác định các chỉ tiêu tiêu thụ cần tính toán năng lực sản xuất (đối với doanh nghiệp sản xuất) hoặc năng lực bán hàng (đối với doanh nghiệp thương mại) hoặc cả năng lực sản xuất và năng lực phục vụ khách hàng (các doanh nghiệp dịch vụ). Giữa năng lực sản xuất và kế hoạch tiêu thụ có quan hệ biên chứng.
Vì thế khi kê hoạch hóa tiêu thụ phải tính toán, cần nhắc kỹ lượng đến kế hoạch sản xuất, đưa ra nhiều phương án kết hợp khác nhau và giải quyết với sự trợ giúp của vi tính nhằm tìm ra được phương án thỏa mãn nhất các mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh, tận dụng năng lực sản xuất, giảm chi phí kinh doanh và giá thành sản phẩm.
Hơn nữa trong kế hoạch tiêu thụ phải chỉ ra các chính sách cũng như giải pháp tiêu thụ sản phẩm thích hợp. Việc xác định các giải pháp và chính sách tiêu thụ phải dựa vào kết qủa phân tích các chính sách, giải pháp đang áp dụng vào các dự báo liên quan đến sự thay đổi của khách hàng và đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Những biện pháp mới luôn có tác dụng rất tốt đối với kết quả tiêu thụ sản phẩm.
2.2. Kế hoạch hóa marketing
Mục đích của kế hoạch marketing là tạo ra sự hài hòa giữa kế hoạch tiêu thụ sản phẩm với kế hoạch hóa các giải pháp cần thiết (khuyến mại, quảng cáo, tổ chức mạng lưới, giá cả...) cũng như bốn khâu cơ bản là sản xuất, địa điểm, giá cả, và khuyến mại.
Để xây dựng kế hoạch marketing phải phân tích và đưa ra các dự báo liên quan đến thị trường, điểm mạnh, điểm yếu của bản thân doanh nghiệp, các mục tiêu của kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, ngân quỹ có thể dành cho hoạt động marketing...
Nội dung chủ yếu của kế hoạch marketing gắn với lập kế hoạch sản phẩm nhằm xác định sản phẩm mới được bổ sung, sản phẩm cũ nào phải chấm dứt, sản phẩm cần được đổi mới, đối với mỗi lại sản phẩm phải xác định rõ thời gian không gian đưa ra thị trường, các nguồn lực, phương tiện để thực hiện các mục tiêu đặt ra, các kết quả có thể đạt được ở từng khoảng thời gian và không gian cũng như phương thức đánh giá cụ thể.
2.3. Kế hoạch hóa quảng cáo
Để kế hoạch hóa quảng cáo cần phân biệt thời kỳ ngắn hạn hay dài hạn. Mục tiêu của quảng cáo là mở rộng tiêu thụ sản phẩm đối với một bộ phận hay toàn bộ các loại sản phẩm. Doanh nghiệp phải đưa ra và lựa chon các phương án quảng cáo cụ thể và đưa ra kế hoạch.
Nội dung chủ yếu của kế hoạch quảng có thường đề cập đến việc xác định hình thức quảng cáo cụ thể, quy mô của mỗi hình thức quảng cáo trong đó xác định thời gian và địa điểm cụ thể và xác định các phương tiện sử dụng cũng như xác định ngân quỹ quảng cáo tối ưu cho kỳ kế hoạch. Để xác định ngân quỹ tối ưu cho quảng cáo phải giải quyết hai vấn đề: mức chi phí tuyệt đối quảng cáo ở kỳ kế hoạch và ngân sách có dành cho quảng cáo. Có thể sử dụng hai phương pháp kế hoạch hóa đồng thời hoặc từng bước. Về mặt phương pháp luật, chỉ có trên cơ sở kế hoạch hóa đồng thời mới có thể giả quyết mọi vần đề một cách tối ưu. Trong thực tế việc kế hoạch hóa đồng thời còn gặp vấn đề khó khăn đòi hỏi phải giải quyết sau đây:
Chi phí kinh doanh cận biên và đặc trưng cận biên cho mỗi phương pháp quảng cáo cụ thể.
