Đề tài Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển KCN, KCX ở Việt Nam

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KCN, KCX 2

1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA KCN, KCX 2

1.1. Khu công nghiệp 2

1.2. Khu chế xuất: 3

2. PHÂN BIỆT KCN VỚI KCX 5

3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN CÁC KCN, KCX TRONG NỀN KINH TẾ. 6

4. NHỮNG ĐIỀU KIỆN VÀ CHÍNH SÁCH CẦN THIẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN KCN, KCX. 7

5. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN KCN, KCX. 8

5.1. Kinh nghiệm của Thái Lan. 8

5.2. Kinh nghiệm của Đài Loan. 9

PHẦN II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KCN, KCX Ở VIỆT NAM 10

1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KCN, KCX Ở VIỆT NAM 10

2. NHỮNG THÀNH QUẢ VÀ TỒN TẠI TRONG KCN, KCX Ở VIỆT NAM 12

2.1. Những thành quả: 12

2.2. Những tồn tại. 14

PHẦN III: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN

KCN, KCX Ở VIỆT NAM 18

1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÁC KCN, KCX Ở VIỆT NAM 18

2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ GIÚP PHÁT TRIỂN KCN, KCX

TRONG THỜI GIAN TỚI. 20

2.1. Tạo ra quy hoạch KCN, KCX hợp lý. 20

2.2. Phát huy dân chủ trong hoạt đông kinh tế. Tạo mối quan hệ hợp lý

giữa Nhà nước và KCN, KCX. 21

2.3. Cải thiện chính sách thuế, giảm thuế cho thuê đất. 21

2.4. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong KCN, KCX. 22

2.5. Xây dựng và hoàn thiện mô hình quản lý, thực hiện nguyên tắc một cửa tại chỗ. 23

2.6. Chủ động vận động đầu tư và tiếp thị vào KCN, KCX 23

2.7. Đồng bộ hoá hệ thống pháp luật, tạo môi trường thông thoáng cho

các nhà đầu tư khi đầu tư vào KCN, KCX. 24

KẾT LUẬN 25

TÀI LIỆU THAM KHẢO 26

 

