Đề tài Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc

 

Lời mở đầu. 1

I. Đặc điểm và nhu cầu nhập khẩu của thị trường Trung Quốc. 2

1. Đặc điểm thị trường Trung Quốc. 2

2.Nhu cầu nhập khẩu của thị trường Trung Quốc. 3

3.Cơ cấu xuất khẩu các sản phẩm chủ lực của Việt Nam giai đoạn vừa qua. 4

3.1. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam 4

3.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. 5

4. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. 7

4.1 Mặt tích cực. 7

4.2. Các vấn đề còn tồn tại 10

4.2.1. Khó khăn và thách thức đối với Việt Nam. 10

4.2.2.Khó khăn và thách thức đối với hàng hóa Việt Nam khi vào thị trường Trung Quốc. 11

II. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. 13

1. Chương trình thu hoạch sớm Trung Quốc - ASEAN 13

2. Định hướng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam đến năm 2010. 15

3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. 16

Kết luận. 19

Tài liệu tham khảo. 21

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1737 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h xuất nhập khẩu của Trung Quốc là 645,03 tỷ USD tăng 23,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó kim ngạch nhập khẩu đạt 302,69 tỷ USD, tăng 14%. 3.Cơ cấu xuất khẩu các sản phẩm chủ lực của Việt Nam giai đoạn vừa qua. 3.1. Kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng mạnh qua các năm. Với chính sách phát triển nền kinh tế mở, hàng hoá Việt Nam không còn xa lạ với người tiêu dùng trên thế giới. Trong những năm qua kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam không ngừng tăng nhanh. Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người năm 2001 đạt gần 200 USD/người, năm 2004 đạt 323 USD/ người và năm 2005 đạt 388 USD/ người. Về chỉ số kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người, Việt Nam năm 2005 đứng thứ 5 trong các nước thuộc khu vực Đông Nam Á, đứng thứ 11 ở Châu Á và đứng thứ 84 trên thế giới. Đặc biệt trong điều kiện cụ thể của nước ta, tăng kim ngạch xuất khẩu có ý nghĩa to lớn trong việc tạo nguồn ngoại tệ để phục vụ cho các nhu cầu đầu tư phát triển đang đặt ra rất bức xúc. Mặt hàng xuất khẩu đa dạng và xuất nhiều mặt hàng xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD. Nhìn chung tất cả các mặt hàng đã tham gia xuất khẩu đều có số lượng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước, đồng thời xuất hiện một số mặt hàng mới. Trong một số mặt hàng chủ lực đã có 7 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD/năm là giày dép , dệt may, dầu thô, thuỷ sản, hàng điện tử, sản phẩm gỗ,gạo vào năm 2005. Tuy nhiên, sự giảm giá một số mặt hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường thế giới và các vụ kiện về bán phá giá đã làm cho kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam bị ảnh hưởng đáng kể. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự thay đổi tích cực. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của hàng công nghiệp, dịch vụ , hàng chế biến, giảm tỷ trọng hàng xuất khẩu thô sơ chế biến, nguyên liệu, khoáng sản. Hàng nguyên liệu thô đến nay chỉ chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến và chế tạo năm 1997 chiếm 40%so với tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 2000 tỷ lệ này là 56% và năm 2005 là 68%. Cơ cấu nhóm hàng nông lâm thuỷ sản năm 1997 chiếm 41% năm 2004 còn 17,17%, năm 2005 là 21,1 %, nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 1997 64,74%, năm 2004 là 73,77%, năm 2005 là 63,2%. Thị trường xuất khẩu cũng được mở rộng, ổn định và đã có những chuyển dịch theo hướng đa dạng và định hình rõ thị trường trọng điểm. