Đề tài Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

 

I. Lý luận chung 2

1. Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 2

2. Công ty cổ phần và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường 2

3. Sự cần thiết phải tiến hành CPH doanh nghiệp nhà nước 3

4. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước 5

II. Nội dung của CPH - Các bước tiến hành 5

1. Đối tượng áp dụng CPH 5

2. Các phương pháp CPH DNNN 5

3. Xác định giá trị hiện có của DNNN trước khi CPH 6

4. Ưu thế của CPH - DNNN 9

III. Những yếu tố tác động đến quá trình CPH - DNNN ở nước ta 10

1. Về các yếu tố thuận lợi 10

2. Về các yếu tố khó khăn cản trở 11

Phần II: Thực trạng vấn đề CPH các DNNN ở nước ta hiện nay 14

1. Tình hình tiến triển 14

2. Kết quả thực hiện 16

3. Tình hình CPH - DNNN ở một số địa phương 18

4. Một số vấn đề tồn tại và nguyên nhân cơ bản 21

Phần III: Một số biện pháp nhằm đẩy nhanh quá trình CPH - DNNN 24

1. Cần tạo sự thống nhất về nhận thức, quan điểm 24

2. Tạo môi trường đồng bộ về CPH - DNNN pháp lý đầy đủ 25

3. Xác định giá trị doanh nghiệp để thực hiện CPH 25

4. Tính giá trị sử dụng đất để CPH - DNNN 26

5. Mệnh giá cổ phiếu và đối tượng mua cổ phiếu 26

6. Về quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp CPH 27

7. Về chính sách hỗ trợ tài chính đối với doanh nghiệp CPH 28

Kết luận 29

Tài liệu tham khảo 30

 