doc27 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1236 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển KCN, KCX ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạt chất lượng cao, đồng đều, giá hợp lý phù hợp với điều kiện cạnh tranh trên thị trường quốc tế. - Các nhà đầu tư thường quan tâm hơn đến hình thức đầu tư trong KCN nhằm tận dung lợi thế về thị trường nội địa chính điều này đã tạo nên khó khăn khi xây dựng thành công KCX. 3. Sự cần thiết phải phát triển các KCN, KCX trong nền kinh tế. Từ khi xuất hiện hình thức KCN, KCX cho đến nay, thực tế đã cho chúng ta thấy chúng có vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế đặc biệt là đối với các nước đang phát triển đang thiếu vốn và kỹ thuật việc tập chung các doanh nghiệp sản xuất trong KCN, KCX đã tạo ra nguồn vốn lớn từ nước ngoài cũng như sự tập chung được nguồn vốn trong nước tạo điều kiện đưa kỹ thuật mới vào sản xuất, thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, xây dựng các ngành mũi nhọn, nâng cao vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. - Tăng cường xuất khẩu, thu được nhiều ngoại tệ, phân bố lại các khu vực sản xuất và sinh hoạt thực hiện đô thị hoá nông thôn, chuyển dời các cơ sở sản xuất từ thành phố ra ngoại thành, thực hiện độ thị hoá nông thôn, cải tạo môi trường sống cho dân cư đô thị, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động thành phố và nông thôn. - Việc phát triển KCN, KCX ngoài việc giải quyết khó khăn về vốn, việc làm còn giúp cho Chính phủ nước sở tại học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của quốc gia mình mở ra khả năng phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại hoá góp phần thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, hoà nhập nền kinh tế với khu vực và thế giới. - Việc tham gia trong các KCN, KCX, giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng cạnh tranh, khuyến trương nhãn hiệu hàng hoá của mình. Giúp cho nước chủ nhà xuất khẩu được vốn, chuyển giao được những công nghệ đã lỗi thời để kéo dài vòng đời sản phẩm. Do những vai trò hết sức to lớn của KCN, KCX đến tất cả các bên trong việc phát triển kinh tế nên từ khi ra đời KCN, KCX đã phát triển manh mẽ trong tất cả các quốc gia. Tại nhiều quốc gia việc phát triển thành công KCN, KCX đã góp phần to lớn làm thay đổi bộ mặt kinh tế của quốc gia mình theo chiều hướng tích cực. 4. Những điều kiện và chính sách cần thiết để phát triển KCN, KCX. Sản phẩm của KCN được tiêu dùng chủ yếu ở nước sở tại, sản phẩm của KCX thì chủ yếu là xuất khẩu nên những ngành nghề trong KCN, KCX phải đáp ứng được những nhu cầu trước mắt và lâu dài ở thị trường nội địa và thị trường mà doanh nghiệp hướng tới. Hàng hoá ở KCN, KCX có lợi thế về chi phí vận tải về thủ tục nhập khẩu, về thuế. Để phát triển KCN, KCX thì ngay từ khi dự kiến xây dựng phải xem xét tới những điều kiện sau đây: - Địa điểm phải thuận tiện, kết cấu cơ sở hạ tầng thuận lợi & đầy đủ cả bên trong và bên ngoài KCN, KCX (vận tải đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, sân bay, bến cảng, hệ thống kho tàng điện nước nhà ở,...). - Các thủ tục phải đơn giản, nhanh chóng, đủ hấp dẫn với các nhà đầu tư, quản lý và điều hành nhanh nhạy, ít đầu mối. - Có đủ các dịch vụ thuận tiện cho sản xuất kinh doanh và giá cả phải chăng (đặc biệt là giá cho thuê đất và cơ sở hạ tầng trong khu). - Cần lựa chọn để xác định hướng phát triển hợp lý trong sản xuất của từng khu tránh độc quyền và tránh những trùng lặp không cần thiết. - Đánh giá kỹ khả năng thu hút các doanh nghiệp và các nhà đầu tư. 5. Kinh nghiệm của một số nước trong việc phát triển KCN, KCX. KCN của thế giới được thành lập đầu tiên tại