LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I 2
Vài nét về lịch sử nông nghiệp Việt Nam và vai trò của nông nghiệp đối với kinh tế Việt Nam 2
I-/ VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 2
II-/ VAI TRÒ CỦA NÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM (SAU 1945 CHO TỚI NAY) 3
CHƯƠNG II 6
Nông nghiệp Việt Nam từ khi có chính sách đổi mới đến nay (1986 - 1998) 6
I-/ THỰC TRẠNG NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 - 1998. 6
II-/ CÁC BIỆN PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP (TỪ NGÀY ĐỔI MỚI- 1986) 8
1-/ Thời kỳ 1986-1993 8
2-/ Thời kỳ 1993 đến 1998. 11
a) Các chính sách tác động trực tiếp, thúc đẩy động lực sản xuất tiếp tục phát triển. 11
b) Các chính sách tác động gián tiếp, tạo môi trường cho kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển. 12
III-/ THÀNH TỰU VÀ NHỮNG THÁCH THỨC VỚI NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ NGÀY ĐỔI MỚI. 14
1-/ Những thành quả đạt được. 14
a) Giải quyết được vấn đề lương thực, đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu. 14
b) Các vùng cây công nghiệp tập trung được xây dựng. 14
c) Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ. 15
d) GDP khu vực nông thôn tăng. 16
e) Kinh tế xã hội nông thôn khởi sắc trên nhiều mặt. 16
2-/ Những vấn đề tồn tại và mâu thuẫn mới: 17
CHƯƠNG III 21
Đánh giá về chính sách nông nghiệp từ khi đổi mới và kiến nghị cá nhân. 21
1-/ Đánh giá về chính sách nông nghiệp từ khi đổi mới. 21
a) Những mặt tích cực đạt được của chính sách nông nghiệp. 21
b) Những bất cập nảy sinh của chính sách nông nghiệp. 23
2-/ Những kiến nghị của cá nhân: 25
31 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, khuyến khích kinh tế nông thôn phát triển: phát triển, sản xuất hàng hoá theo quy luật của thị trường, tự do lưu thông hàng hoá sản xuất, hoặc mua các tư liệu sản xuất cần thiết. Hình thành thị trường thông suốt cả nước. Tận dụng các lợi thế so sánh trong lĩnh vực nông nghiệp để xuất khẩu sản phẩm. Ngược lại, phía Nhà nước cũng có chính sách giúp đỡ nông dân thuận lợi hơn và đỡ bị thiệt hơn khi có thị trường biến động.
Có chính sách thuế để điều tiết kinh tế nông thôn, như thuế nông nghiệp, thuế lợi tức Doanh nghiệp, thuế hàng hoá, thuế môn bài, thuế sát sinh (say này bỏ), thuế rượu, thuế trước bạ.
Có chính sách nghiên cứu nông nghiệp và chuyển giao công nghệ cho kinh tế nông thôn. Ngày 2-3-1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13CP, về “Quy định công tác khuyến nông”. Đây trở thành chính sách lớn của Nhà nước, phổ biến kĩ thuật trồng trọt, chăn nuôi công nghệ chế biến, bồi dưỡng và phát triển kỹ năng, kiến thức quản lý kinh tế cho nông dân để sản xuất và kinh doanh hiệu quả; chia thông tin thị trường, thời tiết, tình hình công nghệ.
2-/ Thời kỳ 1993 đến 1998.
Trên đà những thành công cả về kinh tế - chính trị - xã hội của chính sách nông nghiệp giai đoạn 1986 - 1993, Đảng và Nhà nước đã tiến hành tổng kết một bước (1992), đánh giá khách quan các vấn đề nhằm khắc phục những mặt hạn chế, những vấn đề mới nẩy sinh để có những giải pháp nhằm đưa nông nghiệp lên tầm cao mới.
Do việc ban hành chính sách từ 1993 trở lại đây có thời gian được thực hiện còn quá ngắn, nên chưa thật sự có những chuyển biến lớn rõ ràng. Mặt khác, do chính sách mới ban hành từ 1993 trở lại đây đều mang tính kế thừa, bổ sung và hoàn thiện các chính sách trước nên khó tách bạch cái cũ và cái mới. Do vậy, em chia các chính sách sau 1993 thành các nhóm vấn đề sau:
a) Các chính sách tác động trực tiếp, thúc đẩy động lực sản xuất tiếp tục phát triển.