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG HÓA CỦA VIỆT NAM chỉ tiêu 2003 2004 2005 Tổng KNXK(tr. USD) 20.176 26.503 32.200 1.Châu Á(tr. USD) 9.644 13.100 16.383 tỷ trọng(%) 47,8 49,4 50,9 -ASEAN(tr. USD) 2.958 3.874 5.450 tỷ trọng (%) 14,7 14,6 16,9 - Nhật Bản(tr. USD) 2.909 3.500 tỷ trọng (%) 14,4 13,5 - Trung Quốc(tr. USD) 1.747 2.735 tỷ trọng(%) 8,7 10,3 2. Châu Âu(tr. USD) 4.398 5.400 5.872 tỷ trọng (%) 21,8 20,4 18,2 - Các nước EU(tr. USD) 3.852 4.970 5.450 tỷ trọng(%) 19,1 18,8 16,9 3. Châu Mỹ (tr. USD) 4.580 5.731 6.910 tỷ trọng(%) 22,7 21,6 21,5 - Hoa Kỳ(tr. USD) 3.938 4.992 6.553 Tỷ trọng(%) 19,5 18,8 20,4 Nguồn báo cáo của Bộ Thương mại 3.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Trong đó thị trường Trung Quốc là một thị trường rộng lớn nhưng có sức cạnh tranh lớn, mà cạnh tranh trên thị trường Trung Quốc chủ yếu là cạnh tranh về giá cả.Tuy nhiên ở một số khu vực có thu nhập cao thì chủ yếu lại cạnh tranh về dịch vụ, chất lượng còn cạnh tranh về giá đã giảm.Chẳng hạn như hang giày dép Biti’s xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc giá cao nhưng vẫn bán được . Trên cơ sở lợi thế cạnh tranh của mình Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc các chủng loại sản phẩm có lợi thế cạnh tranh như: sản phẩm cao su chế biến dạng thành phẩm cuối cùng( săm lốp ô tô, xe máy, cao su y tế, đồ nhựa dân dụng), rau quả và hoa, thực phẩm chế biến , hải sản, khoáng sản…Hơn 100 nhóm hàng và mặt hàng khác nhau của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc . - Nhóm nguyên liệu: than đá, dầu thô, quặng các loại, các loại dầu thực vật, cao su tự nhiên. - Nhóm nông sản: gạo , chè, rau , sắn lát, hạt điều, lạc nhân , các loại hoa quả nhiệt đới như chuối, soài , thanh long, chôm chôm, vải, nhãn… - Thuỷ sản(tươi sống): tôm, cá, baba, mực. - Hàng tiêu dùng: hàng thủ công mỹ nghệ, giày dép, đồ gia dụng cao cấp. - Hàng công nghiệp: linh kiện vi tính. - Hàng công nghệ phẩm: xà phòng, hàng dệt may, giày dép, điên tử. Dầu thô vẫn là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, chiếm 55% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoácủaViệt Nam sang Trung Quốc. Theo đánh giá của các chuyên gia, với tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, nhu cầu nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc khoảng 40- 50 triệu tấn/năm, cộng với yếu tố giá cả của mặt hàng này trên thị trường thế giới trong thời gian tới vẫn sẽ có lợi cho xuất khẩu. Nhìn chung cơ cầu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đã có những thay đổi đáng kể. Tỷ trọng hàng hóa đã qua chế biến và hàng công nghiệp tiêu dùng tăng cao, nhiều mặt hàng của Việt Nam đã khẳng định được thị phần và sức cạnh tranh của mình trên thị trường Trung Quốc. 4. Đánh giá tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. 4.1 Mặt tích cực. Trên thực tế, với tổng kim ngạch buôn bán hai chiều liên tục vượt xa dự kiến trong những năm gần đây, năm 2005 Trung Quốc đã lần thứ hai vươt qua tất cả để trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Hơn thế, trong bối cảnh người khổng lồ này sẽ còn tiếp tục giữ vai trò nguồn động lực thúc đẩy thương mại toàn cầu phát triển trong những năm tới, dường như có thể hy vọng đây sẽ là nguồn động lực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của nước ta. Thị trường Trung Quốc là thị trường tiềm năng không chỉ của Việt Nam mà còn là của thế giới. Trung Quốc là thị trường có sức tiêu thụ rộng lớn. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 334,6 triệu USD, số tuyệt đối tăng 86% so với năm 2001. Điều đáng mừng đối với nước ta là kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này đã tăng hết sức ngoạn mục 56,51% trong năm 2004, đã nhảy vọt qua ngưỡng 2 tỷ USD rất xa và đạt trên 2,7 tỷ USD, còn trong năm 2005 tuy chỉ tăng khiêm tốn ở mức 8,24% , nhưng cũng đã gần đạt ngưỡng 3 tỷ USD. Rõ rang với đà này, việc Trung Quốc có thể thay thế Nhật Bản trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 2 của Việt Nam trong tương lai là điều có thể xảy ra. Vì thế Việt Nam cần có chính sách đúng đắn, thoả đáng đối với thị trường này, khai thác triệt để các yếu tố thuận lợi như : vừa to lớn , vừa dễ tính, vừa thuận tiện trong các phương tiện như : đường bộ, đường thủy, hàng không, đường sắt. Các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tiến hành đổi mới đã có sự thay đổi đáng kể. Ngoài những mặt hàng truyền thống như : than đá, dầu thô, một số sản phẩm nhiệt đới như : cà phê, hồ tiêu, trong những năm gần đây hàng xuất khẩu của Việt Nam có thêm một số loại mới tiêu biểu là lúa , gạo sau đó phải kể đến các loại hàng hóa thuỷ hải sản, nông sản,một vài sản phẩm khai khoáng(quặng, kim loại). Trong vài năm gần đây, sản lượng và giá trị xuất khẩu của mặt hàng này một tăng. Năm 2003 đạt kim ngạch 2,3 tỷ USD và có triển vọng đạt kim ngạch ngày càng cao hơn. Ngành thuỷ sản của Việt Nam đã được trang bị kỹ thuật chế biến tiên tiến, có môi trường nuôi trồng ngày càng cải thiện theo tiêu chuẩn. Xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Trung Quốc trong bối cảnh hai nước có rất nhiều thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu vì Việt Nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông, có đường biên giới chung trên đất liền, là hai nước láng giềng, gần gũi, có nhiều điểm tương đồng về văn hoá, gần nhau về lãnh thổ.Việt Nam có chung biên giới với Trung Quốc dài 1350 km trải dài từ Đông sang Tây qua 6 tỉnh vùng cao phía Bắc của Việt Nam và 2 tỉnh của Trung Quốc là Quảng Tây và Vân Nam .Điều này thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa sang thị trường Trung Quốc.Kể từ khi chính phủ 2 nước thực hiện chính sách mở cửa biên giới các tỉnh này được đô thị hoá rất nhanh và từng bước trở thành nơi trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bên cạnh đó, nhiều ngành của Trung Quốc sử dụng một khối lượng lớn than đá mà Việt Nam lại có những mỏ than tương đối lớn ở Quảng Ninh sát biên giới với Trung Quốc nên việc vận chuyển tương đối dễ dàng. Tuy nhiên các khu vực và các tỉnh của Trung Quốc phát triển không đồng đều, nhu cầu tiêu dùng mang tính đa dạng cao. Trung Quốc đã có nhiều chính sách thương mại nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác về kinh tế đối với Việt Nam. Trung Quốc đã chuyển từ chính sách mậu biên tiểu ngạch sang chính ngạch đối với Việt Nam . Hiện nay chỉ còn Vân Nam được hưởng chính sách tiểu ngạch.. Phát triển mậu dịch trên thị trường khu vực biên giới được coi là bước đi có tính chất mở đường cho chiến lược mở cửa ven biên giới đất liền. Do sự khác biệt về chính sách phát triển kinh tế- xã hội giữa Việt Nam và Trung Quốc nên hoạt động hàng hoá trên thị trường khu vực vừa có tính đa dạng, vừa mang tính đặc thù. Chính sự đa dạng luôn đi cùng với tính đặc thù nêu trên nên hoạt động thương mại Việt – Trung cũng tồn tại và phát triển dưới các hình thức trao đổi khá phong phú. Đây là cơ sở để phát triển theo hướng vừa hợp tác, vừa bổ xung và hỗ trợ cho nhau để cùng phát triển. Việt Nam và Trung Quốc hiện nay đều trở thành thành viên của WTO nên phải tuân thủ những quy định của tổ chức, đồng thời Trung Quốc cũng sẽ giành cho Việt Nam những chính sách ưu đăi cho một thành viên mới của một gia đình lớn. Trở thành một thành viên của tổ chức lớn nhất hành tinh là một thuận lợi rất lớn cho Việt Nam. Lộ trình cắt giảm thuế cho các hàng hoá sẽ được thực hiện và Việt Nam sẽ có nhiều thuận lợi hơn trong việc xuất khẩu hàng hóa ra thị trường nước ngoài. Việc ký kết hiệp định thương mại hàng hóa và hiệp định cơ chế giải quyết tranh chấp đã tạo tiền đề cho quá trình hợp tác toàn diện giữa Trung Quốc và ASEAN. Hai bên nhất trí về chương trình Thu hoạch sớm ngày 1-1-2006 mỗi bên đã cung cấp danh mục 500 mặt hàng được giảm thuế từ 0-5% .Tạo điệu kiện thuận lợi lớn cho các mặt hàng của Việt Nam