MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC MARKETING 1
1. Cơ sở lý luận 1
1.1. Thương hiệu và vai trò trong hoạt động kinh doanh của DN 1
1.2. Tổng quan về Marketing và vai trò Marketing trong vấn đề nâng cao thương hiệu 7
2. Cơ sở thực tiễn 10
2.1. Thực tiễn áp dụng chiến lược Marketing trong việc phát triển thương hiệu trên toàn thế giới hiện nay 10
2.2. Kinh nghiệm rút ra từ các nước trên thế giới 12
Tóm tắt chương 1 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM TRONG VẤN ĐỀ XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI 17
1. Thực trạng chung của ngành dệt may Việt Nam hiện nay 17
1.1. Quy mô và vị thế thị trường 17
1.2. Thị trường xuất khẩu chính 18
1.3. Vấn đề cạnh tranh 26
2. Thực trạng về thương hiệu dệt may và việc áp dụng chiến lược Marketing tại các DN dệt may Việt Nam hiện nay 28
2.1. Thực trạng về thương hiệu 28
2.2. Các chiến lược Marketing đang được áp dụng hiện nay 29
2.3. Tiềm năng và hiệu quả áp dụng các chiến lược Marketing đối với dệt may Việt Nam trong vấn đề phát triển thương hiệu 30
3. Phân tích các nhân tố vĩ mô (PEST) và phân tích SWOT 31
3.1. Phân tích các nhân tố vĩ mô (PEST) 31
Tóm tắt chương 2 35
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ CHIẾN LƯỢC MARKETING NHẰM XÂY DỰNG THƯƠNG HIỆU DỆT MAY VIỆT NAM TRÊN THẾ GIỚI 36
1. Định hướng phát triển hiện nay của dệt may Việt Nam 36
2. Giải pháp đề xuất và kiến nghị 37
2.1. Giải pháp đề xuất 37
2.2. Kiến nghị 42
Tóm tắt chương 3 47
KẾT LUẬN 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO 49
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 50
52 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp và kiến nghị chiến lược Marketing nhằm xây dựng thương hiệu dệt may Việt Nam trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp trọng điểm của ngành công nghiệp Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Ngành dệt may nước ta có tiềm lực phát triển rất mạnh trong xu thế kinh tế thị trường mở cửa với rất nhiều lợi thế cạnh tranh.
Theo thống kê hiện nay, Việt Nam hiện có hơn 2000 nhà máy dệt may, thu hút trên 2 triệu lao động, chiếm đến 22% tổng số lao động trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng sản xuất hàng năm tăng trên 10% nhưng quy mô còn nhỏ bé, thiết bị và công nghệ khâu kéo sợi và dệt vải lạc hậu, không cung cấp được vải cho khâu may xuất khẩu. Những năm qua, tuy đã nhập bổ sung, thay thế 1.500 máy dệt không thoi hiện đại để nâng cấp mặt hàng dệt trên tổng số máy hiện có là 10.500 máy, thì cũng chỉ đáp ứng khoảng 15% công suất dệt.
Cũng trên nguồn số liệu thống kê của Hiệp hội dệt may Việt Nam, nếu phân theo nguồn vốn chủ sở hữu thì Việt Nam có 1172 doanh nghiệp dệt may ngoài quốc doanh, 307 doanh nghiệp nhà nước và 472 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu phân loại theo số lao động thì có 1270 doanh nghiệp dưới 500 lao động, 399 doanh nghiệp từ 500 đến 1000 lao động, 244 doanh nghiệp có từ 1000 đến 5000 lao động và 8 doanh nghiệp có trên 5000 lao động. Như vậy, theo nguồn số liệu trên thì các doanh nghiệp dệt may chủ yếu là doanh nghiệp ngoài quốc doanh và quy mô nhỏ.
Ngành may tuy liên tục đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ chuyên sản xuất một mặt hàng như dây chuyền may sơ mi, may quần âu, quần Jean, complet, hệ thống giặt là... nhưng cũng chưa đáp ứng được yêu cầu xuất khẩu ngày càng cao. Tính đến năm 2008 thì số lượng lao động trong ngành may là khoảng trên 2 triệu lao động, nhưng tính ổn định của nguồn lao động trong ngành không cao do mức thu nhập của người công nhân khá thấp, không đáp ứng được nhu cầu cho cuộc sống hiện nay.