7/1993, Nhà nước ban hành Luật đất đai: khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý. Hộ gia đình, các tổ chức kinh tế được giao đất và mặt nước theo mục đích sử dụng mà tính thời hạn (20 năm cho cây ngắn ngày, 50 năm cho cây dài ngày). Người được giao sử dụng đất phải chấp hành đúng mục đích sử dụng đã cam kết, nếu không sẽ bị thu hồi. Tuy nhiên có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng.
Nhà nước cũng có chính sách “hạn điền”, ngăn cấm mua bán đất đai trái pháp luật, sử dụng sai mục đích nhằm hạn chế tính tiêu cực của chính sách đất mới.
Thuế sử dụng đất được áp dụng cho các cá nhân, tổ chức, đơn vị sở hữu các khoảng đất được Nhà nước giao. Hạng đất và mức tính thuế được căn cứ vào 5 yếu tố cơ bản: chất đất, vị trí đất, địa hình, khí hậu, điều kiện tưới tiêu. Hạng đất và mức thuế ổn định trong vòng 10 năm.
Cùng lúc có chính sách miễn, giảm thuế đối với những nơi, trường hợp khó khăn.
Lựa chọn và điều chỉnh lại cơ cấu sản xuất phù hợp với tập thể đất đai, nguồn nước và lao động của Doanh nghiệp, phù hợp với yêu cầu thị trường.
Có chủ trương hoá giá đàn gia súc, bán lại một số diện tích cây gì cỗi cho các hộ để chủ động sản xuất.
Giảm nhẹ bộ máy quản lý Doanh nghiệp từ 10-15% nhân viên giảm tiếp xuống còn 3-5%.
Thực hiện chức năng trung tâm công nghiệp, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, văn hoá, xã hội.
Đổi mới mối quan hệ phân phối và quản lý trong sản xuất ở nông thôn.
Thay đổi quan hệ phân phối Nhà nước - nông dân, giảm điều tiết từ kinh tế nông thôn.
Phân hoá hệ thống hợp tác xã cũ và khuyến khích lập các hợp tác xã kiểu mới (theo luật hợp tác xã - 1997).
Thay đổi cơ bản quan hệ hợp tác xã - nông dân. Người nông dân được tự lựa chọn, quyết định và hành động vì mục đích trước tiên của mình khi gia nhập hợp tác xã.
Hợp tác xã và kinh tế hộ chuyển sang hình thức hợp đồng hợp tác xã đóng vai trò đầu ra, đầu vào. Ban lãnh đạo hợp tác xã do xã viên lựa chọn dân chủ, công khai.
b) Các chính sách tác động gián tiếp, tạo môi trường cho kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển.
Chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn.
Ngoài nguồn vốn Ngân sách Nhà nước chi cho xây dựng cơ bản, đã có thêm nhiều nguồn vốn khác đầu tư vào khu vực nông nghiệp và nông thôn.
Vốn Ngân sách Nhà nước chi cho xây dựng cơ bản, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, trồng rừng.
Vốn địa phương tự có.
Vốn do các thành phần kinh tế nông thôn tự đầu tư.
Vốn gọi được của các tổ chức quốc tế như SIDA, Hà Lan....
Chính sách tín dụng, tạo vốn cho kinh tế nông thôn.
Đa dạng hoá các kênh chuyển vốn vào các khu vực nông nghiệp: Ngân hàng Thương mại, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, các quỹ xoá đói giảm nghèo, Ngân hàng cổ phần, hợp tác xã tín dụng, các tổ chức tín dụng (Hội nông dân, hội phụ nữ....). Ngoài ra có sự tín dụng phi chính thức ngay trong đời sống nông dân để sản xuất nông nghiệp.
Chính sách thị trường, giá cả và bảo trợ sản xuất đối với sản phẩm của kinh tế nông thôn. Đẩy mạnh thị trường hoá kinh tế nông thôn, tự do hoá, chuyên môn hoá các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, Chính phủ cũng tác động thông qua ổn định giá, tỷ giá hối đoái, giúp đỡ nông dân lúc thiên tai, mất mùa sâu bệnh....