Dự báo về các phản ứng dây chuyền của các đối thủ cạnh tranh trước các giải pháp quảng cáo cụ thể.
Trong thực tế để khắc phục các khó khăn trên bằng cách áp dụng kế hoạch hóa ngân quỹ từng bước. Trước hết phải xác định lượng ngân quỹ tối ưu, sau đó phân chi ngân quỹ cho các hình thức, phương pháp quảng cáo cụ thể. Nguyên tắc xác định là chi phí kinh doanh biên cho một phương pháp quảng cáo bằng với lợi nhuận biên do biện pháp quảng cáo đó tạo ra. Kế hoạch hóa ngân quỹ từng bước cần sự hỗ trợ của kỹ thuật vi tính.
2.4. Kế hoạch hóa chi phí kinh doanh tiêu thụ sản phẩm
Chi phí kinh doanh tiêu thụ sản phẩm là mọi chi phí kinh doanh xuất hiện gắn với hoạt động tiêu thụ. Đó là các chi phí kinh doanh về lao động và tính hao phí vật chất liên quan đến bộ phận tiêu thụ, bao gồm cả hoạt động tính toán, báo cáo thanh toán gắn với hoạt động tiêu thụ cũng như các hoạt động đại diện, bán hàng, quảng cáo, nghiên cứu thị trường, vận chuyển...
Kế hoạch hóa tiêu thụ cũng chịu ảnh hưởng của chi phí kinh doanh cho hoạt động tiêu thụ và kế hoạch hóa chi phí kinh doanh tiêu thụ được coi là bộ phận cấu thành kế hoạch hóa tiêu thụ. Cần chú ý rằng bên cạnh việc tính toán và xác định chính xác chi phí kinh doanh sản xuất thì việc tính toán và xác định chính xác chi phí kinh doanh tiêu thụ là cần thiết. Mỗi chính sách và giải pháp tiêu thụ đưa ra đều gắn liền với những chi phí kinh doanh cần thiết khi thực hiện chùng và làm tăng chi phí kinh doanh tiêu thụ.
3. Các chính sách marketing-mix trong công tác tiêu thụ sản phẩm
3.1. Chính sách sản phẩm
Chỉ khi có được chiến lược sản phẩm thì doanh nghiệp mới có phương hướng đầu tư, nghiên cứu thiết kế sản phẩm. Từ việc hình thành ý tưởng sản phẩm đến việc sản xuất hàng loạt và quyết định tung ra thị trường là công đoạn hết sức phức tạp tỉ mỉ yêu cầu các doanh nghiệp đầu tư rất nhiều tiền của và thời gian. Nhưng những công lao ấy sẽ được đề đáp xứng đáng khi có được các sản phẩm tốt và được khách hàng ưa chuộng, từ đó tạo cho doanh nghiệp một lợi thế cạnh tranh rất lớn trước các đối thủ. Bên cạnh đó việc lựa chọn loại sản phẩm kinh doanh cũng phải đặc biệt chú ý thực hiện các mục tiêu chiến lược kinh doanh.
3.2. Chính sách giá
Khi định giá các doanh nghiệp không thể bỏ qua các thông tin về giá thành, giá cả và các phản ứng về giá của các đối thủ cạnh tranh. Bởi vì giá là một trong những yếu tố rất nhạy cảm và sự thay đổi về giá sẽ rất dễ dẫn đến cuộc cạnh tranh giá cả. Việc quan trọng của các nhà quản trị là phải nắm bắt được thông tin đầy đủ về giá cả thị trường và chi phí sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp để từ đó tính được mức giá phù hợp với người tiêu dùng mà vẫn đảm bảo mức lợi nhuận mong muốn cho doanh nghiệp.
Có một số phương pháp định giá như sau:
- Định giá dựa vào chi phí: đó là việc dựa vào kết quả tính toán phân tích chi phí của doanh nghiệp, mức lãi cần thiết mà doanh nghiệp cho là phù hợp và thường các doanh nghiệp định giá bán bằng cách cộng giá thành và lợi nhuận nhất định.