Anh vào năm 1896. Người ta sớm nhận ra ưu điểm của hình thức tổ chức này do đó số lượng KCN được xây dựng ngày càng tăng trên thế giới. Việt Nam là nước đi sau để thực hiện mục tiêu “đi tắt đón đầu” trong phát triển kinh tế đòi hỏi chúng ta phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để tiến hành phát triển KCN, KCX cho phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam. 5.1. Kinh nghiệm của Thái Lan. Vào năm 1960 Luật KCN được Nhà nước Thái Lan ban hành từ đó đến nay có hơn 40 KCN hoạt động. Nhà nước Thái Lan qui hoạch phát triển KCN dựa trên qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Những KCN được Nhà nước bảo trợ tuy bị lỗ nhưng vẫn hoạt động đảm bảo cho sự phát triển như KCN Bắc Thái Lan, có khoảng 11 KCN được xây dựng không nằm trong qui hoạch miễn là họ có thị trường. Diện tích KCN, mặt bằng KCN có thể được mở rộng hơn dự án đã được duyệt nếu có thoả thuận với người có đất mà mình được dùng. Về quản lý do Cục quản lý KCN Thái Lan và ngoài ra Cục còn có chức năng kinh doanh. Về chính sách đối với xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng, Nhà nước không ưu đãi cho vay vốn, tuy nhiên Nhà nước đứng ra bảo lãnh cho các công ty Nhà nước vay mà không phải thế chấp. Mọi ưu tiên đều dành hết cho các KCN trong nước. Mọi khách hàng muốn đầu tư vào KCN họ sẽ được tạo điều kiện cần thiết để biết về KCN, mạng lưới KCN. 5.2. Kinh nghiệm của Đài Loan. Đài Loan là một trong những quốc gia thành công trong việc phát triển KCN, KCX. Từ cuối những thập kỷ 50, Đài Loan đã nhận được vị thế kinh tế của mình là kinh tế hải đảo đất chật người đông, tài nguyên nghèo nàn kinh tế phụ thuộc rất lớn vào ngoại thương. Nhận thức được điều này, Đài Loan chỉ phát triển những ngành công nghiệp nhỏ sử dụng nhiều lao động. Các xí nghiệp vừa và nhỏ xuất hiện rất nhiều trong KCN, KCX và các doanh nghiệp này được sử dụng cơ sở hạ tầng thuận lợi cùng một số điều kiện ưu đãi khác. Hiện nay Đài Loan có 3 KCN, KCX. Trung ương quản lý 12 KCN có tầm quan trọng nhất nằm trong qui hoạch được chính quyền tự phê duyệt, các KCN còn lại được địa phương hoặc tư nhân quản lý. Các KCN ở Đài Loan phân bố khắp nước, hầu như huyện nào cũng có KCN, mỗi KCN là một hạt nhân để phát triển bền vững. Đây là những kinh nghiệm quí báu để cho Nhà nước Việt Nam đánh giá lại tiềm năng, năng lực định vị lại vị thế của mình để phát triển KCN, KCX một cách hợp lý nhất. Phần II Thực trạng phát triển KCN, KCX ở Việt Nam 1. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam Trong quá trình đổi mới hội nhập kinh tế cùng thế giới, Nhà nước Việt Nam đã sớm nhận biết được tầm quan trọng của KCN, KCX đối với sự phát triển kinh tế cũng như thu hút đầu tư nước ngoài. Vì vậy từ những năm 80 Nhà nước ta đã có chủ trương cho phép thành lập KCN, KCX. Mở đầu cho sự phát triển KCN, KCX ở Việt Nam là sự ra đời của KCN, KCX Tân Thuận tại TP. Hồ Chí Minh liên doanh với Đài Loan vào tháng 11/1990 có vốn đầu tư 89 triệu USD, vốn pháp định 30 triệu USD, diện tích 300ha. KCX Linh Trung liên doanh với Hồng Kông (cấp giấy phép năm 1992), vốn đầu tư 14 triệu USD, vốn pháp định 6 triệu USD, diện tích 60ha. Dẫn đầu trong thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay là KCX Biên Hoà 2 (900 triệu USD). Tính đến hết năm 1996 các dự án trong KCN đã thu hút gần 40 vạn lao động trực tiếp sản xuất khối lượng hàng hoá trị giá 730 triệu USD trong đó xuất khẩu 406 triệu USD, và có hơn 50 xí nghiệp KCX hoạt động xuất khẩu khối lượng hàng hoá trị giá 116 triệu USD, và có trên một vạn lao động làm việc. Tính đến tháng 9 năm 1999 cả nước có 66 KCN và 3 KCX. Cho đến nay số lượng KCN, KCX đã lần lượt được mở rộng khá nhanh chóng. Xu hướng