Bên cạnh đó, giá trị gia tăng trong các sản phẩm xuất khẩu của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam chưa cao, dẫn đến lợi nhuận thu về chưa tương xứng với khả năng hiện có do mới chỉ tập trung váo các mặt hàng dễ làm như áo jacket, sơmi...trong khi các mặt hàng có giá trị cao, đòi hỏi kỹ thuật sản xuất tốt hơn như complet hay áo sơmi cao cấp thì ít có doanh nghiệp nào đủ khả năng cung cấp. Hơn nữa, những đơn hàng của các doanh nghiệp chủ yếu là nhận gia công xuất khẩu cho phía nước ngoài và ít có khả năng thiết kế và sản xuất các sản phẩm chất lượng cao.
Xuất khẩu hàng dệt may tuy đạt kim ngạch cao, nhưng chủ yếu làm gia công, ngành dệt vẫn nhập khẩu nhiều và nguyên liệu cho sản xuất của ngành dệt hầu như hoàn toàn nhập khẩu từ nước ngoài với giá trị chiếm tới 70-80% so với giá trị xuất khẩu. Nguyên nhân là do nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng đủ cho nhu cầu sử dụng hoặc không đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng do phía đối tác nước ngoài đòi hỏi. Cộng với trình độ công nghệ và năng lực sản xuất của các doanh nghiệp hiện nay còn thấp hơn 30-50% so với mặt bằng chung của khu vực. Do đó, giá trị xuất khẩu thực tế thu được không hề cao so với kim ngạch xuất khẩu hiện có.
Về tổng quan ngành, trong những năm gần đây, dệt may Việt Nam có những bước phát triển đáng kể với tốc độ trên dưới 20% một năm, kim ngạch xuất khẩu chiếm 15% của cả nước. Năm 2010, ngành dệt may Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu gần 11,2 tỷ đô la mỹ, về trước kế hoạch đặt ra 4 năm, đưa dệt may Việt Nam lên top 5 nước trên thế giới về kim ngạch xuất khẩu dệt may trong số 153 nước xuất khẩu dệt may trên thế giới.
Thị trường xuất khẩu chính
Các thị trường chính
Sau nhiều năm đầu tư thì hiện tại dệt may vẫn là ngành có kinh ngạch xuất khẩu cao nhất và lọt vào top 10-nước xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Riêng năm 2009, dù thị trường rất khó khăn do sự suy thoái về kinh tế, nhu cầu giảm sút nhưng dệt may vẫn đạt được mức xuất khẩu là 9.1 tỷ USD. Và chỉ 9-tháng đầu năm sau đó, thì xuất khẩu dệt may đã đạt 9.2 USD tương đương với cả năm 2009. Điều này giúp cho ngành dệt may năm 2010 vượt mức 0.5 tỷ USD so với kế hoạch đề ra là 10.5 tỷ USD và dự kiến kinh ngạch xuất khẩu trong năm nay 2011 có thể lên đến 13.5 tỷ USD vượt mức dự kiến đầu năm là 0.5 tỷ USD. Đây là những con số đáng vui mừng khi mà nền kinh tế thế giới vẫn chưa mấy ổn định sau cuộc khủng hoảng năm 2009.
Theo tính toán đến tháng 7/2011 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ 7 trên bản đồ dệt may thế giới sau Trung Quốc, khu vực EU, Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Bangladesh, Ấn Độ với thị phần đang chiếm giữ khoảng 2.7%.
Trong 6 tháng đầu năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may Việt Nam đã tăng xấp xỉ 30% so với cùng kỳ năm trước khi đạt khoảng 6.16 tỷ USD. Đây là mức tăng trưởng xuất khẩu cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây. Các thị trường như Mỹ, EU, Nhật Bản, Canada, Nga vẫn là những khu vực tiêu dùng hàng dệt may lớn nhất, chiếm tới 86,4% thị phần nhập khẩu thế giới, và đây đều là những thị trường truyền thống của Việt Nam.
Trong khoảng thời gian gần đây Hoa Kỳ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành dệt may Việt Nam, chiếm đến 51% thị trường xuất khẩu.
Khu vực EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai, chiếm 17% thị phần xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam.