có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước khác trên thị trường Trung Quốc. Sự kiện ảnh hưởng mạnh và trực tiếp hơn đến xuất khẩu hàng hóa vào Trung Quốc, ngày 4-11-2002 Hiệp định khung về khu vực thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc(AC FTA) được ký kết, mở đường cho xây dựng khu vực mậu dịch tự do AC FTA. Với hai điểm quan trọng trong hiêp định khung là: - T ừ tháng 1 năm 2004, giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã bắt đầu thực hiện chương trình “thu hoạch sớm” EHP, giảm thuế nhập khẩu đối với sản phẩm nông nghiệp, việc này cũng có tác động rất lớn đến mậu dịch nông sản phẩm nói riêng, mậu dịch biên giới giữa hai nước nói chung . - Điều khoản quy định Trung Quốc giành cho các nước ASEAN chưa phải là thành viên của WTO được hưởng ngay lập tức và đầy đủ MFN theo các tiêu chuẩn của WTO cũng có tác động tích cực đến thuế quan thương mại Việt –Trung. Nông sản phẩm của Việt Nam khi xuất khẩu sang Trung Quốc được hưởng chính sách giảm toàn bộ thuế nhập khẩu, từ đó sẽ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường Trung Quốc. Cơ chế hợp tác giữa chính phủ, bộ ngành và địa phương giữa hai nước cũng có nhiều tác dụng tích cực trong việc đẩy mạnh quan hệ hợp tác giữa hai nước. Một số thoả thuận liên quan đến hàng xuất khẩu của Việt Nam như kiểm dịch thuỷ sản, gạo, vệ sinh an toàn thực phẩm… đã và sé được ký kêt tạo điều kiện pháp lý cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Mặt khác, việc Trung Quốc vãn còn áp dụng chê độ ưu đãi đối với hàng Việt Nam xuất khẩu qua đường biên mậu vào Vân Nam được giảm 50% thuế nhập khẩu và VAT là điều kiện thuận lợi cho hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc. 4.2. Các vấn đề còn tồn tại 4.2.1. Khó khăn và thách thức đối với Việt Nam. Tuy tăng trưởng nhanh nhưng quy mô xuất khẩu và nhập khẩu bình quân đầu người của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Xét trên tổng thể , thương mại Việt Nam vẫn là một nền thương mại nhỏ, manh mún và phát triển còn mang nặng tính tự phát. Thương mại Việt Nam tuy phát triển nhanh nhưng còn thiếu tính bền vững, sức cạnh tranh của hàng hoá và của doanh nghiệp còn thấp cả ở trong và ngoài nước. Cơ cấu chủng loại sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam tuy đa dạng hơn nhưng vẫn tập trung vào các mặt hàng chủ lực. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu mới theo chiều rộng , chưa chú trọng nhiều theo chiều sâu và gắn kết các ngành cùng hướng về xuất khẩu để tạo ra giá trị gia tăng cao hơn. Sức cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam xuất khẩu có tiến triển nhưng phần lớn còn yếu, do vậy tăng trưởng xuất khẩu chưa ổn định vững chắc. Hàng hóa Việt Nam đã có mặt ở trên một trăm nước nhưng khả năng cạnh tranh chưa cao. Chậm đổi mới mẫu mã sản phẩm cho thích ứng với thị trường, chất lượng thấp, giao hàng không bảo đảm tiến độ như hợp đồng, giá thành cao, không xây dựng được thương hiệu, khâu xúc tiến thương mại kém… là những nguyên nhân chính làm cho hàng hóa Việt Nam kém khả năng cạnh tranh. Sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu trên thị trường thế giới và hiệu quả xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Đồng thời nhiều mặt hàng bị khởi kiện và áp thuế chống bán phá giá. Những vụ kiện trên thị trường Mỹ, EU đã gây nhiều thiệt hại cho Việt Nam, đồng thời cũng cho các doanh nghiệp những bài học kinh nghiệm quý báu. Bên cạnh đó.thị trường phát triển thiếu tính định hướng chiến lược. Các kênh phân phối hàng xuất nhập khẩu và hàng hóa lưu thông trên thị trường nước ngoài còn bị cắt khúc và phần lớn là các kênh nhỏ, ngắn, hiệu lực quản lý kênh rất thấp. Một số các chính sách thương mại thúc đẩy xuất khẩu được xây dựng và hoàn thiện trong thời gian qua còn chưa chú ý tới yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các yêu cầu gia nhập