- Định giá bán theo mức giá hiện hành: doanh nghiệp sẽ lấy mức giá của các đối thủ cạnh tranh làm cơ sở. Họ ít quan tâm đến chi phí sản xuất và cầu thị trường. Điều đó không đồng nghĩa với việc doanh nghiệp sẽ đặt giá ngang bằng giá của đối thủ cạnh tranh mà doanh nghiệp sẽ tùy thuộc vào sự khác biệt hóa sản phẩm mà chọn mức giá cao hay thấp hơn đối thủ mà khách hàng chấp nhận được.
- Định giá theo cảm nhận: là việc doanh nghiệp định giá căn cứ vào cảm nhận của người mua về giá trị hàng hóa của doanh nghiệp. Đây là cách định giá rất khó vì vậy nếu doanh nghiệp áp dụng cách định giá này thì phải xác định chính xác nhận thức của thị trường về giá trị hàng hóa và tránh khuynh hướng thổi phồng giá trị của sản phẩm dẫn đến định giá quá cao.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn có thể định giá sản phẩm theo kiểu “hớt phần ngon” hoặc chiến lược “bám chắc thị trường”.
3.3. Chính sách xúc tiến hỗn hợp
Thực chất của chính sách xúc tiến hỗn hợp là sử dụng các chính sách thích hợp như khuyếch trương, quảng cáo, khuyến mại... để thúc đẩy bán hàng.
- Quảng cáo: Là hình thức truyền thông không trực tiếp, phi cá nhân, được thực hiện thông qua các phương tiện truyền tin phải trả tiền và các chủ thể quảng cáo cho hàng hóa sản phẩm, dịch vụ hay cho uy tín hình ảnh của Công ty. Thông qua các phương tiện truyền tin quảng cáo đối tượng người nhận tin đó là khách hàng tương lai. Các doanh nghiệp phải lựa chọn phương tiện quảng cáo phù hợp với sản phẩm của mình, phong tục tập quán của tường nơi để đạt được hiệu quả của quảng cáo cao nhất, đó là tăng khối lượng tiêu thụ.
- Xúc tiến bán: Là sử dụng hỗn hợp các công cụ để cổ động, kích thích khách hàng nhằm tăng nhanh nhu cầu về sản phẩm tại chỗ tức thì. Xúc tiến bán còn gọi là khuyến mại có tác động trực tiếp và tích cực đến việc tăng doanh thu. Hình thức này gần đây đã được hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng và bước đầu đã thu được những thành công
- Tuyên truyền: Là việc sử dụng thông tin đại chúng không mất tiền để giới thiệu về hàng hoá đối với và chính doanh nghiệp tới khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng. Hình thức này còn tương đối mới ở Việt Nam nhưng trong tương lai gần sẽ rất phát triển, đây là vấn đề các doanh nghiệp cần quan tâm để quảng bá hình ảnh về doanh nghiệp mình.
- Bán hàng cá nhân: Là sự giới thiệu bằng miệng về hàng hoá và đối với của người bán hàng thông qua việc đối thoại với một hay nhiều khách hàng nhằm mục đích bán hàng. Với cách bán hàng này yêu cầu nhân viên bán hàng phải được đào tạo tốt trong cách ứng xử và phải nhiệt tình với công việc. Đây là hình thức nếu biết tận dụng sẽ đạt hiệu quả rất cao.
Các doanh nghiệp cần biết tận dụng các ưu điểm của các công cụ xúc tiến bán hàng và áp dụng chúng vào trong từng trường hợp, giai đoạn chu kỳ sống của sản phẩm để đạt được mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp.