Chính sách khuyến khích, chuyển giao công nghệ sản xuất mới cho nông thôn. Ngày 2/3/1993, Chính phủ ban hành Nghị định 13CP quy định công tác khuyến nông tới từng hộ dân. Trong thời gian ngắn đã được triển khai tương đối khẩn trương. Mạng lưới khuyến nông được hình thành từ Trung ương tới cơ sở: Cấp TW, cấp tỉnh, cấp huyện, liên xã, cụm xã. Với mạng lưới trên mà các tiến bộ khoa học kỹ thuật ý hay trong sản xuất nông nghiệp được phổ biến trong bà con nông dân.
Nói tóm lại, trong thời kỳ đổi mới tới nay đối với lĩnh vực nông nghiệp, chính sách được chia ra hai giai đoạn 1986 - 1993, 1993 - 1998, trong đó, 1986 - 1993 là thời kỳ chống khủng hoảng, ổn đình dần dần hoạt động sản xuất nông nghiệp, còn chính sách của giai đoạn 1993 - 1998 là tầm cao mới của giai đoạn trước đó, và cũng là tiền đề cho sau này để hiện đại hoá, công nghiệp hoá nền sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
III-/ THÀNH TỰU VÀ NHỮNG THÁCH THỨC VỚI NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TỪ NGÀY ĐỔI MỚI.
1-/ Những thành quả đạt được.
a) Giải quyết được vấn đề lương thực, đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu.
Từ một nông thôn nghèo, một quốc gia triền miên đói, phải nhập khẩu lương thực (1979: nhập 1.994.000 tấn, 18980 nhập 2.224.000 tấn) tới 1989 đã trở thành một quốc gia đủ ăn, có dự trữ và xuất khẩu gạo. Từ đó cho tới nay, số lượng lương thực liên tục tăng, sản lượng xuất khẩu ra thị trường quốc tế đứng hàng thứ 3, thứ 4 và 1997, 1998 chúng ta đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo. Tiến bộ trong sản xuất lúa gạo có ý nghĩa quan trọng.
Đủ ăn cho một quốc gia trên70 triệu dân sau nhiều thập niên thiếu đói, đem lại niềm tin, tạo ra tiền đề ổn định cho chính trị, xã hội, để tiếp tục đổi mới và phát triển.
Xuất khẩu gạo có hiệu quả đã góp thêm vào lượng ngoại tệ đang thiếu của Việt Nam, đồng thời giảm sự thâm hụt cán cân thanh toán thương mại quốc tế, tạo điều kiện hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Việc tự do lưu thông gạo đảm bảo thoả mãn nhu cầu các vùng về lương thực, bình ổn giá cả và thị trường trong nước, tạo tiền đề để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phân công lại lao động, phát huy lợi thế so sánh từng vùng.
b) Các vùng cây công nghiệp tập trung được xây dựng.
Khi chuyển sang cơ chế mới, các vùng cây công nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Các chính sách như khoán cây vườn, làm vườn liên kết, giao đất làm trang trại gia đình, Doanh nghiệp Nhà nước làm dịch vụ đầu vào, đầu ra để thúc đẩy mở rộng các vùng cây công nghiệp : 150000 ha cà phê, 70.000 ha chè, 251000 ha cao su.... Việc mở rộng diện tích cây công nghiệp dài ngày đã tăng thêm diện tích đất canh tác, tạo thêm việc làm, xây dựng cơ sở công nghiệp chế biến, hình thành cơ cấu kinh tế mới, nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Điều này có ý nghĩa rất lớn, nhất là ở các vùng trung du miền núi, vốn là kinh tế tự nhiên nay nhờ có chính sách phù hợp để phát triển, trở thành vùng kinh tế hàng hoá.
c) Cơ cấu kinh tế nông nghiệp bước đầu có sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
Theo định hướng Nghị quyết Trung ương lần thứ V (khoá VII), nhìn tổng thể kinh tế nông thôn có sự chuyển dịch cơ cấu. Năm 1990, nông nghiệp chiếm 73,8% GDP nông thôn, sang năm 1995 giảm xuống 64,5%. Hai ngành xây dựng và dịch vụ ở nông thôn tăng rõ nét.
Năm 1990, ngành xây dựng chỉ chiếm 2,6% cơ cấu GDP nông thôn, năm 1995 tăng lên 6,7% (tăng bình quân mỗi năm 16,7%). Ngoài dịch vụ năm 1990 chiếm 10,4 đã tăng lên 16,6% năm 1995 trong cơ cấu kinh tế nông thôn.