Còn đối với Nhật Bản, mặc dù đầu năm gặp nhiều khó khăn do thảm họa động đất và sóng thần nhưng vẫn là thị trường nhập khẩu lớn thứ ba của Việt Nam, chiếm 12% thị phần xuất khẩu (tăng lên 2% so với năm 2010)
Bên cạnh đó, một số nước như: Hàn Quốc, Nga, Canada… cũng là những bạn hàng đáng lưu ý trong khoảng thời gian gần đây.
Để có cái nhìn cụ thể hơn về tiềm năng của việc xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường thế giới, chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm hiểu chi tiết những thị trường này:
Hoa Kỳ
Được xem như là đối tác lớn nhất nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong rất nhiều năm. Theo số liệu thống kê hải quan trong nhiều năm qua cũng cho thấy, Hoa Kỳ luôn là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Xuất khẩu nhóm hàng này sang Hoa kỳ luôn chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước và khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước sang thị trường này.
Với trên 278 triệu dân, Hoa Kỳ là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới cả về mặt giá trị hàng hoá và số lượng, với tổng kim ngạch nhập khẩu ước tính trong giai đoạn 2002-2005 khoảng 70 tỷ USD/năm. Nhóm hàng nhập khẩu lớn nhất là quần áo may sẵn chiếm tỷ trọng cao nhất với 68 tỷ, chiếm 89% tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ. Nhập khẩu bông, sợi (bông, sợi thực vật, sợi nhân tạo và vải vóc nguyên phụ liệu chỉ chiếm 11%), hầu hết là những loại mà Hoa Kỳ không sản xuất hoặc mua những loại hàng chất lượng cao về gia công sản xuất trong nước.
Mặc dù mức tăng tiêu thụ ít nhiều bị ảnh hưởng của xu hướng suy giảm thu nhập, nhưng giá sản phẩm dệt may cũng có xu hướng giảm do nhiều nhà sản xuất Hoa Kỳ đã chuyển cơ sở sản xuất ra nước ngoài, để giảm chi phí cũng như do tỉ trọng hàng may mặc giá rẻ nhập khẩu từ các nước có chi phí sản xuất thấp gia tăng. Các sản phẩm mang nhãn mác riêng của nhà sản xuất cũng như của các tập đoàn bán lẻ nổi tiếng vẫn là lựa chọn ưu tiên của người tiêu dùng Hoa Kỳ.
Số liệu thống kê của Hoa Kỳ năm 2005 cho thấy ưu thế trên thị trường hàng dệt may nhập khẩu Hoa Kỳ sau thời điểm 1/1/2005 đã thuộc về các quốc gia châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Bangladesh, Hàn Quốc, các nước ASEAN... và thị phần của ngành sản xuất dệt may nội địa Hoa Kỳ luôn trên đà thu hẹp.
Toàn cầu hóa khiến sụt giảm sản xuất trong nước ở những ngành cần lao động giản đơn như may mặc là một xu thế tất yếu ở những nước phát triển như Hoa Kỳ.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ qua các tháng giai đoạn 2006 - 2010(Đơn vị: triệu USD)
Khu vực EU
Liên minh châu Âu (EU) là tên gọi hiện nay của Cộng đồng chung châu Âu cũ. Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995, EU có 15 quốc gia thành viên. Tháng 5 năm 2004, EU kết nạp thêm 10 thành viên mới và hiện một số nước ứng cử viên đang trong quá trình đàm phán gia nhập EU. Hiện nay EU đang bao gồm 27 thành viên.
Ngành may mặc EU là một ngành đa dạng và phức tạp, gồm rất nhiều sản phẩm từ sợi tổng hợp công nghệ cao tới hàng len, khăn trải giường cotton, màng lọc công nghiệp, khăn ăn tới hàng thời trang cao cấp.
Lĩnh vực may mặc là một phần quan trọng của ngành sản xuất EU, với doanh thu năm 2005 đạt 198 tỷ euro, thu hút 2.218.729 lao động tại 154.866 doanh nghiệp. Ngành may mặc của EU chiếm khoảng 4% tổng giá trị sản xuất và 7% việc làm sản xuất trong khối EU-15.