3.4. Các hoạt động phân phối và dịch vụ sau bán
3.4.1. Tổ chức kênh phân phối
Có thể phân thành hai hệ thống kênh chủ yếu; kênh tiêu thụ trực tiếp và kênh tiêu thụ gián tiếp. Kênh tiêu thụ trực tiếp nếu người sản xuất trực tiếp bán hàng cho người tiêu dùng. Kênh tiêu thụ gián tiếp nếu người sản xuất không bán trực tiếp cho người tiêu dùng, giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng là các trung gian khác nhau. Kênh tiêu thụ gián tiếp lại được chia thành nhiều hệ thống với các trung gian kênh tiêu thụ khác nhau.
Vấn đề là chỗ doanh nghiệp nên xác định kên phân phối nào? Chọn ai là trung gian bán hàng? ai là đại diện cho doanh nghiệp? để lựa chọn và đưa ra quyết định cụ thể phải trên cơ sở phân tích các đặc điểm kinh tế kỹ thuật, quy mô của doanh nghiệp, quy mô và phạm vi thị trường,…. đồng thời phải nghiên cứu cân nhắc lựa chọn người cụ thể làm đại diện hoặc trung gian cho mình. Muốn vậy, phải thu thập thông tin liên quan đến mạng lưới các doanh nghiệp thương mại bán buôn và thương mại bán lẻ.
Việc xác định hệ thống kênh tiêu thụ sản phẩm phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp.
Các kênh phân phối
Trực tiếp
Gián tiếp
Người SX
Người SX
Đại lý
Người TD
Người TD
Người SX
Người SX
Người SX
Người SX
Đại diện TM
Bán lẻ
Người TD
Bán buôn
Bán buôn
Bán buôn
Bán lẻ
Người TD
Bán lẻ
Bán lẻ
Người TD
Người TD
Hệ thống kênh phân phối
3.4.2. Trang thiết bị bán hàng
Mục tiêu của trang tư bản bán hàng không phải chỉ đảm bảo cho quá trình bán hàng thuận lợi, bảo quản hàng hoá còn mà còn phải thu hút khách hàng. Nhằm bảo quản hàng hoá và bán hàng thuận lợi tăng thiết bị phụ thuộc vào không gian bán hàng và đặc điểm của hàng hoá. Yêu cầu tối thiểu về trang thiết bị nơi bán hàng là phải đảm bảo đủ diện tích, đủ độ thoáng, mát cũng như đủ độ sáng. Trang tí nơi bán hàng phải phù hợp với hình thức tổ chức bán hàng.
Nhằm thu hút khách hàng, trang thiết bị tạo dáng bên ngoài phải tạo được dáng vẻ riêng của doanh nghiệp, phân biệt từ xa với doanh nghiệp khác, trang thiết bị bán hàng bên trong cửa hàng phải tạo cho khách hàng cảm giác thoải mái, dễ chịu, có tác dụng khích thích tò mò, cuốn hút khách hàng đi vào mọi ngóc ngách bày hàng.
3.4.3. Tổ chức bán hàng
Quản trị nhân sự phải tính toán, tuyển chọn đầy đủ lực lượng nhân viên bán hàng cần thiết. Do đặc điểm của công tác bán hàng là hoạt động giao tiếp thường xuyên với khách hàng nên việc lựa chọn nhân viên bán hàng có đủ điều kiện cần thiết như hình thức, nghiệp vụ chuyên môn, nghệ thuật giao tiếp và ứng xử, nhanh chóng nắm bắt và phản hồi thông tin chính xác, kiên trì trung thực,… là điều kiện vô cùng quan trọng. Nhân viên bán hàng phải được huấn luỵên kỹ năng cần thiết: phát hiện và tiếp cận người mua tiềm ẩn; giới thiệu mẫu hàng và giải thích cách thức sử dụng; giúp khách hàng lựa chọn; góp ý khuyên nhủ khách hàng; giải đáp các câu hỏi và xử lý khiếu nại, phê bình của khách hàng, đưa ra những bảo đảm cần thiết khi người mua còn nghi ngờ; xử lý vấn đề giá cả; mời chào thêm các mặt hàng phu; thủ tục kết thúc bán hàng; tiếp tục theo dõi người mua sau khi mua hàng để bảo đảm rằng họ đã hài lòng.