ở nước ta là hình thành KCN. Từ năm 1991 đến tháng 9 năm 1999, tốc độ phát triển của các KCN, KCX tăng đặc biệt nhanh vào các năm 1996, 1997, 1998. Các KCN nằm hầu hết ở phía Nam với 40 khu, miền Bắc 13 khu, miền Trung 13 khu. Về loại hình KCN có 16 KCN thuộc loại KCN được thành lập trên cơ sở có một số doanh nghiệp công nghiệp đang hoạt động. 10 KCN phục vụ di dời từ nội đô lớn. 21 KCN có qui mô nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ, Duyên Hải Miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long phục vụ chế biến nông lâm thuỷ sản. 19 KCN mới, hiện đại trong đó có 13 KCN hợp tác với nước ngoài để phát triển cơ sở hạ tầng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Diện tích đất sử dụng của 66 KCN là trên 1 vạn ha (không kể KCN Dung Quất), bình quân 1 khu là 160ha. Có 1/3 số KCN là có diện tích 100ha. Về ngành nghề KCN gồm công nghiệp nhẹ, hoá chất, điện tử, chế biến thực phẩm, nông lâm thuỷ sản phục vụ sản xuất nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu. Công nghiệp nặng gắn với cảng nước sâu ở các vùng kinh tế trọng điểm (tam giác phát triển vùng phía Bắc, phía Nam và vùng Đà Nẵng). Dung Quất có thêm công nghiệp hoá chất. Bà Rịa Vũng Tàu có công nghiệp chế biến. Cơ cấu ngành nghề được gắn với lợi thế từng vùng tránh triệt tiêu lẫn nhau. Như vậy các KCN Việt Nam rất đa dạng về loại hình, diện tích đất, ngành nghề, đối tượng thu hút đầu tư, không gian và thời gian hoạt động. Quá trình hình thành và phát triển KCN đã hình thành mạng lưới KCN, phân bố rộng khắp trên các vùng của đất nước phù hợp với nhịp độ phát triển của các vùng trên đất nước. Bảng 1: Một số KCN, KCX tại Việt Nam đã được phê duyệt Tên KCN, KCX Địa điểm Năm cấp giấy phép Diện tích (ha) Vốn đầu tư (triệu USD) Chủ đầu tư xây dựng CSHT Số DA ĐTNN đã cấp giấy phép KCX Tân Thuận TP HCM 1991 300 89 Đài Loan 100 KCX Linh Trung TP HCM 1992 60 14 Trung Quốc 19 KCX An Đồn Đà Nẵng 1994 68 24 Malaysia 2 KCN Cần Thơ Cần Thơ 1994 300 14.2 Việt Nam 10 KCN Nomura Hải Phòng 1994 153 125 Singapore 6 KCN Anmata Đồng Nai 1994 100 46 Thái Lan 6 KCN A Tuy Hạ Đồng Nai 1995 448 28 Việt Nam 8 KCN Biên Hoà II Đồng Nai 1995 376 18 Việt Nam 90 KCN Sóng Thần Bình Dương 1995 180 25 Việt Nam 7 KCN Gò Dầu Đồng Nai 1995 210 18 Việt Nam 15 KCN VN-Singapore Bình Dương 1996 100 52 Singapore 11 KCN Loteco Đồng Nai 1996 100 41 Nhật Bản 6 KCN Sài Đồng B Hà Nội 1996 97 12 Việt Nam 11 KCN Hải Phòng 96 Hải Phòng 1997 150 75 Hồng Kông 12 Nguồn: Vụ KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2. Những thành quả và tồn tại trong KCN, KCX ở Việt Nam 2.1. Những thành quả: Hoạt động trong KCN, KCX đạt được kết quả tăng nhanh hơn so với nền kinh tế nói chung, ngành công nghiệp nói riêng. Bảng 2: Giá trị đạt được trong KCN, KCX Chỉ tiêu Năm Giá trị sản lượng Đóng góp xuất khẩu 1997 1.155 848 1998 1.871 1.300 1999 1.700 1.170 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Năm 1997 đạt giá trị sản lượng 1.155 triệu USD, chiếm 15% giá trị sản xuất công nghiệp. Đóng góp cho xuất khẩu 848 triệu USD, gần bằng 10% giá trị xuất khẩu của cả nước, 47% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 2 lần so với năm 1996. Năm 1998 cá KCN đạt giá trị sản lượng 1.871 triệu USD chiếm gần 20% giá trị sản xuất công nghiệp, đóng góp cho xuất khẩu 1.300 triệu USD bằng 14% giá trị xuất khẩu cả nước, 65% giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tăng 50% so với năm 1997. Trong 9 tháng đầu năm 1999 các KCN đạt giá trị sản lượng 1.700 triệu USD, chiếm 20% giá trị sản lượng công nghiệp cả nước trong đó xuất khẩu đạt 1.170 triệu USD chiếm 13% giá trị xuất khẩu của cả nước. Cả hai chỉ tiêu này tăng 30% so với cùng kỳ năm 