Lĩnh vực may mặc của EU chủ yếu bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp dưới 50 lao động chiếm 60% lực lượng lao động trong lĩnh vực may mặc của EU và sản xuất gần 50% giá trị tăng thêm. Tại EU – 15, ngành may mặc tập trung vào 5 nước đông dân nhất, chiếm khoảng ¾ sản lượng may mặc của EU-15 gồm: Ý, Anh, Pháp, Đức và Tây Ban Nha.
Về việc thực hiện thương mại may mặc bên ngoài EU, trên 20% giá trị sản xuất hàng may mặc và 23% giá trị hàng dệt của EU được bán tại thị trường bên ngoài mặc dù việc tiếp cận các thị trường thứ 3 còn bị hạn chế. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều trở ngại lớn đối với thương mại may mặc, nhất là một số nhà xuất khẩu lớn và có sức cạnh tranh hơn trong lĩnh vực này, và ngành may mặc EU có thể tăng sản xuất và xuất khẩu tới các thị trường này khi những trở ngại đối với thương mại tự do được dỡ bỏ.
Nhìn chung trên cơ sở tăng năng suất, chi phí lao động, chất lượng sản phẩm và thương mại quốc tế, lĩnh vực may mặc của EU vẫn giữ được thế cạnh tranh trên bình diện quốc tế và đã cải thiện được vị thế so với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, sức ép về tái cơ cấu và hiện đại hóa ngành may mặc tại các nước thành viên mới và các nước ứng cử viên đang ngày càng tăng do sự tiếp cận của các nước thứ 3 vào thị trường EU.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU qua các tháng giai đoạn 2007 - 2010(Đơn vị: triệu USD)
Nhật Bản
Tuy ngày nay Nhật Bản được coi là một trong những nước hàng đầu về nhập khẩu vải và quần áo, nhưng trong quá khứ không phải là như vậy. Trong những năm 1950 và 1960 Nhật là trung tâm sản xuất hàng may mặc của thế giới, đe dọa cả ngành may mặc của Hoa Kỳ và các nước Tây Âu. Nhưng từ thập niên 80 và 90 trở đi, Nhật đã chuyển trọng tâm từ sản xuất trong nước sang các ngành cần nhiều công nghệ và chất xám hơn như ngành ô tô, điện tử, bán dẫn và do đó sản xuất hàng dệt may ở Nhật giảm.
Phần lớn các nhà sản xuất trong nước chuyển hướng sang đặt gia công ở nước ngoài, nên nhập khẩu tăng liên tục trong những năm gần đây. Các nhà sản xuất trong nước chỉ sản xuất những mặt hàng cao cấp, giá trị gia tăng cao và đòi hỏi sự tinh xảo trong sản xuất. Đó là bức tranh chung của ngành may mặc Nhật hiện nay.
Trong những năm gần đây, sản xuất hàng may mặc của Nhật Bản giảm liên tục và với cường độ ngày càng nhanh. Nếu sản xuất năm 2000 là 100% thì đến năm 2005 sản xuất chỉ còn 73.7% tức là đã giảm 26,3%. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do sản xuất tại Nhật đã trở nên kém cạnh tranh so với các nước khác. Dệt may là ngành cần nhiều lao động mà xét về chi chí cho nhân công thì Nhật không thể cạnh tranh với Trung Quốc, các nước ASEAN. Còn xét về khía cạnh thời trang và các giá trị gia tăng khác thì các nước Châu Âu như Ý, Pháp; Hoa Kỳ có lợi thế vững chắc mà các nhà sản xuất Nhật khó có thể vượt được họ.
Do máy móc sử dụng trong ngành may mặc Nhật hiện đại và cạnh tranh gay gắt cả trong nước cũng như bên ngoài nên sản xuất hàng may mặc tại Nhật có quy mô ngày càng thu hẹp và do đó lực lượng lao động trong ngành sản xuất này cũng ngày càng giảm theo.
Hiện trên 50% quần áo được bán ở Nhật là hàng nhập khẩu, trong đó Trung Quốc là nhà cung cấp hàng đầu chiếm hơn 80% trong tổng kim ngạch nhập khẩu quần áo của Nhật. Ngoài hàng nhập khẩu giá rẻ từ Trung Quốc thì hàng hiệu nhập khẩu từ Châu Âu và Hoa Kỳ được sản xuất ở Trung Quốc sau đó xuất trực tiếp sang Nhật cũng chiếm ưu thế đáng kể.