Công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở các làng nghề nay đang bắt đầu tìm lại được thị trường, đổi mới công nghệ, khôi phục nghề cũ, tìm kiếm nghề mới. Đến nay đã xuất hiện nhiều làng nghề ở Hà Bắc, Hà Tây và nhiều vùng nông nghiệp khác đạt được tốc độ tăng trưởng 7,8%/năm. Nhưng so với tốc độ tăng công nghiệp chung của toàn bộ nền kinh tế thì vẫn thấp.
Do GDP khu vực nông thôn tăng nên đời sống của người dân dần được cải thiện, các công trình công cộng được chú ý phát triển như đường xá, trạm thuỷ lợi, nhà văn hoá...
Nhiều hình thức tổ chức nông nghiệp kiểu mới xuất hiện rất đa dạng: hình thức kinh doanh trang trại trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, trang trại trồng rừng nông lâm kết hợp, trang trại nuôi trồng thuỷ sản, đặc sản, nuôi gà, nuôi lợn.... với quy mô sản xuất hàng hoá. Hình thức trang trại không chỉ có phổ biến ở vùng bình quân ruộng đất cao mà ở cả các vùng đất chật người đông. Về mặt quan hệ sản xuất, thay cho mô hình hợp tác xã kiểu cũ, nhiều nhân tố mới về đổi mới hợp tác cũng xuất hiện hợp tác xã dịch vụ, hợp tác xã cổ phần, liên kết giữa kinh tế hộ với các Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước hình thành kiểu hợp tác xã kinh tế đa thành phần, hình thành mô hình hợp tác liên kết ngay giữa các hộ nông dân và liên kết dọc thành hiệp hội theo ngành.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm nông - lâm - thuỷ sản) thì thuỷ sản là một ngành có bước phát triển đáng kể. Một hiện tượng đáng chú ý là trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cùng với các vùng cây công nghiệp tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá, các vùng cây ăn quả đã tăng lên đáng kể như : vải thiểu Lục Ngạn, Yên Thế.... các vùng cây ăn quả được hình thành phát triển cùng kinh tế vườn và hoạt động kinh tế VAC trong các hộ nông dân dưới nhiều hình thức vườn nhà, vườn đồi, vườn rừng đã tạo nghề mới, tăng thu nhập, xoá đói giảm nghèo, tạo thêm việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nông thôn và phát huy lợi thế các vùng nông nghiệp sinh thái một cách có hiệu quả.
Tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ tăng dần trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Quan hệ giữa thành thị - nông thôn ngày càng được củng cố tăng cường, tạo ra thị trường trong cả nước và nền sản xuất chuyển sang sản xuất hàng hoá với tốc độ chuyển dịch nhanh hơn (ví dụ: ở đồng bằng sông Hồng tốc độ bình quân 1991 - 1994 đạt 3,7%/năm song xu thế tăng dần lên). Xét về phương diện thể chế và phương hướng, các làng nghề truyền thống đang phát triển thành các cụm công nghiệp nông thôn. Các cụm công nghiệp này đang hình thành có nhiều nét khác với kiểu tổ chức làng nghề truyền thống trước đây. Về công nghệ sản xuất của nó thì đã chuyển từ truyền thống sang công nghệ mới, đầu tư thiết bị tiên tiến, vốn lớn hơn, thu hút nhiều lao động hơn.
d) GDP khu vực nông thôn tăng.
Tốc độ tăng GDP của nền kinh tế (theo giá cố định năm 1989) đã tăng từ 6,7% năm 1990 lên 9,5% năm 1995 (bình quân giai đoạn 1990 - 1995 tăng xấp xỉ gần 8%). Tốc độ tăng bình quân GDP/đầu người khu vực kinh tế nông thôn từ 2,1% năm 1991 lên 4,1% năm 1995.
Kinh nghiệm các nước phát triển cho thấy: để đạt tới trình độ phát triển cao, họ đã phải coi trọng tích luỹ từ nông nghiệp, nông thôn để cho quá trình công nghiệp hoá.