1998. Trong các KCN đã thu hút 13,7 vạn lao động, tạo ra sức mua cho xã hội khoảng 1.000 tỉ đồng mỗi năm. Ngoài số lao động trực tiếp, các KCN, KCX đã tạo ra việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản phục vụ cho các KCN. Tay nghề công nhân, trình độ cán bộ quản lý được nâng lên. Mức lương và thu nhập của người dân cao hơn. Nhiều KCN trả lương cho công nhân với mức 1 triệu đồng/tháng. Công nhân làm việc trong KCN Bình Dương có mức lương trung bình là 680.000 đồng/tháng. KCN tác động đến phát triển các cơ sở cho nguyên liệu, dịch vụ cho nông nghiệp, nâng cao giá trị cho nông sản, mở rộng thị trường, hình thành các đô thị vệ tinh. Thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng và góp phần xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế gắn với văn minh tiến bộ và công bằng xã hội. Đầu tư nước ngoài góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển các KCN, KCX ngược lại KCN, KCX là những địa bàn thuận lợi cho việc phát triển, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong những năm gần đây số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh trong các KCN, KCX. Nhiều dự án đầu tư đi vào hoạt động ổn định góp phần tạo ra nhiều sản phẩm công nghiệp với số lượng lớn, chất lượng cao đủ sức cạnh tranh trênthị trường khu vực và xuất khẩu. Chính những yếu tố này tạo nên tốc độ ổn định về xuất khẩu của cả nước trong những năm gần đây. Nhất là năm 1999 tốc độ tăng trưởng 23% gấp 3 lần kế hoạch. Các doanh nghiệp KCN, doanh nghiệp KCX không những thúc đẩy nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao và tương đối ổn định mà còn tạo tiền đề và điều kiện để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH. 2.2. Những tồn tại. - Chưa thống nhất trong nhận thức và vận dụng phát triển KCN, KCX: Sau 9 năm hoạt động, vai trò của KCN, KCX là không thể phủ nhận. Nhưng trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn còn tồn tại nhận thức cho rằng KCN, KCX chỉ là “một túi đứng các doanh nghiệp công nghiệp” nên vẫn còn trường hợp thực thi chính sách, tổ chức quản lý KCN, KCX như các doanh nghiệp riêng rẽ. Nói cách khác trong tư duy vẫn chưa coi chúng như một thực thể kinh tế xã hội, từ đó xuất hiện những biểu hiện bàng quang đứng ngoài, thậm chí có tư tưởng phủ định vai trò của KCN, KCX cho rằng phát triển chúng trong thời gian qua là theo phong trào. Thay vì phải cùng hợp lực để phát huy vai trò hiệu quả của nó vì lợi ích của ngành của địa phương của nền kinh tế, có địa phương cho rằng KCN, KCX là của Trung ương và khoán trắng cho ban quản lý và công ty phát triển hạ tầng. - Luật pháp còn chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển: + Vẫn còn có sự khác biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Do vẫn còn duy trì sự bảo hộ doanh nghiệp trong nước (tuy sự bảo hộ đã ngày càng giảm theo đà phát triển kinh tế) nên đến nay vẫn chưa tạo được sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp, tạo sự cạnh tranh trong một môi trường pháp lý công bằng và minh bạch. - Công tác quy hoạch và phát triển KCN, KCX dựa trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh, chưa thực sự gắn quy hoạch ngành nghề với lãnh thổ dựa trên quy hoạch tổng thể. Danh mục các KCN mới nêu tên, địa điểm và diện tích đất, chưa có nội dung kinh tế - kỹ thuật nên khi xem xét không đủ thông tin, căn cứ để ra quyết định chính xác KCN nào làm trước, KCN nào cho phép triển khai sau. - Đối với các doanh nghiệp trong nước chưa có quy định khuyến khích nhiều cho các doanh nghiệp trong KCN nên các doanh nghiệp trong nước vẫn còn thực hiện đầu tư ngoài KCN, chưa mặn mà đầu tư vào KCN dẫn đến khó khăn khi thực hiện quy hoạch phát triển. - Chậm