So với các nước trong khối EU thì Ý là nhà cung cấp quần áo lớn nhất cho Nhật, chiếm 4,2% tổng nhập khẩu quần áo của Nhật. Với mức tăng trưởng tới 45% trong 6 tháng qua, thì VIệt Nam đã vượt qua Ý trở thành nhà cung cấp dệt may đứng thứ hai sau Trung Quốc và đang chiếm 4.45% thị phần tại đất nước mặt trời mọc.
Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Nhật Bản qua các tháng giai đoạn 2007 – 2010 (Đơn vị: triệu USD)
Các thị trường khác
Hàn Quốc
Hàn Quốc là thị trường có sự tăng trưởng khá cao sau khi các Hiệp định thương mại song phương được ký kết. Xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc tăng trưởng liên tiếp từ năm 2006 đến nay, kể cả trong thời gian khủng hoảng như năm 2009. Bộ Công Thương ước tính cả năm 2011 xuất khẩu dệt may sang Hàn Quốc sẽ đạt 774 triệu USD, tằng 80% so với năm 2010 và tăng gấp đôi hơn 9 lần kể từ năm 2006 (82.9 triệu USD) và quốc gia này sẽ xếp thứ 4 sau 3 khu vực lớn là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản.
Nguyên nhân kiến Hàn Quốc tăng trưởng mạnh về nhập khẩu dệt may là do nước này đã thay đổi cơ cấu ngành dệt may tập trung vào phân khúc thị trường cao cấp đúng vào thời điểm các cam kết theo Hiệp định Thương mại song phương có hiệu lực trên thị trường trung cấp mở ra. Đây lại chính là phân khúc thị trường tiềm năng đối với các nhà xuất khẩu dệt may Việt Nam.
Ngoài ra hiện tại doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành dệt may của Hàn Quốc tại Việt Nam đang rất đông đảo với 370 doanh nghiệp, chiếm 18% số doanh nghiệp dệt may tại Việt Nam.
Canada
Cũng là thị trường có tiềm năng tốt và tăng trưởng cao liên tiếp trong những năm qua. Canada có mức tiêu dùng hàng may mặc khá cao, khoảng 20 tỷ USD mooic năm và được xếp vào các nước có mức nhập khẩu hàng dệt may cao nhất thế giới tính theo đầu người. Dự kiến cả năm 2011 xuất khẩu của Việt Nam sang quốc gia Bắc Mỹ này sẽ đạt 270 triệu USD tăng gấp 2.8 lần so với năm 2006.
Thổ Nhĩ Kỳ
Được đánh giá là thị trường rất tiềm năng cho hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam. Hiện nước ta đang đứng thứ 6 trong việc xuất khẩu hàng dệt may vào Thổ Nhĩ Kỳ.
Nga
Gần đây cũng khá sôi động, nhiều nhà nhập khẩu Nga đang rất quan tâm tìm hiểu và đặt hàng cảu các doanh nghiệp may Việt Nam. Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế thế giới thì chỉ khoảng 3-4 năm tới, sản xuất dệt may ở Đông Âu sẽ chuyển sang châu Á.
Vậy, trong 8 tháng đầu năm 2011, cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã xuất hiện thêm một số thị trường mới như: Angola, New Zealan, Cuba…Ngoài ra hàng xuất khẩu sang một số thị trường đang có xu hướng tăng mạnh so với cùng kỳ năm ngoái như: Nga, Trung Quốc, Ấn Độ… Số liệu thống kê trên đây cho thấy thị trường dệt may thế giới là rất lớn và cơ hội cho hàng dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều tiềm năng để phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển ngành dệt may của nước ta bên cạnh những thuận lợi thì cũng gặp phải nhiều khó khăn khi nguồn nguyên phụ liệu phục vụ ngành dệt may phần lớn là phải nhập khẩu.
Vấn đề cạnh tranh
Áp lực cạnh tranh từ nhà cung cấp
Nhà cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành may nước ta đóng vai trò rất quan trọng. trong những năm qua, tuy kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may rất cao (5,1 tỷ USD trong 5 tháng đầu năm 2011) nhưng giá trị cho nguyên phụ liệu chiếm 70% trong số đó. Nguyên nhân chủ yếu là do ngành dệt may Việt Nam chưa chủ động được nguồn đầu vào cho sản phẩm, cũng như do sự phát triển của ngành dệt không theo kịp tiến độ của ngành may. Trong khi sợi sản xuất ra hiện nay 2/3 phải xuất khẩu vì ngành công nghiệp dệt sợi, in, nhuộm trong nước hiện vừa yếu và thiếu về cơ sở hạ tầng cũng như công nghệ sản xuất.