WTO. Xuất khẩu thô, gia công xuất khẩu còn chiếm tỷ trọng lớn và hiệu quả xuất khẩu còn thấp. Mặc dù cơ cấu xuất khẩu có chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến và chế biến sâu( năm 1994 hàng chế biến sâu chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu, năm 2005 đã lên đến 68%). Tuy nhiên cho đến nay, xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn chủ yếu, tỷ trọng vẫn còn chiếm hơn 30% tổng kim ngạch. Nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn chủ yếu là gia công cho nước ngoài. Chi phí sản xuất cao và xuất thô, làm gia công xuất khẩu nên hiệu quả xuất khẩu thấp. 4.2.2.Khó khăn và thách thức đối với hàng hóa Việt Nam khi vào thị trường Trung Quốc. Nếu như các doanh nghiệp của các quốc gia khác xuất khẩu ra thị trường trên thế giới đều sử dụng sản phẩm có chất lượng chuẩn mực để cạnh tranh thì không thể cạnh tranh được vì hàng hóa nào cũng như nhau và không tạo ra sự khác biệt giữa các sản phẩm. Các doanh nghiệp chỉ còn cách sử dụng phương án giá thấp để cạnh tranh, phương án này mang lại ít lợi nhuận, nhưng nếu gặp phải những hàng hóa của quốc gia có quy mô sản xuất lớn, giá cả rẻ như khi vào thị trường Trung Quôc thì càng gặp khó khăn trong xuất khẩu và cạnh tranh. Việt Nam có điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu, đường xá đi lại khó khăn, phương tiện giao thông thấp kém. Mặt khác hệ thống thông tin liên lạc chưa được đầu tư thoả đáng, chủ yếu chỉ được đầu tư ở khu vực thành thị nên các thông tin kinh tế- xã hội, thương mại đều đến chậm, nhiều khi thiếu hoàn chỉnh, thiếu chính xác…gây khó khăn cho công tác ra chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước còn hạn chế. Đại bộ phận có quy mô nhỏ, yếu về năng lực, kém về kiến thức kinh nghiệm kinh doanh thương mại quốc tế. Trung Quốc với các điều kiện thiên nhiên, khí hậu đa dạng. Bên cạnh đó, Trung Quốc và Việt Nam lại có những nét tương đồng về văn hóa nên tại thị trường Trung Quốc cũng có những mặt hàng mà Việt Nam cũng có. Điều này gây khó khăn cho Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc do có nhiều hàng hoá cùng loại cạnh tranh với hàng Việt Nam.Các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự thay đổi theo hướng tích cực trong tư duy, luôn có thái độ ỷ lại, chờ đợi sự hỗ trợ của các cơ quan chủ quan, các bộ ngành không chủ động tìm hiểu , tiếp cận, thâm nhập thị trường, không tiếp cận được mạng lưới tiêu thụ ổn định, bền vững và lâu dài. Do vậy rất dễ bị động trong quan hệ buôn bán với Trung Quốc. Khả năng chủ động nắm bắt những cơ hội thuận lợi để thâm nhập và khai thác thị trường Trung Quốc còn nhiều hạn chế. Chưa tận dụng được những cơ hội và lợi ích mang lại từ các hiệp định thương mại song phương, đa phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và Trung Quốc. Để phù hợp với chương trình “thu hoạch sớm”, năm 2004 tỉnh Quảng Tây đã xoá bỏ chính sách ưu đãi giảm một phần hai thuế nhập khẩu tiểu ngạch biên giới. Ưu thế cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam do chính sách mậu dịch biên giới đem lại sẽ bị ưu thế về chất lượng sản phẩm của Thái Lan thay thế, khiến cho sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu của Việt Nam bị giảm sút. Ngoài ra, phía Trung Quốc còn tăng cường quản lý đối với hoạt động nhập khẩu biên mậu, các ban ngành tăng cường thêm các biện pháp giám sát, các bộ ngành của Việt Nam áp dụng nghiêm ngặt hơn biện pháp tăng cường quản lý hiện tượng xuất khẩu giả, lừa thuế nông sản phẩm, dẫn đến tình trạng giá thành xuất khẩu tăng, khối lượng xuất khẩu giảm Bên cạnh các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, Việt Nam chưa có những mặt hàng có hàm lượng giá trị tăng cao. Những ưu thế của nước ta về nguyên vật liệu dồi dào, sức lao động rẻ đang vấp phải cạnh tranh gay gắt trên thị trường Trung Quốc. Một số mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc như than đá, gạo thì Trung Quốc đang có xu hướng hạn chế nhập khẩu. Mặt hàng hoa quả tươi nhiệt đới của Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đang bị rau hoa quả Thái Lan cạnh tranh gay gắt vì Trung Quốc và Thái Lan đã ký hiệp định thương mại tự do song phương (thực chất là hiệp định thương mại tự do về rau quả). Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam có giá trị thấp và thường bị tác động của giá thị trường thế giới theo xu hướng giảm. Do hạn chế trong hạn ngạch nhập khẩu dẫn đến những hạn chế trong việc Trung Quốc nhập khẩu một số mặt hàng mà Việt Nam có ưu thế như : gạo, cao su thiên nhiên… II. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. 1. Chương trình thu hoạch sớm Trung Quốc - ASEAN Để thúc đẩy việc xuất khẩu hàng hoá vào thị trường Trung Quốc không thể không nói đến tác động và ảnh hưởng của quan hệ Trung Quốc với ASEAN. Sau khi ký kết hiệp định thương mại tự do ASEAN- Trung Quốc, các doanh nghiệp trong khu vực mậu dịch tự do được tăng thêm cơ hội và mở rộng không gian thương mại hơn sau khi dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Theo hiệp định đó, Trung Quốc và ASEAN bắt đầu triển khai chương trình thu hoạch sớm, chủ yếu là giành cho sản phẩm nông sản , rau quả. Hiện tại, rau quả Việt Nam nhập khẩu vào Trung Quốc chịu thuế suất 13%, theo tinh thần của chương trình thu hoạch sớm mức thuế này sẽ được cắt giảm tới 0% vào năm 2008. Trong bối cảnh hiện nay, để mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả, cạnh tranh với Thái Lan và các quốc gia ASEAN khác trên địa bàn Trung Quốc, nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều việc phải làm, trong đó cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: - Tăng cường công tác quy hoạch và tổ chức vùng chuyên canh rau quả , đảm bảo khả năng cung ứng ổn định khối lượng lớn rau quả cho chế biến và xuất khẩu, đa dạng hóa chủng loại sản phẩm. Chiến lược mặt hàng xuất khẩu cần tính đến xu hướng chuyển dịch nhanh chóng nhu cầu của người dân Trung Quốc, nhất là ở các thành phố và trung tâm kinh tế, từ nhu cầu đối với các loại rau quả thấp cấp sang các loại rau quả cao cấp, rau quả đặc sản. - Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trong chọn giống, hoàn thiện kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao năng suất và chất lượng rau quả, trợ giúp người kinh doanh rau quả về thông tin và các dịch vụ để họ nhanh chóng tiếp cận đựơc với thị trường Trung Quốc. - Nhà nước cần quan tâm tổ chức tốt các dịch vụ phục vụ xuất khẩu, có các chính sách khuyến khích sản xuất rau quả xuất khẩu. Nhờ có chương trình thu hoạch sớm được ký kết với Trung Quốc nên khi xuất khẩu nông sản vào Trung Quốc sẽ được giảm thuế, do đó Việt Nam cần phải biết tận dụng tốt các cơ hội để có thể đưa được hàng hóa vào Trung Quôc nhanh hơn.Thêm vào đó, Việt Nam có đường biên giới chung với Trung Quốc nên thuận lợi cho việc vận chuyển. Nhưng các tuyến đường của Việt Nam cần phải nâng cấp để phục vụ tốt hơn cho việc vận chuyển vì hàng nông sản là loại hàng hóa nhanh hư hỏng trên đường vận chuyển và đòi hỏi chi phí vận chuyển lớn.Nhà nước cần hỗ trợ cho các hộ nông dân kinh doanh nông sản về kinh phí cũng như kỹ thuật , mở các lớp đào tạo dạy họ cách chăm sóc, tạo giống, sử dụngcác phượng tiện khoa học kỹ thuật hiện đại để cho sản phẩm có năng suất cao. Đồng thời theo lộ trình cắt giảm thuế ACFTA, tới đây Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ tiến hành cắt giảm thuế quan đối với danh mục hàng hóa thông thường. 2. Định hướng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân thời kỳ 2006-2010 tăng 17,5%/năm, giá trị tăng từ 32,442 tỷ USD vào năm 2005 lên 72,547 tỷ USD vào năm 2010l. Cơ cấu thị trường xuất khẩu vào năm 2010 sẽ là : Châu Á: 45,5%( trong đó chủ yếu là các nước ASEAN, Trung Quốc , Nhật Bản và Hàn Quốc ),Châu Âu 22,0%, Châu Mỹ 24%, Châu Đại Dương 7,7% và Châu Phi là 2,8% Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dịch vụ là 16,3%/năm, giá trị tăng từ 4 tỷ USD vào năm 2005 lên đến 12 tỷ USD vào năm 2010. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng hoá bình quân là 17,5 %/năm cho thời kỳ 2006-2010. Giá trị kim ngạch tăng từ 42 tỷ USD năm 2006 và 72 tỷ USD vào năm 2010. Phấn đấu đến năm 2010 cân bằng cán cân thương mại và từ năm 2011 sẽ trở thành nước xuất siêu. Đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh đồng thời phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo tính toán của Bộ Thương mại với tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao và ổn định như hiện nay, đến năm 2010 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc có thể đạt đến 1.800 tỷ USD, trong đó nhập khẩu đạt khoảng 850 tỷ USD. Điều này cho thấy dung lượng thị trường này rất lớn, sẽ là điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong những năm tới. 3. Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Trung Quốc. - Trong quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc chúng ta đẩy mạnh quan hệ hợp tác, tranh thủ sự hợp tác với Trung Quốc trong việc xuất khẩu một số hàng hóa có thế mạnh và có sẵn của Việt Nam sang thị trường Trung Quốc đó là dầu thô, các sản phẩm quả nhiệt đới, thuỷ hải sản, trái cây, rau tươi. - Việt Nam cũng cần tích cực chuẩn bị và tăng cường họat động hợp tác và đầu tư sang các vùng trung tâm và các tỉnh Tây Nam Trung Quốc dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp tác doanh nghiệp với doanh nghiệp;hợp tác địa phương với địa phương và trên tầm quốc gia. Để từ đó có thể đưa được hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Trung Quốc. - Việt Nam đẩy mạnh hình thức quan hệ buôn bán qua biên giới với Trung Quốc bằng những hình thức tổ chức và quản lý phù hợp để đảm bảo lợi ích quốc gia và của người tiêu dùng. - Các doanh nghiệp Việt Nam có thể chủ động và tích cực tham gia vào hệ thống phân phối của các doanh nghiệp Trung Quốc dưới nhiều hình thức liên doanh hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đồng thời các doanh nghiệp cũng cần khẩn trương hợp tác với các doanh nghiệp Trung Quốc để hình thành hệ thống bán buôn hàng Việt Nam trên thị trường Trung Quốc. - Cần có chính sách toàn diện, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu xoá bỏ các rào cản về thủ tục hành chính, kinh doanh, tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp, nhất là trong việc tiếp cận các nguồn vốn, xây dựng quỹ bảo hiểm xuất khẩu hàng hóa, quỹ xúc tiến thương mại. Chú trọng xây dựng hệ thống phân phối của các doanh nghiệp trong phạm vi quốc gia. - Hiện tại có nhiều hình thức để các doanh nghiệp thâm nhập thị trường nước ngoài, các doanh nghiệp tuỳ thuộc vào khả năng của mình, căn cứ vào thời cơ trên thị trường Trung Quốc và tuỳ thuộc vào mục tiêu chiến lược mà chọn cho mình một hình thức thâm nhập thị trường Trung Quốc hiệu quả nhất. Có một số hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp có thể lựa chọn như: + Xuất khẩu gián tiếp qua trung gian.. Khi doanh nghiệp lần đầu tiên xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc mà chưa biết nhiều về thị trường này. Hoặc khi đưa sản phẩm mới vào thị trường này mà chưa nắm chắc thị trường. + Xuất khẩu trực tiếp. Nó tạo điều kiện cho người sản xuất nắm được tình hình thị trường Trung Quốc mà không phải chia sẻ lợi nhuận và có thể lựa chọn nhiều cách thức để tiếp cận với thị trường đó như: đấu giá, đấu thầu, tái xuất, gia công hoặc mua bán trực tiếp. Khi sử dụng hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có kiến thức nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu, nắ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35755.doc
Tài liệu liên quan