3.4.4. Tổ chức dịch vụ sau bán hàng
Tổ chức tốt các hoạt động đối với sau bán hàng là điều kiện không thể thiếu nhằm duy trì, củng cố và mở rộng hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng như thị trường của doanh nghiệp. Yêu cầu chung đối với mọi hoạt động dịch vụ sau bán hàng làm bảo đảm nhanh chóng, thuận tiện, không được gây khó khăn cho khách hàng. Yêu cầu tổ chức hoạt động dịch vụ sau bán hàng là đảm bảo chất lượng cung cấp dịch vụ và tính hiệu quả.
Các hoạt động dịch vụ sau bán hàng quan trọng nhất là:
Thứ nhất, hướng dẫn và bảo hành: cung cấp cho khách hàng phiếu giải thích cách thức sử dụng, hướng dẫn trực tiếp khách hàng cách thức sử dụng, thực hiện lắp đặt và thực hiện tốt chu đáo công tác bảo hành sản phẩm theo đúng thời hạn và nội dung ghi trên phiếu bán hàng.
Thứ hai, cung cấp phụ tùng và dịch vụ sửa chữa.
Tính toán sản xuất và tổ chức bàn phụ tùng thay thế phù hợp với tuổi thọ từng loại phụ tùng thay thế.
Tổ chức dịch vụ sửa chữa rộng khắp, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng.
Thứ ba, kết hợp với hoạt động bảo hành và sửa chữa là hoạt động thu thập, phân tích các thông tin về sản phẩm và phản hồi về cho bộ phận thiết kế và sản xuất.
III. Các nhân tố chính ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm
1. Các yếu tố trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là những yếu tố thuộc về nội tại trong doanh nghiệp, bao gồm các yếu tố:
1.1. Số lượng, chất lượng sản phẩm
Hiện nay chất lượng sản phẩm là vấn đề sống còn của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp cả nước (trong đó có các doanh nghiệp dệt may) đã nhận thức được vấn đề này và tích cực có giải pháp giúp doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn ISO9000. Đây là tiêu chuẩn đầu tiên khi tham gia thị trường quốc tế.
Bên cạnh việc đảm bảo chất lượng, việc sản xuất theo đúng kế hoạch về mặt số lượng cũng rất cần thiết. Vì hiện nay nhu cầu của tiêu dùng luôn thay đổi nếu doanh nghiệp sản xuất gặp quá nhiều khó khăn khi nhu cầu thay đổi. Vì vậy các doanh nghiệp cần có một cơ cấu số lượng hợp lý để dễ dàng với sự thay đổi của thị trường, hơn nữa doanh nghiệp tận dụng triệt để nguồn vật liệu giảm rủi ro trong sản xuất kinh doanh.
1.2. Giá cả sản phẩm
Như chúng ta đều biết, giá là một yếu tố hết sức nhạy cảm và cũng là cao dao hai lưỡi đối với các doanh nghiệp. Nếu giảm giá sẽ dẫn tới khối lượng tiêu thụ có thể tăng nhưng cũng dễ dẫn tới cạnh tranh giá cả. Nếu giá cả quá cao thì sản phẩm sẽ không tiêu thụ được. Vì vậy doanh nghiệp cần xác định mức giá hợp lý và mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
1.3. Kênh phân phối và phương thức thanh toán
Kênh phân phối có vai trò quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm. Kênh phân phối rộng rãi và có uy tín thì số lượng tiêu thụ sẽ tăng. Doanh nghiệp cần bố trí kênh phân phối phù hợp với doanh nghiệp và đồng thời cũng tạo ra lợi thế cạnh tranh đáng kể so với đối thủ.
Khi khách hàng chấp nhận tiêu dùng sản phẩm thì khách hàng sẽ lựa chọn loại sản phẩm hàng hoá nào có giá và phương thức thanh toán, đồng thời tạo thuận lợi cho công tác thanh toán thì sẽ lôi cuốn được khách hàng đến với mình. Đặc biệt là những sản phẩm có giá trị lớn.