Hiện nay, với chính sách xây dựng các khu vực trồng và chê biến nguyền nguyên liệu cho ngành may của nhà nước, cùng với sự đầu tư cho công nghệ sản xuất hiện nay thì ngành dệt có khả năng cung cấp phần lớn nguyên liệu cho ngành may. Cùng với sự nhanh chóng cải tiến quy trình sản xuất, dự báo tầm xa, có khoản dự trữ nguyên vật liệu, ra sức đẩy mạnh xuất khẩu để cân đối ngoại tệ, lấy ngoại tệ thu được từ xuất khẩu bù cho lượng ngoại tệ nhập khẩu nguyênliệu để hạn chế tối đa ảnh hưởng của biến động. Những điều này có thể làm giảm đáng kể sức mạnh của nhà cung cấp.
Áp lực cạnh tranh từ khách hàng
Khách hàng cũng như thị trường xuất khẩu chủ yếu của dệt may Việt Nam là là Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu. Đây cũng là thị trường chủ yếu của một số nước như Trung Quốc, Ấn Độ. Ngành dệt may phụ thuộc nhiều vào thị hiếu và tâm lý tiêu dung cũng như vấn đề thời trang của khách hàng. Giá cả cũng là vấn đề khá nhạy cảm của ngành dệt may và điều này tùy thuộc vào đối tượng khách hàng mục tiêu của DN. Bên cạnh đó, vấn đề thương hiệu còn được khách hàng đặc biệt lưu tâm nhất là đối với nhóm khách hàng mục tiêu là tầng lớp thu nhập cao. Ngoài ra, sự khác biệt hóa sản phẩm cũng là một vấn đề gây áp lực lớn cho dệt may Việt Nam hiện nay do trình độ và sự phát triển của ngành thiết kế thời trang cũng như thiết kế vải của Việt Nam chưa đủ để đáp ứng. Dệt may là một ngành mang đặc trưng của chuỗi giá trị chịu sự chi phối của người mua. Một ngành với sự gia nhập ngành dễ dàng, nhưng lại chịu tác động bảo hộ từ các nước phát triển, đã dẫn đến sự đa dạng hóa chưa từng có của các nhà xuất khẩu dệt may trong thế giới thứ ba.
Áp lực cạnh tranh từ đối thủ tiềm ẩn
Do rào cản nhập cuộc của ngành, chi phí chuyển đổi trong ngành không cao, vấn đề được chú trọng hàng đầu là chi phí sản xuất, mẫu mã thiết kế và chất lượng sản phẩm trong ngành. Do vậy, đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn của ngành khó xác định và các daonh nghiệp nên ngiên cứu kỹ vấn đề cạnh tranh để giảm bớt áp lực này thông qua các chiến lược kinh doanh phù hợp
Áp lực cạnh tranh từ sản phẩm thay thế
Nhìn chung, sản phẩm thay thế của ngành dệt may gần như không có và áp lực này không cao. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là do nhu cầu ăn mặc vẫn là nhu cầu thiết yếu của con người.