Vấn đề tích luỹ từ nông nghiệp để công nghiệp hoá đã được Đảng ta đề cập ở Đại hội III (1960) nhưng chúng ta đã không thực hiện nổi. Cho tới trước thời kỳ đổi mới (1986) ở nông thôn không có để dành mà ngược lại Nhà nước phải thường cứu tế cho nông dân. Nay với đường lối đổi mới, cơ chế mới đi vào hoạt động, nông dân hiện có thu nhập, hơn nữa lại có để dành, đó thật sự là một bước tiến lớn.
e) Kinh tế xã hội nông thôn khởi sắc trên nhiều mặt.
Tuy đầu tư của Nhà nước để xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn chưa nhiều nhưng với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nông dân đã góp tiền của, sức lao động để xây dựng hệ thống điện, giao thông nông thôn, cơ sở y tế, trường học, nhà ở làm cho bộ mặt nông thôn đã có tiến bộ mới. Nhờ có điều kiện về nhà ở, giao thông trường học, điện được xây dựng, bộ mặt nông thôn nước ta đã có bước tiến bộ đáng kể so với trước. Đời sống vật chất của nông dân bước đầu được cải thiện, tỷ lệ hộ giàu tăng, hộ nghèo đói giảm. Nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của nông dân (1994: 21,6% hộ nông dân có máy thu hình, 37,5% hộ dân có máy thu thanh)
Tổng quan lại, năm thành tựu trên là các thành tựu cơ bản mà chúng ta đạt được trong nông nghiệp từ khi có những chính sách đổi mới của Nhà nước và Đảng. Tuy nhiên, những thành tựu trên có lẽ bắt nguồn từ thành quả vô hình hết sức quan trọng mà chính sách đổi mới đem lại cho nông nghiệp và nông thôn: người nông dân được tự chủ là kinh tế, tự quyết định các khâu trong quá trình sản xuất của mình và nhận trách nhiệm đóng thuế với Nhà nước, từ đó nâng cao động lực sản xuất, phát triển kinh tế, vững tin vào chính sách của Đảng và Nhà nước.
2-/ Những vấn đề tồn tại và mâu thuẫn mới:
Cùng với những thành tựu đạt được trên mặt trận nông nghiệp từ khi đổi mới, chúng ta vẫn phải đối mặt với những khó khăn còn tồn tại và cả những mâu thuẫn mới.
a) Một số chính sách của Nhà nước chưa có tác dụng kích thích mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản phát triển (như thu lợi phí, bảo hiểm sản xuất, trợ giá nông sản, thuế sử dụng đất nông nghiệp...)
Một số chính sách ra đời từ lâu nhưng còn ách tắc trong triển khai hoặc gây nhiều khó khăn phức tạp làm cho hiệuquả tác động của chính sách giảm đáng kể như cấp giấy sử dụng đất nông nghiệp, thu thuế đất nông nghiệp, thu thuế sản xuất nông nghiệp,...
b) Đầu tư xây dựng cơ bản trong nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản trong 5 năm qua tuy có tăng về giá trị tuyệt đối lại giảm mạnh về tỷ trọng (1990:15%, 1996: 10%) trong tổng số vốn đầu tư của Ngân sách Nhà nước, dẫn tới sự xuống cấp trong cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và hậ tầng nông thôn vốn đã yếu kém.
Do thiếu vốn đầu tư, nên khả năng tái tạo vốn cũng rất hạn chế, cả trồng và nuôi cùng phát triển chậm. Năm năm qua có sự giảm sức sản xuất ngành lâm nghiệp có nguyên nhân thiếu vốn đầu tư Ngân sách.
c) Tổ chức sản xuất chưa ổn định, vai trò của các Doanh nghiệp Nhà nước mờ nhạt, kinh tế hợp tác xã giảm sút, kinh tế hộ gia đình tuy phát triển nhưng không đều giữa các vùng, các địa phương, kinh tế tư nhân so với các ngành công nghiệp và dịch vụ. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn tháng 7 - 1995 các hợp tác xã nông nghiệp được thành lập trước đây một số đã tan rã nhanh sau khi thực hiện đổi mới, số còn lại trong mấy năm gần đây đã tự giải thể 2958 hợp tác xã. Tính tới 1997, trong số 16.243 hợp tác xã, chỉ có 15,56% đã đổi mới có hiệu quả, 20,6% đổi mới đạt hiệu quả thấp, 43,7% chỉ còn là hình thức và trở thành lực cản cho phát triển kinh tế hộ.