doc31 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 802 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trong xã hội để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, thực hiện nguyên lý kinh tế “ Tiền đẻ ra tiền” theo công thức: T – H – T’ (T’ > T). CPH có ưu điểm làm giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho nhà nước, Nhà nước có thể thu hồi bớt vốn đầu tư ở doanh nghiệp để chuyển sang đầu tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển toàn bộ xã hội, như đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật, công trình phúc lợi, giáo dục khoa học kỹ thuật. Thứ hai: CPH thông qua đa dạng hoá sở hữu để tạo động lực cho người lao động. CPH đảm bảo sở hữu hoá cho người lao động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất trên phần vốn đóng góp của họ và thật sự phấn đấu hăng hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn đó. Động lực kinh tế này góp phần khắc phục tư tưởng công chức, tác phong hành chính, bị động, sợ sệt, không dám mạnh dạn trong sản xuất kinh doanh vốn là nhược điểm của một số cán bộ lãnh đạo DNNN. Biến họ từ vị trí công trức nhà nước thành nhà kinh doanh thực sự sống chết vì sự tồn tại và phát triển của công ty. Đồng thời đây còn là điều kiện xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh. Thứ ba, CPH cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của nhà nước, gạt bỏ được sự chỉ đạo nhiều khi phi kinh tế của các cơ quan chủ quản bên trên. đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doang nghiệp vì tập thể cổ đông giao phó và hoạt động bình đẳng theo pháp luật, luật công ty, không bị chi phối, ràng buộc phi kinh tế, phi lợi ích, gây tác hại và làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh nghiêp. Từ đó, thực hiện được quyền làm chủ và động lực thực sự cho công ty cổ phần, khắc phục được nhược điểm làm chủ trừu tượng chung chung trong các DNNN, thực hiện thống nhất hài hoà về lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Thứ tư, CPH tạo điều kiện cải tiến, đổi mới công tác lãnh dạo, quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp. Thông qua bộ máy điều hành của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị – Giám đốc điều hành, để kết hợp phân phối theo lao động với phân phối lợi nhuận ròng theo cổ phần, giải quyết thoả đáng cùng một lúc quyền lợi của người cổ đông có vốn với người lao dộng tham gia sức lao động trong quá trình sản suất, kinh doanh. Giám đốc điều hành có thể được lựa chọn và thuê từ các nhân tài có tư duy khoa học và kinh nghiệm xuất sắc trong sản xuất kinh doanh, các doanh nhân chuyên nghiệp. Đây là tiền đề đảm bảo thành công cho đổi mới, quản lý, cải tiến công ty cổ phần. Thứ năm, CPH tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần được tự chủ, tự động trong quan hệ tự nguyện liên doanh liên, kết kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác kinh doanh. III Những yếu tố tác động đến quá trình CPH - DNNN ở nước ta. Công việc CPH các DNNN ở nước ta được tiến hành trong điều kiện đặc thù với những yếu tố thuận lợi và khó khăn nhất định, cụ thể là: 1. Về các yếu tố thuận lợi - Điều kện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp họat động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện CPH các DNNN. - Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề CPH các DNNN và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản pháp luật và dưới luật nhằm thực hiện chương trình CPH DNNN như luật công ty, Quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế nhà nước, Nghị định 338- HĐBT về thành lập và giải thể DNNN, đặc biệt là quyết định 202- HĐBT và chỉ thị 84-TTg của thủ tướng Chính phủ về thí điểm CPH một số DNNN Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và liên Bộ cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện. - Tình hình kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi theo hướng tích cực. Giá cả thị trường đã được duy trì theo hướng tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã được giá, lãi suất ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư vào sản xuất kinh doanh Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp Nhà nước được CPH. - Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giẩ ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được CPH. - Hoạt động trong cơ chế thị trường với thời gian chưa lâu nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng kinh doanh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho công việc thực hiện CPH các DNNN. - Với luật đầu tư nướcc ngoài và sự xuất hiện của nhiều chi nhánh ngân hàng kinh doanh của nước nngoài tại Việt Nam đã góp phần tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng cổ phiếu vào các DNNN sẽ được tiến hành CPH. - Ngoài ra, với những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của các nướcc trên thế giới trong quá trình CPH - DNNN sẽ là những bài học bổ ích và quý giá để Nhà nước tiến hành hoạch dịnh chính sách và tổ chứcthực hiện công việc CPH các DNNN tại Việt Nam. 2. Về các yếu tố khó khăn và cản trở - Khó khăn và cản trở lớn nhất trong quá trình CPH ở nước ta là do khu vực tư nhân nhỏ bé và yếu ớt. Sự nhỏ bé và yếu ớt của khu vực kinh tế tư nhân phản ánh trình độ chậm phát triển của kinh tế thị trường trong đó hình thái doanh nghiệp một chủ tự mình đứng ra kinh doanh là phổ biến, hình thái công ty cổ phần còn xa lạ với hầu hết mọi người. Điều này gây ra sự bỡ ngỡ, lúng túng cho cả người đầu tư lẫn người sử dụng vốn đầu tư dưới hình thức cổ phiếu,do đó làm cho việc tiến hành chương trình CPH ở nước ta phải thực hiện trong một thời gian dài song song với sự hình thành và phát triển hình thái công ty cổ phần cũng như xác lập môi trường pháp lý tương ứng. - Cùng với sự yếu ớt và nhỏ bé của khu vực kinh tế tư nhân là sự thiếu vắng một thị trường tài chính thực sự, trong đó có thị trường chứng khoán. Như chúng ta biết, thị trường chứng là trung tâm phản ánh trạng thái hoạt động của các công ty cổ phần trong một nền kinh tế thị trường: nó vừa là điều kiện, vừa là tấm gương phản chiếu sự ra đời và hoạt động của các công ty cũng như huy động vốn trên thị trường tài chính. Sự thiếu vắng thị trường chứng khoán đi liền với nó là thiếu hệ thống pháp lý và tổ chức vận hành đã gây khó khăn và cản trở cho quá trình CPH. Đó là việc định giá doanh nghiệp để CPH, việc phát hành và lưu thông cổ phiếu, việc mua bán chuyển nhượng cổ phiếu, hệ thống pháp lý và tổ chức để bảo đảm duy trì được hoạt động của thị trường chứng khoán. Đây là hai yếu tố quan trọng gây khó khăn và cản trở đến việc thực hiện CPH các DNNN ở Việt Nam. Ngoài ra, còn có một số yếu tố đặc thù khác cũng góp phần không nhỏ gây khó khăn và cản trở cho việc CPH đó là: Sự chưa ổn định trong chính sách vĩ mô của Nhà nước về luật pháp , thuế khoá, tiền tệ, chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro cho những người muốn đầu tư lâu dài. Nhiều chính sách ra đời chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau và thay đổi đột ngột, lạm phát chưa được kiềm chế một cách chắc chắn