Áp lực cạnh tranh trong nội bộ ngành
Với những lợi thế riêng biệt như vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động và có nhiều điều kiện mở rộng thị trường nên trong xu hướng hội nhập kinh tế như hiện nay thì Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức lớn đặc biệt là phải cạnh tranh nganh bằng với các cường quốc xuất nhập khẩu lớn như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonexia, Pakistan, Hàn Quốc…
Có 3 yếu tố tạo nên lợi thế cạnh tranh cho ngành dệt may hiện nay là: giá thành sản xuất, chất lượng và thời gian giao hàng. Các khâu này được đặc biệt lưu tâm đặc biệt là vấn đề quản lý giá thành sản xuất. Góp phần vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, phải kể đến yếu tố năng suất lao động được cải thiện đáng kể trong những năm gần đây. Nhiều doanh nghiệp đã không ngừng đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ, cải tiến các công đoạn trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Tuy nhiên, vấn đề hiện nay của ngành là tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày một khốc liệt, nhất là vấn đề phân phối sản phẩm, đặc biệt là ở thị trường nước ngoài. Áp lực cạnh tranh ở các thị trường xuất khẩu chủ yếu như thị trường Mỹ, Châu Âu rất cao. Không chỉ vấp phải hàng rào thuế quan, hạn ngạch, và luật bảo hộ hàng hóa nội địa của các nước này, dệt may Việt Nam còn chịu áp lực cạnh tranh lướn từ đối thủ Trung Quốc. Hiện nay, Dệt may Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với Dệt may Trung Quốc. Minh chứng là trong 9 tháng đầu năm 2005, khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch tại thị trường Mỹ, lập tức, Dệt may Trung Quốc tăng trưởng tới 76%, còn chúng ta xuất khẩu âm vào thị trường này. Chỉ đến khi Mỹ áp dụng biện pháp tự vệ (áp dụng hạn ngạch với 28 mặt hàng Dệt may của Trung Quốc đến năm 2008) thì xuất khẩu của Việt Nam mới tăng trưởng trở lại, nhưng cũng chỉ chiếm được 3,2% thị phần Dệt may Mỹ. Như vậy, khi Trung Quốc được bãi bỏ hoàn toàn hạn ngạch vào năm 2008, nếu doanh nghiệp Dệt may Việt Nam chuẩn bị không tốt thì không những xuất khẩu vào Mỹ khó tăng, mà khả năng quay trở lại mức tăng trưởng âm cũng dễ trở thành hiện thực.
Thời gian qua, có rất nhiều doanh nghiệp Dệt may tìm hướng phát triển các mặt hàng cao cấp. Đây là một hướng đi rất đúng đối với các doanh nghiệp hiện nay. Nếu Dệt may Việt Nam cạnh tranh với Ấn Độ, Bangladesh… mà vẫn sản xuất các mặt hàng cấp thấp và trung bình thì không thể cạnh tranh được. Và điều quan trọng là, các doanh nghiệp nên tranh thủ và vận dụng thời gian Trung Quốc đang bị áp hạn ngạch để cải tiến công nghệ, mẫu mã, nâng cao năng lực sản xuất và cạnh tranh.
Thực trạng về thương hiệu dệt may và việc áp dụng chiến lược Marketing tại các DN dệt may Việt Nam hiện nay
Thực trạng về thương hiệu
Các nhà quản lý, nghiên cứu đều cho rằng, vấn đề xây dựng thương hiệu của ngành Dệt may Việt Nam sẽ còn gặp phải khá nhiều khó khăn. Tỷ lệ 20 - 25% trong chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm mà chúng ta có được chủ yếu là nhờ gia công, phần tự xuất FOB rất nhỏ. Cũng cần kể đến một vấn đề là ngành Dệt may Việt Nam đang có xu hướng nhấn mạnh nhiều đến thương hiệu sản phẩm hơn là thương hiệu doanh nghiệp...
Nhìn chung, các doanh nghiệp may thường sử dụng một nhãn chung cho tất cả các sản phẩm trên tất cả các thị trường trong và ngoài nước. Trừ một số rất ít doanh nghiệp đã sử dụng chiến lược nhiều thương hiệu cho các sản phẩm của mình (ví dụ: công ty May 10, Việt Tiến… đưa ra nhiều thương hiệu cho các sản phẩm may mặc của mình, tạo sự phân định được chất lượng của từng loại sản phẩm may mặc). Con đường xây dựng và phát triển thương hiệu hiện tại chủ yếu là kế thừa lịch sử tên gọi công ty và thường dựa vào cách đơn giản hóa hoặc cách gọi tắt theo tiếng Anh để tạo biểu tượng cho công ty/sản phẩm.
Đối với thị trường xuất khẩu, chỉ có thương hiệu doanh nghiệp là đang có một số tác động nhất định đến khả năng cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp. Khoảng 30% số lượng doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may tại Việt Nam đã được nhiều nhà nhập khẩu biết đến tên doanh nghiệp với nhiều mức độ khác nhau thông qua quan hệ xuất nhập khẩu và đặt hàng thường xuyên, trong đó chỉ có một số rất ít doanh nghiệp Việt Nam được biết rộng rãi trong công đồng các nhà nhập khẩu lớn. Và bên cạnh đó, tên nhiều doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng chỉ được các nhà nhập khẩu biêt tên thông qua mối quan hệ với công ty mẹ của họ tại nước ngoài.