Các Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả nhưng sử dụng quá nhiều quỹ đất nông nghiệp, lâm nghiệp trong khi nhiều vùng nông dân còn thiếu đất mở rộng sản xuất hàng hoá.
Chủ trương kiên trì nhất quán phát triển kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và nông thôn tuy đã được khẳng định, nhưng trong đối sách cụ thể còn nhiều tồn tại ý kiến và quan điểm khác nhau nên mỗi thành phần đều chưa được phát huy tốt (nhất là các hợp tác xã nông nghiệp).
c) Tác động của công nghiệp và nông nghiệp chưa rõ nét, công nghiệp chế biến nông sản yếu kém, các khâu làm đất, vận chuyển, thu hoạch, ra hạt, vẫn sử dụng nhiều công cụ thủ công và lao động sống, nhất là ở vùng duyên hải miền Trung, đồng bằng sông Hồng. Do vậy, chất lượng sản phẩm, năng suất ruộng đất, năng suất lao động nông nghiệp, lâm nghiệp thuỷ sản còn thấp, quan điểm, nội dung công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn cũng chưa được cụ thể hoá bằng các chính sách và giải pháp. Các ngành nghề truyền thống trong nông thôn phát triển chậm do thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm, chất lượng, mẫu mã, bao bì chưa phù hợp với yêu cầu thị trường.
d) Đất đai nông nghiệp bị chia nhỏ, manh mún với mức bình quân đầu người rất thấp, nhất là đồng bằng sông Hồng (600 m2/người) trong khi đó dân số nông thôn vẫn tăng trên 2% /năm làm cho xu hướng tự túc, tự cấp ở một số vùng miền Bắc vẫn nặng nề, sản xuất hàng hoá phát triển chậm. Tình trạng đó thể hiện rõ ở ba vùng: miền núi và trung du Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng. Việc chia đất gây ra tính bình quân quá cao, ràng buộc chặt hơn nông dân với ruộng đất, với trồng trọt, dẫn đến lao động nông thôn dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập thấp, khoảng cách nông thôn - thành thị ngày càng xa và xuất hiện các dòng di dân không tổ chức gây ra hậu quả tiêu cực đối với kinh tế - xã hội. Hiện tại trong nông thôn còn dư thừa 6-7 triệu lao động trong độ tuổi nên đã hình thành dòng di dân tự do vào các vùng Tây nguyên, Đông Nam Bộ hoặc ra thành phố. Luồng di cư tự do diễn biến rất phức tạp, gây hậu quả nặng nề: phá huỷ hàng trăm ngàn hécta rừng (cả rừng già), phá vỡ quy hoạch tổng thể chung của địa phương đến.
e) Thị trường nông thôn yếu kém đã tác động tiêu cực đến “đầu vào” và “đầu ra” của sản phẩm nông nghiệp. Vai trò của Nhà nước trong vấn đề này còn mờ nhạt nên trong 5 năm 1991 - 1995, hoạt động của tư thương đã chi phối như toàn bộ thị trường nông thôn, kể cả miền Nam và miền Bắc. Thị trường và giá cả vật tư, điện nước, phân bón và cả nông sản hầu như do tư thương chi phối. Ngay cả việc tổ chức cung ứng vật tư và thu mua nông sản cũng vậy, tư thương về nông thôn thu gom các mặt hàng nông sản xuất khẩu (lúa gạo, cà fê, chè....). Tình trạng này làm cho người nông dân thiệt hại về lợi ích kinh tế, không yên tâm đầu tư để mở rộng sản xuất.
f) Tài nguyên rừng, biển ngày càng suy kiệt, môi trường sinh thái mất cân đối. Phương thức khai thác tài nguyên rừng và biển mang tính chất bóc lột, khai thác trắng làm cạn kiệt nguồn tài nguyên hiện có. Tình trạng khai thác, đánh bắt thuỷ sản ở gần bờ, bằng thuốc nổ vẫn diễn ra thường xuyên, tuy có giảm đôi chút. Đốt phá rừng làm nương rẫy vẫn phổ biến ở Tây Nguyên, miền núi Việt Bắc và Tây Bắc làm cho rừng suy kiệt nghiêm trọng. Năm 1993 so với năm 1943 (sau 50 năm) đã làm giảm diện tích rừng từ 14,3 triệu hécta xuống còn 9,3 triệu hécta, độ che phủ rừng từ 43% xuống còn 28%, tình trạng trên đã gây ra lũ lụt, hạn hán, đất đai bị xói mòn, sụt lở hoặc bị thoái hoá ở nhiều nơi.