và vẫn còn ở mức hai con số; sự đổi mới của hệ thống ngân hàng và cơ chế hoạt động tín dụng quá chậm trễ so với đòi hỏi của cơ chế thị trường là những yếu tố gây bất lợi cho môi trường đầu tư trong nước, và do đó gây bất lợi cho quá trình CPH các DNNN. Các DNNN hầu hết có trang bị máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, biên chế cồng kềnh, khả năng cạnh tranh thấp.. do đó khó có thể tiến hành CPH các doanh nghiệp này; số doanh nghiệp có đủ khả năng hấp dẫn để CPH còn quá ít. Và những doanh nghiệp có lợi nhuận cao thì Nhà nước lại chưa có ý định tiến hành CPH. Điều này gây khó khăn cho việc lựa chọn các doanh nghiệp CPH cũng như thu hút sự hưởng ứng của đông đảo những người có vốn muốn đầu tư bằng cổ phiếu. Về tư tưởng và tâm lý của đa số mọi người trong xã hội còn chưa quen với vấn đề mới mẻ này, thậm chí còn có những phản ứng nhất định ở những người đang sống yên ổn trong khu vực Nhà nước. Về mặt suy nghĩ, nhiều người làm công tác lãnh đạo và quản lý Nhà nước vẫn chưa đoạn tuyệt được quan điểm coi kinh tế Nhà nước là CNXH và vì vậy, thu hẹp khu vực này có nghĩa là rời xa CNXH, là phá vỡ cơ sở của CNXH. Đa số các giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp thì ngần ngại, thậm chí phản đối vì sợ chuyển từ “người chủ” thành người “làm thuê cao cấp”, sẽ chịu sự đánh giá và kiểm soát của Hội đồng quản trị và các cổ đông về trình độ năng lực của mình, còn những người lao động thì lo sợ mất việc làm, mất biên chế Nhà nước Đó là những trở ngại chủ quan không thể không được tính đến trong quá trình tiến hành CPH các DNNN. Nhà nước thiếu một nguồn tài chính cần thiết để giải quyết hàng loạt vấn đề liên quan đến chương trình CPH như các khoản trợ cấp cho người lao động thất nghiệp, chi phí đào tạo lại nghề mới và thời gian tìm việc, các chi phí cho chính sách xã hội và bảo hiểm, các chi phí để thực hiện công việc tư vấn, quảng cáo, môi giới đầu tư, chi phí phát hành và các dịch vụ về buôn bán cổ phiếuNhững khoản phí tổn này là không thể bỏ qua được và thường rất lớn. Đây là chưa kể đến chính sách bán cổ phiếu giá thấp và tín dụngcho một số đối tượng nhất định để khuyến khích và thực hiện mục tiêu xã hội sẽ làm cho chi phí tăng lên nhiều hơn nữa. Thêm vào đó, nạn tham nhũng và hối lộ sẽ lợi dụng cơ hội này để tẩu tán tài sản của Nhà nước nếu thiếu sự quản lý chặt chẽ. Hệ thống kiểm toán chưa trở thành một hoạt động phổ biến và thống nhất. Điều này gây nhiều trở ngại cho việc định giá giá trị của doanh nghiệp, tình hình và triển vọng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được CPHvà do đó gây khó khăn cho việc cung cấp thông tin trung thực, tin cậy cho những người có nhu cầu đầu tư bằng cổ phiếu với những doanh nghiệp này. Phần II Thực trạng vấn đề CPH các DNNN ở nước ta hiện nay Tình hình tiến triển. CPH-DNNN được bắt đầu từ những năm 90, đã trải qua các thời kỳ thí điểm đến thực hiện một cách bình thường đối với các DNNN nằm trong danh mục cần tién hành CPH và đa dạng hoá các hình thức sở hữu, mô hình tổ chức quản lý. 1.1 Thời kỳ thí điểm. Thời kỳ này, thực hiện quyết định số 202/CT của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), các bộ, các ngàng đã hướng dẫn DNNN đăng ký thực hiện thí điểm chuyển sang Công ty cổ phần. Trên cơ sở số lượng DNNN đã đăng ký, chủ tịch Hội đồng bộ trưởng đã ra quyết định số 203/CT ngày 8-6-1992 chọn 7 DNNN do Chính phủ chỉ đạo thí điểm chuyển thành Công ty cổ phần: Nhà máy xà bông (Thuộc liên hiệp Công ty bột giặt miền Nam, Tổng Công hoá chất II, Bộ công nghiệp nặng). Nhà