Đối với sản phẩm xuất khẩu, ngọai trừ một vài doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu dưới thương hiệu riêng của mình (như Công ty Scavi đang xuất khẩu sản phâm dưới tên CORENE SCAVI và MAILFIX SCAVI, Công ty May Phương Đông xuất khẩu sản phẩm dưới tên F HOUSE) còn lại hầu hết đều xuất khẩu sản phẩm dưới nhãn hiệu của nhà nhập khẩu nước ngòai. Có thể nói hoạt động quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam ra thị trường nước ngoài gần như chưa có. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do các doanh nghiệp Việt Nam không đủ năng lực tài chính để quảng bá thương hiệu sản phẩm ra nước ngoài, trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thi không quan tâm xây dựng thương hiệu ở Việt Nam mà chủ yếu là sử dụng thương hiệu của công ty mẹ tại nước ngoài.
Các chuyên gia nhận xét, tuy đã có bước tiến bộ trong việc phát triển thương hiệu trong những năm gần đây, nhưng tại thời điểm này khi Việt Nam đã gia nhập WTO, để có thể cạnh tranh được với sản phẩm của các đối thủ nặng ký như Trung Quốc, Ấn Độ...Trên thị trường quốc tế cũng như ngay tại thị trường nội địa các doanh nghiệp Việt Nam cần coi trọng việc xây dựng chiến lược phát triển thương hiệu.
Khảo sát cho thấy rất ít doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm tách rời với thương hiệu doanh nghiệp, ví dụ như:
Công ty Sơn Kim có 2 nhóm sản phẩm với thương hiệu riêng VERA và WOW,
Công ty May Phương Đông có 3 thương hiệu sản phẩm: F HOUSE, FUX và FUX MEN,
Công ty Dệt Việt Thắng có 2 thương hiệu sản phẩm: THREE CAMELS và VIỆT THẮNG,
Công ty May Sài Gòn 2 có thương hiệu SANDING...
Công ty May Sài Gòn 3 có thương hiệu KAP'S và EVENNA
Còn lại hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng tên công ty làm thương hiệu sản phẩm như: VIỆT TIẾN, THÀNH CÔNG, NHÀ BÈ, AN PHƯỚC, THÁI TUẤN, LEGAMEX, TRIUMP, SCAVI, ĐỨC GIANG, MAY 10, THẢNG LONG .v.v.
Các chiến lược Marketing đang được áp dụng hiện nay
Theo nhận định chung hiện nay, công tác xây dựng và thực hiện các chiến lược marketing của ngành dệt may Việt Nam hiện nay còn yếu và điều này lý giải vì sao dệt may Việt Nam chưa có chỗ đứng cao trên thị trường thế giới dù nằm trong top 5 nước xuất khẩu lớn trên thế giới. công tác quảng bá thương hiệu và mareting của dệt may Việt Nam còn yếu, chưa có tính chủ động và chủ yếu là các khách hàng nước ngoài tự tìm đến. mặt khác, các chiến lược marketing của các công ty dệt may chủ yếu là phản ứng bộc phát, thụ động trước đối thủ cạnh tranh và nhu cầu thay đổi nhanh chóng của khách hàng và chưa thực sự tạo dấu ấn đầy đủ và sâu sắc đủ để tạo nên một thương hiệu hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới.
Bên cạnh các yếu tố tác động của việc thay đổi môi trường vĩ mô và các hoạt động kinh doanh quốc tế, các hoạt động marketing của các DN vẫn còn rời rạc, thiếu tính hệ thống, sự chuyên nghiệp và sự tuân thủ các quy trình cũng như tạo sự khác biệt trong marketing quốc tế. các hoạt đọng này chỉ dừng lại ở việc tham gia các hội chợ thương mại, quảng bá tên tuổi thông qua các nhà trung gian mà không nhắm đến đối tượng khách hàng mục tiêu. Điều này gây nên sự thiệt thòi lớn cho DN trong quá trình xuất khẩu và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp và kiến nghị chiến lược marketing nhằm xây dựng thương hiệu dệt may việt nam trên thế giới.docx