Du canh, du cư vẫn tồn tại ở các vùng núi cao là một nguy cơ của tệ nạn phá đốt rừng ở miền núi. Ngay cả việc mở rộng diện tích cầ phê ở Tây nguyên (1995) lên núi cao đã và đang gây ra nhưnã hậu quả xấu đối với rừng tự nhiên và môi trường.
Thuỷ sản cũng trong tình trạng tương tự. Cách khai thác trong những năm qua đang làm cho nguồn thuỷ sản suy kiệt nhanh chóng. Tầu thuyền đánh cá đủ loại công suất lớn thả lưới quét từ biển Đông sang bờ biển Tây để đánh bắt mọi loại thủy sản có trong lòng biển. Hàng ngàn miệng đáy, hàng trăm km, đăng, te, cao,... dù bị cấm vẫn ngang nhiên hoạt động. Gần đây Bộ Thuỷ sản đánh giá, nguồn thuỷ sản nước ta đã giảm đi 50% so với trước năm 1980,m chủ yếu ven bờ. Trong khi đó đội ngũ tầu thuyền có khả năng đánh bắt xa bờ còn rất hạn chế.
Mặc dù xét về ngắn hạn, việc khai thác cạn kiệt trên có góp phần tăng trưởng kinh tế nhưng tính bền vững không lâu dài, môi trường sinh thái mất cân đôi gây hậu quả không lường được.
g) Tốc độ tăng nông nghiệp chậm so với công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Hệ số chênh lệch giữa tốc độ phát triển của công nghiệp so với nông nghiệp của các nước đang phát triển có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới là 2 lần trong khi đó ở Việt Nam là 4 lần (1991), 3,45 lần (1993), 3,58 lần (1994), 3 lần (1995). Khoảng cách quá xa về tốc độ tăng trưởng của công nghiệp và nông nghiệp ở Việt Nam những năm qua làm cho nông nghiệp vốn đã lạc hậu lại tụt hậu xa hơn so với công nghiệp và dịch vụ, dẫn tới phân hoá nhanh hơn về thu nhập và đời sống giữa nông thôn và thành thị trong cơ cấu thị trường.
Tụt hậu của nông nghiệp trong tăng trưởng kinh tế chung đang làm phát sinh thêm những mâu thuẫn khác về mặt xã hội giữa nông dân và các tầng lớp dân cư khác trong xã hội. Điều dễ nhận thấy là trong những năm chuyển sang nền kinh tế thị trường, bộ mặt thành thị và đời sống nhân dân phi nông nghiệp được cải thiện nhiều hơn và nhanh hơn so với bộ mặt nông thôn và đời sống nhân dân vùng sâu, miền núi vùng đồng bào các dân tộc ít người. Nông nghiệp và nông thôn vẫn chịu thiệt thòi trong hưởng thụ hệ thống cơ sở hạ tầng của Nhà nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cao hơn thành thị trong khi hộ khá (chưa kể tới hộ giàu) lại thấp hơn rất nhiêù.
Nguyên nhân của những tồn tại mâu thuẫn trên đây một mặt là do nông, lâm nghiệp, thuỷ sản Việt Nam có điểm xuất phát thấp, kỹ thuật lạc hậu, lại bị cơ chế cũ trói buộc quá lâu trong lúc thời gian đổi mới chưa đáng là bao (12 năm). Tuy nhiên, những yếu kém trên còn do những chính sách và giải pháp của Nhà nước với ngành sản xuất còn chưa tương xứng với vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế quốc dân.
CHƯƠNG III
Đánh giá về chính sách nông nghiệp từ khi đổi mới và kiến nghị cá nhân.
1-/ Đánh giá về chính sách nông nghiệp từ khi đổi mới.