thực hiện chính sách đào tạo nguồn nhân lực nên việc cung cấp lao động cho các KCN, KCX còn tồn tại nghịch lý thừa lao động giản đơn nhưng thiếu lao động kỹ thuật nhất là các chuyên gia. Dẫn đến việc tiêu tốn ngoại tệ để thuê chuyên gia hoặc tư vấn nước ngoài. Trong số hơn 12 vạn lao động đang làm việc trong các KCN, KCX có không ít các lao động từ ngoại tỉnh trong khi đó tỉnh vẫn còn hàng vạn lao động chờ việc làm. Nguyên nhân chủ yếu là do lao động của địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc như chưa có tay nghề cao hoặc chưa có đủ điều kiện về trình độ học vấn để học nghề. - Việc đền bù trong giải phóng mặt bằng đang còn là vấn đề nổi cộm, làm chậm quá trình phát triển KCN, KCX gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng, trong thành lập doanh nghiệp. Công tác giải phóng mặt bằng nhanh cũng phải mất một năm, ở các tỉnh miền Bắc còn dài hơn. Thủ tục hành chính về đất còn rất phức tạp, qua nhiều cửa, kéo dài thời gian thực hiện. Chủ đầu tư thiếu vốn để đền bù. ở miền Nam để có đất của nông dân sau đó phải trả tiền thuê đất cho Nhà nước. Nếu không có sự chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương trong vận động, giải thích thuyết phục di dời để lấy đất làm KCN, KCX thì việc đền bù, giải phóng mặt bằng vẫn là khó khăn lớn nhất đối với công ty phát triển hạ tầng trong giai đoạn đầu phát triển KCN, KCX. - Vấn đề môi trường còn nhiều bất cập. Chúng ta chưa có một chiến lược chung về bảo vệ môi trường phù hợp với đối tượng là các KCN, KCX. Sự phối hợp giữa Bộ, ngành, Trung ương, các sở và ban quản lý chưa chặt chẽ. Tình trạng những dòng kênh hứng chịu những chất thải chưa qua xử lý cũng như nhiều cư dân đô thị vẫn tiếp tục hứng chịu khói bụi và tiếng ồn từ các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm. Kế hoạch di dời các cơ sở ô nhiễm còn chưa cụ thể. Trên chỉ đạo xuống dưới, dưới chưa có đủ cơ sở kỹ thuật để lập “bản đồ hiện trạng”. Sống chung với ô nhiễm là sự trả giá cho sự phát triển không đồng bộ. - Vấn đề tổ chức còn nhiều vướng mắc, ở Trung ương vẫn chưa thực hiện cơ chế một đầu mối giải quyết vấn đề liên quan đến KCN, KCX. Chính vì vậy vẫn tồn tại tình trạng đùn đẩy sợ trách nhiệm do vậy kéo dài thời gian xử lý hoặc rơi vào im lặng. Nhiều khi cần biết ý kiến của cơ quan chủ quản thì không biết đầu là cơ quan chủ quản. Các ban quản lý các tỉnh hoạt động còn lúng túng, thiếu kinh nghiệm quan hệ giữa một số ban quản lý cấp tỉnh với một số ban ngành còn vướng mắc. - Vấn đề giá các dịch vụ trong KCN, KCX còn chưa thực sự công bằng. Hiện nay tuy đã có chủ trương một giá nhưng việc thực hiện cơ chế một giá với các nhà đầu tư vẫn còn tình trạng ép giá đối với người nước ngoài. Giá thuê đất ở nước ta còn cao hơn các nước trong khu vực, điều đó làm giảm sự thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách thuế ở nước ta chưa đồng bộ, vẫn còn tình trạng chồng chéo và gian lận trong thương mại như: trốn thuế, hàng giả, hàng lậu,... - Vấn đề “một cửa tại chỗ” tuy đã có nêu ra nhưng việc thực thi chưa có hiệu quả, vẫn còn tình trạng thủ tục hành chính rườm rà, qua nhiều cửa, nhiều cấp phức tạp gây nhiều khó khăn phiền hà cho các nhà đầu tư. Như vậy sau 9 năm đi vào hoạt động, KCN, KCX đã trở thành một động lực kinh tế không thể thiếu được ở nước ta. Nhìn lại ta thấy được nhiều thành quả, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những vướng mắc. Điều đó buộc Nhà nước Việt Nam phải nhanh chóng phát huy những kết quả đạt được và khắc phục tồn tại để phát triển hơn nữa các KCN, KCX ở Việt Nam. Bảng 3: Một số KCN, KCX được ưu tiên phát triển Tên KCN, KCX Chỉ tiêu Đài Tư Deawo - Hanel Thăng Long Nội Bài Sài Đồng B Diện tích 40 197 