2. Các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp
2.1. Thị trường cung ứng
Doanh nghiệp muốn sản xuất ra sản phẩm trước tiên phải có vật tư, thiết bị,…. Vì vậy mỗi doanh nghiệp phải tạo mối quan hệ tốt với nhà cung ứng để đảm bảo nguồn vật tư đầy đủ đồng bộ. Việc đảm bảo chất lượng yếu tố đầu vào có ý nghĩa lớn trong việc đảm bảo chất lượng đầu ra và cũng tạo ra một lợi thế cạnh tranh đối thủ. Vì vậy các doanh nghiệp cần có một thị trường đầu vào tương đối ổn định.
2.2.Đối thủ cạnh tranh
Số lượng hàng hoá tiêu thụ nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào các đối thủ cạnh tranh. Các đối thủ có thể làm giảm số lượng tiêu thụ của doanh nghiệp nếu họ có chiến lược cạnh tranh hoàn hảo hơn doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh luôn là yếu tố hàng đầu của các doanh nghiệp, nếu “chấp nhận nó thì tồn tại còn không chấp nhận nó là chết”. Vì vậy, các doanh nghiệp luôn phải để ý đến đối thủ cạnh tranh.
2.3. Nhu cầu của người tiêu dùng
Nhu cầu người tiêu dùng luôn gắn chặt với số lượng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu xác định chính xác nhu cầu của người tiêu dùng về một loại hàng hoá trong một khoảng thời gian nhất định đó là một thành công của doanh nghiệp. Điều quan trọng là các doanh nghiệp phải luôn bám sát nhu cầu của người tiêu dùng để có các chiến lược sản phẩm và tiêu thụ phù hợp.
2.4. Môi trường pháp lý
Đó là một luật, văn bản dưới luật, quy trình quy phạm sản xuất… Nó quy định đến chất lượng sản phẩm, mức độ ô nhiễm giới hạn. Nếu hệ thống luật pháp nghiêm minh chặt chẽ thì sẽ tránh được tình trạng không lành mạnh giữa các doanh nghiệp và tránh được sự bán phá giá làm ảnh hưởng đến sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp.
2.5. Môi trường chính trị văn hoá xã hội
Khi ổn định về các thể chế chính trị thì các nhà đầu tư mới có tâm lý yên tâm để đầu tư, nghiên cứu, mở rộng sản xuất, tăng khối lượng tiêu thụ. Có thể nói môi trường chính trị là yếu tô hàng đầu mà các nhà kinh doanh quan tâm.
Môi trường văn hoá - xã hội ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi mua của khác hàng. Trong môi trường văn hoá - xã hội được quyết định bởi nhiều yếu tố như: Thu nhập dân cư, dân số, dân tộc, truyền thông văn hoá,… Các yếu tố văn hoá xã hội sẽ ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và kênh phân phối.
Phần II. Thực trạng sản xuất và tiêu thụ của ngành dệt may Việt Nam
I. Tình hình tiêu thụ
1. Thị trường tiêu thụ trong nội địa
Trên thị trường nội địa hiện có sự cạnh tranh ngày càng gay gắt do có sự tham gia của hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ thuộc đủ thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước đến các Công ty trách nhiệm hữu hạn, các cơ sở sản xuất tư nhân và các hộ gia đình, các doanh nghiệp liên doanh và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Đặc biệt hàng nhập từ Trung Quốc (nhất là nhập lậu từ các cửa khẩu biên giới) với giá rẻ phù hợp với sức mua của đại bộ phận dân cư sống ở vùng nông thôn đang tràn ngập thị trường là một bài toán nan giải cho các doanh nghiệp muốn mở rộng và phát triển thị phần tại thị trường Việt Nam.