Như chúng ta đã biết, chính sách nông nghiệp là lĩnh vực hết sức rộng và vô cùng phức tạp, nó bao gồm các chính sách cơ bản sau: chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư và tín dụng, chính sách thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách khoa học kỹ thuật, công nghệ và khuyến nông, chính sách đào tạo.... Bởi vậy, để đánh giá chính sách nông nghiệp, người ta thường dựa trên kết quả chính trị - kinh tế - xã hội mà chính sách tác động vào nông nghiệp.
Sau khi tìm hiểu những thành tựu cũng như những khó khăn còn tồn tại trên (Chương II, mục III), em nhận thấy rằng các chính sách nông nghiệp của chúng ta từ khi đổi mới đều mang tính chất thử nghiệm và được áp dụng ngay vào nền nông nghiệp Việt Nam. Do tính thử nghiệm mà cho tới nay, các chính sách còn bộc lộ những mặt yếu kém, chưa đầy đủ bên cạnh những mặt tích cực. Chúng ta phải chấp nhận điều này, từ đó đánh giá khách quan tác động của chính sách đối với nền nông nghiệp Việt Nam để loại bỏ dần mặt tiêu cực, bổ sung thêm các yếu tố còn thiếu và đẩy mạnh mặt tích cực.
Từ các phân tích có tính hệ thống về thành công cũng như bất cập trong triển khai, nghiên cứu ban hành, thực hiện các chính sách thời kỳ 1986 - 1998 đối với sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cho phép rút ra những đánh giá tổng quát sau:
a) Những mặt tích cực đạt được của chính sách nông nghiệp.
Như chúng ta đã biết, thời kỳ 1986 - 1998 đất nước ta găp những điều kiện hết sức khó khăn: sản xuất đình trệ, năng suất thấp, lạm phát tăng cao, lòng tin của dân bị lung lay... Với dân số 80% là nông dân thì lĩnh vực nông nghiệp là một trong những lĩnh vực bị thiệt hại nặng nền nhất, ruộng đất bị bỏ hoang, gia súc không có người chăm sóc, nông dân ít thấy xuất hiện trên cánh đồng, đói nghèo diễn ra khắp nơi ở nông thôn. Hơn thế nữa, những khó khăn đó phần lớn bắt nguồn từ cách thức quản lý, chỉ đạo thực hiện quan liêu, xa dân, không nắm bắt tình hình thực tế (hoặc nắm bắt theo kiểu sách vở). Bởi vậy mà công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới trên mặt trận sản xuất nông nghiệp thực sự phản ánh một tư duy mới, cách nhìn mới của Đảng và Nhà nước đối với tình hình Việt Nam.
Các chính sách được xây dựng, ban hành, thực hiện, tuỳ vào điều kiện kinh tế xã hội của từng vùng. Nó khác xa với cách thức áp đặt từ trên xuống dưới như trước kia. Các nhà hoạch định chính sách tôn trọng thực tiễn khách quan, nhìn thẳng vào sự thực Việt Nam (1986 - 1988), là một nước nghèo, nông nghiệp lạc hâu, trình độ dân trí thấp, sống chủ yếu ở nông thôn. Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp yếu kém, tư tưởng sản xuất nhỏ, manh mún còn phổ biến trong nông dân. Từ thực tế đó, quá trình đổi mới những chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp được bắt đầu từ cấp độ vĩ mô trên cơ sở đổi mới tư duy kinh tế từ cơ chế quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường.
Đối với mỗi chính sách, Đảng ta luôn bám sát kết quả thực hiện, tổng kết từng bước và đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời. Từ đó nâng cấp chính sách lên tầng cao hơn. Cụ thể là năm 1986 tới 1998, Đảng ta nâng mức chính sách nông nghiệp qua 3 mức 1986 - 1993, 1993 - 1996, 1996 - 2000.
Mặt đã được trước hết của chính sách nông nghiệp là huy động được sức sản xuất của nông dân. Từ việc coi người nông dân cá thể là con người của tập thể dẫn tới lợi ích của các nhân bị bỏ qua cho tới việc coi lợi ích cá nhân là cái đầu tiên và đặt lợi ích đó hoà nhập với tập thể. Cùng lúc đó, cho phép tất cả các thành phần kinh tế hoạt động trong kinh tế nông nghiệp tạo ra một nguồn lực tổng hợp.
Qua hai bộ luật hợp tác xã và luật đất đai (1997), Đảng và Nhà nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0083.doc