máy diêm Thống Nhất (thuộc liên hiệp sản xuất – xuất nhập khẩu giấy gỗ diêm, Bộ công nghiệp nhẹ). Xí nghiệp nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc (thuộc Công ty chăn nuôi và thức ăn gia súc I, Bộ Nông nghiệp và công nghệ thực phẩm). Xí nghiệp chế biến gỗ Long Bình (thuộc Tổng Công ty dịch vụ, sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản 3, Bộ lâm nghiệp). Công ty vật tư tổng hợp Hải Hưng (thuộc Tổng Công ty kinh doanh và chế biến lương thực Hà Nội, ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội). Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex, UBND TP. Hồ Chí Minh). Tuy nhiên sau thời gian làm thử, 7 doanh nghiệp Nhà nước Chính phủ chọn thí điểm đều xin rút lui hoặc không đủ điều kiện để tiến hành CPH như Nhà máy xà bông miền Nam, Xí nghiệp may mặc (thuộc Công ty dệt – da – may Legamex) Trong số hơn 30 DNNN đăng ký với Bộ Tài chính để thực hiện CPH thì sau hơn bốn năm thực hiện Quyết định số 202/CT có năm DNNN chuyển thành Công ty cổ phần là: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển (Bộ giao thông vận tải). Công ty cổ phần cơ điện lạnh (TP. Hồ Chí Minh) Công ty cổ phần giầy Hiệp An (Bộ công nghiệp). Công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An). Công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc (Bộ Nông nghiệp). 1.2 Thời kỳ mở rộng thí điểm và thực hiện bình thường (1996 -2000) Từ năm 1996 – 2000 là giai đoạn mở rộng thí điểm. Ngày 7/5/1996 chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP “ về việc chuyển một số DNNN thành Công ty cổ phần”, thay thế cho quyết định số 202/CT với những quy định cụ thể rõ ràng hơn. Thực hiện nghị định số: 28/CP, công tác CPH-DNNN đã được quan tâm hơn cụ thể: có 30 tỉnh, thành phố, Bộ , ngành và các tổng công ty 91 đã đăng ký thực hiện CPH hơn 200 DNNN, nhưng đến đầu năm 1998 mới có 18 DNNN thực hiện CPH, chuyển sang hoạt động theo luật Công ty với tổng số vốn là: 121384.000.000đ, trong đó: - Phân theo ngành: Ngành Giao thông vận tải 4 doanh nghiệp Ngành Công nghiệp 7 doanh nghiệp Ngành xây dựng 1 doanh nghiệp Ngành chế biến Nông lâm thuỷ hải sản 3 doanh nghiệp Ngành dịch vụ 3 doanh nghiệp Phân theo lãnh thổ: TP. Hồ Chí Minh 10 doanh nghiệp TP. Hà Nội 1 doanh nghiệp TP. Hải Phòng 1 doanh nghiệp Tỉnh Long An 1 doanh nghiệp Tỉnh Ninh Bình 1 doanh nghiệp Tỉnh Bình Định 1 doanh nghiệp Tỉnh Cà Mau 1 doanh nghiệp Tỉnh An Giang 1 doanh nghiệp TP. Đà Nẵng 1 doanh nghiệp Trong số 18 công ty cổ phần có 1 công ty cổ phần nhà nước không nắm giữ cổ phần, 17 công ty còn lại nhà nước nắm giữ cổ phần ít nhất là 18%, cao nhất là 51%, cổ phần còn lại do cổ đông ngoài xã hội chiếm giữ. So với yêu cầu cải cách doanh DNNN và số lượng doanh nghiệp nhà nước trong diện CPH thì kết quả đạt được trong các năm 1992 – 1998 là quá ít, tốc độ cổ phần hoá rât chậm. Từ năm 1998 đến nay là giai đoạn thực hiện bình thường và phổ biến đối với tất cả các DNNN tthuộc danh sách cần phải CPH. CPH DNNN có chuyển biến rõ rệt và đáng khích lệ từ khi có nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ “ về việc chuyển DNNN thành Công ty cổ phần”. Riêng 6 tháng cuối năm 1998 đã cổ phần hoá được 90 DNNN. Năm 1999 cổ CPH được 250 DNNN, gấp 7 lần so với 6 năm trước đó (1992 – 1997) cộng lại. Đến đầu năm 2000 cả nước đã CPH được 370 DNNN, và đến cuối năm 2000 cả nước đã có 523 DNNN chuyển thành Côn ty cổ phần chiếm 8,5% tổng số DNNN hiện có. Tính đến tháng 9/2001 thì cả nước đã có khoảng 700 DNNN được CPH. Con số này quả là đáng khích lệ. Tốc độ thực hiện CPH