128 100 97 Tổng vốn đầu tư (triệu USD) 12 152 53 30 12 Góp vốn % VN 0 40 42 30 100 NN 100 60 58 70 Đối tác nước ngoài Công ty phát triển HN - Đài Tư (Đài Loan) Deawo - Hàn Quốc Sumitomo - Nhật Bản Vista Spectium - Malaysia Diện tích đất cho thuê (ha) 0 0 0 6.5 25.4 Giá thuê đất áp dụng cho nhà đầu tư KCN (USD m2/năm) 0.2 0.18 0.18 0.18 0.27 Nguồn: Vụ KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư phần III Giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển KCN, KCX ở Việt Nam 1. Phương hướng phát triển các KCN, KCX ở Việt Nam Chúng ta phải khẳng định lại chủ trương phát triển KCN, KCX ở nước ta là đúng đắn và cần thiết. Phát triển KCN, KCX không còn là việc riêng của từng ngành mà là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Trong Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VII đã đề ra phương hướng cho phát triển KCN, KCX là “cải tạo các KCN, KCX hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất, xây dựng KCN, KCX phân bố rộng trên các vùng”. Từ sự chỉ đạo của văn kiện Đại hội Đảng VII chúng ta xác định phát triển KCN, KCX theo các hướng sau: - Xây dựng KCN, KCX trở thành lực lượng công nghiệp mạnh, có hiệu quả và sức cạnh tranh, phát triển theo hướng ngoại, nâng cao tay nghề công nhân, nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. Thực hiện bảo vệ môi trường, phát huy hơn nữa vai trò lan toả, dẫn dắt của KCN, KCX đối với sản xuất, kinh doanh thị trường trong nước. - Từ nay đến 2020 phấn đấu đưa KCN khoảng một nửa tổng giá trị sản lượng công nghiệp cả nước đảm bảo tốc độ bình quân hàng năm từ 15% đến 18%. - Chuyển dần tư công nghiệp gia công sang công nghiệp chế tạo nhằm nâng cao giá trị hàm lượng quốc gia của sản phẩm. Hạn chế thua thiệt như hội nhập thị trường quốc tế và thị trường khu vực. Đến năm 2010, tạo điều kiện cho các địa phương có kế hoạch từng bước phát triển KCN, KCX, có tính đến khả năng của nền kinh tế. Theo đó cố gắng trong tất cả 61 tỉnh thành trong cả nước sẽ có KCN, KCX. Phát triển KCN, KCX theo chiều sâu và nâng cao chất lượng hiệu quả của nó theo hướng: lấp đầy diện tích đất công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu bên trong thông qua chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm cuối cùng, phát triển công nghệ cao thuộc các lĩnh vực thông tin, cơ điện, điện tử, vật liệu mới và công nghệ sinh học. Các doanh nghiệp công nghiệp thành lập hoặc di dời theo hướng: từ những dự án đòi hỏi gần nguồn nguyên liệu, cần diện tích đất lớn vài trăm hecta, các dự án theo chiều sâu không thuộc diện di dời và phù hợp với quy hoạch, còn lại kiên quyết hướng các nhà đầu tư vào KCN, KCX. Cải tạo các làng nghề truyền thống và cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp hiện có về kết cấu hạ tầng và công nghệ sản xuất. Hình thành các KCN nhỏ tại các vùng nông thôn. Các KCN, KCX đã thành lập phải cố gắng lấp đầy khoảng trống thông qua những biện pháp chính sách hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Theo hướng như vậy, Nhà nước ta dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển KCN, KCX ở Việt Nam thời gian tới là: Bảng 4: Biểu nhu cầu vốn đầu tư phát triển KCN, KCX Việt Nam năm 2000 - 2010 TT Chỉ tiêu Đơn vị 2000 2010 2010/2000 1 Số KCN, KCX khu 80 100 1,25 2 Tổng diện tích ha 26.000 31.000 1,19 3 Vốn phát triển hạ tầng: triệu USD 3.600 5.100 1,42 - FDI 1.620 500 - Vốn trong nước 1.980 2.6000 4 Tỉ trọng FDI/Tổng vốn % 45 49 5 Vốn đầu tư cho sơ sở hạ tầng bình quân 1 km triệu USD 48 51 Nguồn: Vụ KCN, KCX - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Dự báo đến 2010 cả nước định hình khoảng trên dưới 100 KCN, KCX, đây là con số rất lớn đòi hỏi sự nỗ lực cố gắng của tất cả