Theo tổng Công ty dệt may Việt Nam khu vực thị trường nội địa đã được Tổng Công ty chú trọng qua con đường tiếp thị, quảng cáo, triển lãm, tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp đã mở hàng trăm cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm ở hầu hết các tỉnh trong cả nước như: Việt Thắng (65 cửa hàng và đại lý) Nhà Bè (50), Việt Tiến (48)…., liên kết với các chợ đầu mối để tiêu thụ và tăng doanh thu. Doanh thu tiêu thụ nội địa năm 1999 của các Công ty dệt là 3409 tỷ đồng, các Công ty may là 58 tỷ đồng, sáu tháng đầu năm 2000 các Công ty dệt đạt 1940 tỷ đồng và các Công ty may đạt 59 tỷ đồng. Nhìn chung, sản phẩm của các doanh nghiệp dệt chủ yếu tiêu thụ tại thị trường nội địa (chiếm khoảng 70% tổng doanh thu mua các doanh nghiệp dệt) dưới dạng nguyên liệu như sợi, vải. Tuy nhiên, nghịch lý đáng buồn là hầu hết hàng dệt tiêu thụ nội địa đều khoác nhãn ngoại mặc dù chất lượng không thua kém hàng ngoại. Lý giải chuyện này chỉ một phần do người tiêu dùng còn sính hàng ngoại, một phần quan trọng là do các nhà sản xuất chưa tin vào sản phẩm do chính mình làm ra, chưa xây dựng được thương hiệu thương phẩm có uy tín và thuyết phục trên thị trường. Bên cạnh đó, sản phẩm của các doanh nghiệp may lại nhằm vào mục đích xuất khẩu là chính, doanh thu tiêu thụ nội địa đạt rất thấp (năm 1998 đạt 8,7% doanh thu, năm 1999 đạt 10,4%, năm 2000 đạt 14%). Sở dĩ doanh thu tiêu thụ nội địa thấp phải kể đến những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, trước đây một số doanh nghiệp lớn trong ngành may chủ động hướng mạnh vào xuất khẩu, nên máy móc thiết bị đầu tư đồng bộ, nếu tập trung khai thác thị trường nội địa phục vụ số đông dân cư có mức sống trung bình bằng các loại sản phẩm thường với giá cả hợp sức mua của dân thì các doanh nghiệp này khó tồn tại và phát triển, thị trường trong nước chủ yếu do một số doanh nghiệp nhỏ đảm nhiệm, nhưng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp này lại quá cao dẫn đến giá cả không phù hợp với khả năng mua của đại bộ phận dân cư.
Thứ hai, là do chính sách thuế của Nhà nước hiện tại chỉ ưu tiên cho các cơ sở gia công công đoạn cuối của sản phẩm xuất khẩu, tức là các doanh nghiệp may. Các công ty dệt vẫn phải chịu thuế nhập khẩu bông, vải, sợi ngay cả trong trường hợp cung cấp vải cho may xuất khẩu, vì vậy khí có thể sản xuất ra vải có giá thành hạ. Chính việc ưu đãi về thuế và việc ít chịu rủi ro khi sản xuất hàng xuất khẩu như vậy nên nhiều doanh nghiệp may ngại chuyển sang phục vụ thị trường nội địa, nơi phải đối mặt với cuộc cạnh tranh gay gắt (cạnh trang không lành mạng, hàng giả, hàng lậu, trốn thuế….). Phương thức gia công hàng xuất khẩu, ngay cả khi giá giảm đi nhiều so với trước kia vẫn được nhiều doanh nghiệp may áp dụng, thiếu sự kết hợp với các doanh nghiệp dệt để chuyển dần sang hình thức mua đứt bán đoạn, có tỷ lệ nội địa hoá cần thiết. Mặt khác, sản phẩm may tiêu thụ nội địa phần lớn dựa vào mẫu mốt và nhãn hiệu của nước ngoài. Hoạt động nghiên cứu thời trang của ta còn nom kém. Hơn nữa mạng lưới tiêu thụ của các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào các thành phố lớn thiếu sự liên kết chặt chẽ với nhau, còn chồng chéo gây lãng phí, cạnh tranh bán phá giá nhau. Cho đến nay Tổng Công ty dệt may vẫn chưa hình thành được trung tâm thiết kế mẫu, chưa có các trung tâm thương mại lớn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 340.doc