một bộ phận DNNN ở nước ta gần đây đang gia tăng. nhưng so với kế hoạch được duyệt từ 150 – 200 doanh nghiệp được CPH trong năm 1998; 400 – 500 doanh nghiệp trong năm 1999 là 1000 doanh nghiệp cho năm 2000 thì tốc độ CPH hiện nay vẫn còn quá chậm. Kết quả thực hiện Bên cạnh những chuyển biến về mặt số lượng như trên, bước đầu quá trình CPH DNNN đã tạo ra một số kết quả tích cực sau: 2.1. Nghị định số 44/1998/NĐ-CP đã kế thừa được nhiều nội dung tốt nếu trong các quy định của nghị định 28/CP, đồng thời bổ sung sửa đổi và phát triển được nhiều điểm mới để đáp ứng yêu cầu CPH. Đặc biệt nghị định 44/1998/NĐ-CP đã quy định cụ thể các chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp CPH thể hiện ở nhiều cơ chế ưu đãi đồng thời có phân cấp cụ thể đối với các cấp trong quá trình triển khai thực hiện CPH, do đó tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và các cấp quản lý triển khai thực hiện quy trình kế hoạch CPH. 2.2. Công tác hướng dẫn phổ biến, tuyên truyền các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CPH đã được chú trọng triển khai tích cực hơn. Thông qua các lớp tập huấn cho cán bộ, các văn bản hướng dẫn thì các chủ trương chính sách và chính sách và quy trình CPH được phổ biến sâu rộng làm cho nhiều người, nhiều cấp quan tâm hiểu rõ cách thức CPH. Các phương tiện thông tin đại chúng như các báo, đài ở trung ương và địa phương bằng nhiều hình thức phong phú: mở chuyên mục, diễn đàn, đối thoại, phỏng vấnvề CPH đã đưa tin kịp thời góp phần tích cực tuyên truyền phổ biến, biểu dương các đơn vị điển hình, phản ánh kịp thời những vướng mắc cần thiết phải tháo gỡ để đẩy nhanh tiến trình CPH. 2.3. Về thực hiện mục tiêu CPH-DNNN, tuy số lượng doanh nghiệp CPH mới chiếm 7% tổng số doanh nghiệp hiện có nhưng qua đó bước đầu đã huy động thêm được các nguốn vốn khác ngoài nguồn vốn nhà nước để đầu tư vào doanh nghiệp CPH. Mặt khác, thực tế cho thấy, phần vốn nhà nước tại các doang nghiệp CPH không những không bị giảm đi mà ngược lại đã tăng lên từ 10-15% so với giá trị ghi trên sổ sách. Thay đổi phương thức quản lý tạo độg lực cho thúc đẩy kinh doanh đạt hiệu quả cao. Vai trò làm chủ thực sự của người lao động với tư cách là cổ đông trong công ty cổ phần bước đầu khơi dậy, phát huy thể hiện ở tinh thần hăng say, tự giác làm việc, ý thức tổ chức kỷ luật và tiết kiệm trong sản xuất – kinh doanh được nâng lên, nhằm chi tiêu kinh tế tăng lên rõ rệt so với thời kỳ trước khi CPH. 2.4. Về phạm vi và tổ chức chỉ đạo thực hiện CPH thì hiện nay theo tinh thần của Nghị định 44/1998/NĐ-Cp có nhiều Bộ, ngành, địa phương, nhiều Tổng công ty 91 đã chủ trương lựa chọn và xác định diện DNNN cần thực hiện CPH, không chỉ bó hẹp trong một vài doanh nghiệp của TP. Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam như trước đây. Hiện tại đã có 7/13 bộ, 10/17 Tổng công ty 91, 43/61 tỉnh thành đã có DNNN được CPH. Đặc biệt là có một số Bộ, ngành, tỉnh, Tổng Công ty 91 đã tích cực triển khai CPH doanh nghiệp như: Hà nội, TP. HCM, Nam định, Thanh Hoá, Tuyên Quang, Bình Định, Lầm Đồng, Bộ Xây Dựng, Bộ NN và PTNT, Tổng công ty Hàng Hải, Tổng công ty Xi măng, Tổng công ty cà phê. 2.5. Hiệu quả kinh doanh có tiến bộ đáng kể. Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá hơn một năm cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đều có chuyển biến tích cực trên nhiều mặt, kể cả các doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ, doanh thu hàng năm tăng trên 25%, có một số tăng 50%. Trong 6 tháng đầu năm 1999 có công ty cổ phần đạt doanh thu gấp đôi so với trước khi CPH. điển hình là công ty cơ điện lạnh đạt 353 tỷ đồng so với 78 tỷ đồng, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển đạt 163 tỷ đồng so với 16 tỷ đồng. Số lao động không bị giảm mà còn tăng bình quân 10%, có công ty tăng trên 20%. Ví dụ công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An từ 900 người lên 1280 người, công ty cổ phần cơ điện lạnh từ 334 người tăng lên 739 người, công ty cổ phần đại lý liên hợp vận chuyển từ 85 người tăng lên 350 người. Thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%(chưa kể thu nhập cổ tức), điển hình là công ty liên hiệp vận chuyển, trước khi CPH thu nhập là 1.1 triệu đồng/người/tháng, nay đạt 4.4 triệu đồng/người/tháng. công ty cổ phần chế biến thức ăn gia súc từ 524 ngàn đồng tăng lên 1.3 triệu đồng. Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng lên 26%, có công ty đạt tổng lợi nhuận gấp hai ba lần so với trước khi CPH. Ví dụ: Công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển lãi từ 4.1 tăng lên 37 tỷ đồng, công ty cổ phần cơ điện lạnh lãi từ 8.8 tỷ đồng tăng lên 34 tỷ đồng. Nộp ngân sách hàng năm tăng bình quân trên30%, một số công ty đạt gấp đôi so với trước khi CPH. Chẳng hạn năm 1998, công ty CP Cơ điện lạnh nộp ngân sách 68 tỷ đồng so với 3,7 tỷ đồng trước khi CPH; Công ty CP đại lý Liên hiệp vận chuyển nộp ngân sách 40 tỷ đồng so với 5,1 tỷ đồng trước khi CPH. Vốn điều lệ tăng bình quân trên 25%/năm, có một số tăng lên 2 lần. Lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân đatẹ 12% /tháng, Công t CP sửa chữa và đóng tàu thuyền Bình Định đạt 20% trong năm 98, các Côngty CP sơn Bạch Tuyết , chế biến thức ăn gia súc, chế biến hàng xuất khẩu Long An đều đạt cổ tức 2% /tháng. 3. Tình hình CPH- DNNN ở một số địa phương. 3.1. CPH-DNNN ở thành phố Hà Nội. Hà Nội là một trong số các địa phương có nhiều DNNN được CPH. Trong số 880 DNNN trên địa bàn Hà Nội có 320 DN do địa phương quản lý. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn số doanh nghiệp Nhà nước do địa phương quản lý có quy mô nhỏ bé, trong đó 87 DN quy mô vốn chỉ dưới 1 tỷ đồng(chiếm 26,5%). Xét về hiệu quả trong số 320 DN có 219 DN làm ăn có lãi, gần 1/3 kinh doanh chỉ hoà hoặc lỗ vốn, trong đó 33 DN thua lỗ kéo dài. Do vậy CPH - DNNN ở Hà Nội là một vấn đề cấp thiết. Trong thời gian 5 năm từ 1992 - 1997, Hà Nội mới chỉ thực hiện CPH được 5 DNNN. Năm 1998, Hà Nội hoàn thành CPH 30 DNNN và đến hết tháng 10/1999 lại tiếp tục CPH thêm 30 DNNN nữa trong chỉ tiêu 40 DNNN cần CPH của năm 1999. Về hiệu quả sản xuất kinh doanh, tuy các DNNN được thực hiện vào nhiều thời điểm khác nhau, song đều sớm đi vào ổn định và phát triển, cụ thể là: Công ty sứ Bát Tràng 6 tháng đầu năm 1998 chỉ có 5 mẫu hàng mới – bị thua lỗ 13 triệu đồng; sau khi thực hiện CPH, 6 tháng cuối năm cho ra đời 44 mẫu hàng mới, lãi 164 triệu đồng, mức cổ tức đạt 1,438%/tháng;Công ty Phú Gia sau khi CPH, hệ số sử dụng buồng phòng đạt 70%, hàng tháng tiết kiệm được 50% tiền điện so với trước,chi phí hành chính vệ sinh giảm 30%. Đặc biệt là Simex sau khi CPH, doanh thu tăng 18%, lợi nhuận trước thuế tăng 83%, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 1,9 triệu đồng/tháng., lợi tức cổ phiếu đạt 1,59%/tháng. 