các ngành các cấp. Tuy nhiên cùng với việc tăng về số lượng các KCN, KCX, chúng ta cũng gia tăng về chất lượng các KCN, KCX đáp ứng được sự đòi hỏi của nền kinh tế với vai trò của KCN, KCX. 2. Một số giải pháp và kiến nghị giúp phát triển KCN, KCX trong thời gian tới. 2.1. Tạo ra quy hoạch KCN, KCX hợp lý. Phát triển KCN, KCX một cách có quy hoạch có định hướng là vấn đề bức xúc mang tính cấp thiết. Việc phát triển có quy hoạch không những tạo điều kiện sử dụng tiết kiệm có hiệu quả vốn mà còn tạo ra lòng tin trong các nhà đầu tư để họ yên tâm tiếp tục rót vốn đầu tư trong KCN, KCX. Muốn vậy, công tác quy hoạch trước hết căn cứ vào điều kiện, tiềm năng, đặc điểm tự nhiên, khí hậu phong tục tập quán,... của từng vùng từng địa phương các KCN, KCX trước đây, quy hoạch chưa hợp lý, hoạt động không hiệu quả không khai thác được tiềm năng của vùng của địa phương cần được xử lý một cách dứt điểm. Mỗi tỉnh, thành phố nên nghiên cứu thế mạnh lớn nhất của mình để thành lập KCN, KCX xem đây là thế mạnh là trung tâm để phát triển vùng, địa phương đó. Do điều kiện, đặc điểm của đất nước ta còn nghèo, trình độ phát triển chưa cao nên ưu tiên phát triển các KCN, KCX vừa và nhỏ. Song cũng cần thành lập các KCN, KCX lớn có tầm cỡ quốc tế để tham gia tốt tiến trình hội nhập. Việc thành lập các KCN, KCX tại các tỉnh thành phố phải được tính toán hợp lý tránh tình trạng đua nhau thành lập, dẫn đến các KCN, KCX mọc lên tràn lan không có chất lượng. Tính đến tháng 9 năm 1999 tại Việt Nam có khoảng 66 KCN, với số lượng như vậy chúng ta cần chú ý đầu tư vào việc lấp đầy các khoảng trống trong KCN này sao cho có hiệu quả. Hiện nay nông nghiệp vẫn được chú trọng phát triển. Vì vậy các KCN thành lập cần có các đề án để sử dụng hợp lý các sản phẩm nông nghiệp tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Cần tăng cường công tác kiểm tra ngăn chặn việc buôn lậu ở KCX tạo sự yên tâm cho các nhà đầu tư trong KCX để Nhà nước vừa thu được lợi ích của việc phát triển KCX vừa ngăn chặn được tình trạng mất ổn định do việc buôn lậu trong các KCX tạo ra. 2.2. Phát huy dân chủ trong hoạt đông kinh tế. Tạo mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX. Vấn đề tạo mối quan hệ hợp lý giữa Nhà nước và KCN, KCX là vấn đề phức tạp. Nhà nước với vai trò quản lý vĩ mô của mình nền quản lý và kiểm soát các KCN, KCX ở tầm vĩ mô thông qua các định hướng phát triển. Còn các chính sách cụ thể thì nên để cho các KCN, KCX tự linh hoạt, xử lý. Hay nói cách khác Nhà nước nên giao quyền tự quyết, tự quản cho các KCN, KCX miễn là kết quả không trái với định hướng, với mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Nhà nước nên tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư được giao dịch một cách trực tiếp với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước để được tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc. Cần phát huy dân chủ trong hoạt động kinh tế, khi xây dựng các thể chế kinh tế Nhà nước cần lấy ý kiến của các đối tượng thi hành, đặc biệt là các doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Bảo đảm cho mọi quy định được phù hợp với thực tế kết hợp hài hoà lợi ích doanh nghiệp với lợi ích của Nhà nước. Trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Nhà nước cần tạo ra sự công bằng vô tư cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần phải có một cơ chế thành lập ban chủ quản để giải quyết các vấn đề liên quan đến KCN, KCX. Đồng thời Nhà nước cần có biện pháp yêu cầu doanh nghiệp tuân thủ pháp luật, hợp lực với Nhà nước xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, đấu tranh chống các hành vi gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0194.doc