3.2. CPH-DNNN ở Thành phố Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh là một trong các địa phương đi đầu trong thí điểm thực hiện CPH-DNNN. Trong thời kỳ thí điểm thành phố có hai DNNN chuyển thành Công ty CP là Công ty CP cơ điện lạnh và Công ty Ong mật, sau đó lại chững lại. Tính đến cuối năm 1997, do thực hiện Nghị định 28/CP, Thành phố CPH thêm được 4 DNNN là: Khách sạn Sài Gòn(tháng2/1997) Trung tâm nghiên cứu và sản xuất hoá mỹ phẩm(tháng6/1997) Xí nghiệp sơn Bạch Tuyết(11/1997) Xí nghiệp bông Bạch Tuyết(12/1997) Mặc dù vậy, tiến triển CPH ở Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn rất châm. Tính đến tháng 5/1999, toàn thành phố mới chuyển đổi được 10 DNNN sang hoạt động theo luật Công ty CP. Đến quýIII/1999, Thành phố dự kiến xét duyệt chuyển 13 DNNN thành Công ty CP, hỗ trợ 16 DNNN có vướng mắc về tài sản,công nợ, chọn thêm 50 DNNN xin đưa vào kế hoạch CPH năm 2000 3.3. CPH - DNNN ở Hải Phòng. Hải Phòng nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm ở phía Bắc có nhiều lợi thế để thúc đẩy kinh tế phát triển.Tuy nhiên, quá trình CPH-DNNN lại chưa được đẩy lên tương xứng.Trên địa bàn thành phố hiện nay có 140 DNNN, nhưng cho đến nay tổng số DNNN được CPH cũng chỉ dừng lại ở con số 17. Trong năm 2000, Hải Phòng tiến hành chuyển đổi hình thức sở hữu cho khoảng 80 DNNN và áp dụng một số biện pháp mạnh mẽ để đẩy nhanh quá trình CPH-DNNN, tập trung vào các DN làm ăn có hiệu quả. Một số nhận định bước đầu: Các DNNN thực hiện CPH do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ nên năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất, hiệu quả, lợi nhận cao hơn trước. Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu HĐQT, giám đốc điều hành phải chỉ đạo và lãnh đạo công ty hoạt động có hiệu quả để lợi nhuận cao hơn. Phương pháp quản lý, điều hành doanh nghiệp thay đổi, từ việc Giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu HĐQT, Ban kiểm soát và Ban giám độc do đó trách nhiệm của hội đồng quản trị và giám đốc điều hành cao hơn, hoạt động của doanh nghiệp có tính đến hiệu quả cụ thể hơn. CPH là chuyển từ sở hữu Nhà nước sang sở hữu nhiều thành phần, tạo điều kiện cho người lao động thật sự làm chủ doanh nghiệp, làm cho tài sản xã hội tăng lên. Tính khả thi và hiệu quả của các DNNN - CPH nói riêng và các doanh ngiệp cổ phần nói chung đã được thực tế chứng minh. Một không khí sản xuất mới đã dược thiết lập. - Tình trạng lãng phí của cải, tài sản giảm thiểu, vấn đề ăn nhậu xa hoa không còn, tiền phong bao cũng không có. Bởi vì thông thường điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức các khoản chi nhất là chi tiếp khách. Nhà nước đã thu về được một lượng vốn đáng kể, các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm, thu nhập bình quân đều tăng đáng kể. Nhờ sự làm ăn có hiệu quả tốt nên giá cổ phiếu của công ty CPH đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu bình quân tăng 2 đến 3 lần 4 Một số vấn đề tồn tại và nguyên nhân cơ bản Tính đến ngày 31/12/2000 cả nước đã có 618 doanh nghiệp và bộ phận DNNN được chuyển đổi hình thức sở hữu và 2 doanh nghiệp chuyển đổi phương thức quản lý.Tính riêng năm 2000,số lượng doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp hoàn thành chuyển đổi là 250,trong đó :Cổ phần hoá 211 doanh nghiệp;giao ,bán : 37 doanh nghiệp;Khoán,cho thuê: 2 doanh nghiệp.Tốc độ như vậy là tương đương năm 1999 ,tuy nhiên so với chỉ tiêu kế hoạch của chính phủ giao năm 2000 là 692 doanh nghiệp thì mới đạt 36% kế hoạch năm. Có 5 bộ nghành,8 TCT và 23 tỉnh ,thành phố không hoàn thành chuyển đổi sở hữu được doanh nghiệp nào.Nhiều bộ,nghành,địa phương trước đây quan tâm đến công tác cổ phần hoá,số lượng DNNN thực hiện CPH tương đối nhiều n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV215.doc
Tài liệu liên quan