MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích nghiên cứu đề tài 1
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 2
4. Bố cục của niên luận 2
PHẦN NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TRANH CHẤP KINH DOANH - THƯƠNG MẠI, TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH - THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI 3
1.1. Khái quát về tranh chấp kinh doanh thương mại 3
1.1.1. Khái niệm về tranh chấp kinh doanh thương mại 3
1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp kinh doanh thương mại 4
1.1.3. Yêu cầu về giải quyết tranh chấp trong thương mại 4
1.1.4. Các hình thức giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại 5
1.2. Khái quát về trọng tài thương mại 6
1.2.1. Khái niệm về trọng tài thương mại 7
1.2.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại 7
1.2.3. Một sô ưu điểm và hạn chế của trọng tài thương mại 8
1.2.4. Các hình thức tổ chức trọng tài 9
1.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành 10
1.3.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh - thương mại bằng trọng tài 10
1.3.2. Thẩm quyền của trọng tài thương mại 11
1.3.3. Trình tự giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài 13
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ GIẢI QUYẾT 17
2.1. Tình hình kinh tế xã hội ở Việt Nam 17
2.2. Một số bất cập của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài 18
2.3. Một số đề xuất, kiến nghị 24
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11962 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c bên tranh chấp; quyết định trọng tài được thi hành ngay, đáp ứng yêu cầu khôi phục nhanh những tổn thất về hàng hóa, tiền bạc của các nhà kinh doanh. Ngoài ra, trọng tài còn có rất nhiều ưu điểm khác như: tính chuyên môn cao; thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản... đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp nhanh chóng của các đương sự.
Thứ hai, trọng tài có những ưu điểm vượt trội mà thương lượng, hòa giải không có, như: Trọng tài luôn có hẳn một khung pháp luật điều chỉnh, trong đó Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 được coi là trung tâm, và trong thời gian tới sẽ có thêm LTTTM 2010 điều chỉnh; trọng tài lại được sự đảm bảo, hỗ trợ về mặt pháp lý của tòa án, trong khi đó hoạt động thương lượng, hòa giải ở nước ta hiện nay hoàn toàn mang tính tự phát, theo truyền thống...
Mặc dù có những ưu điểm vượt trội so với các phương thức giải quyết tranh chấp khác nhưng phương thức trọng tài vẫn tồn tại một số hạn chế nhất định, đó là:
So với tòa án, quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị nên các bên khó có cơ hội phát hiện và khắc phục những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp như ở tòa án; do việc giải quyết tại trọng tài đã có sự xuất hiện của bên thứ ba nên việc giữ bí mật của vụ tranh chấp không thể bằng thương lượng; chi phí để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là khá cao, điều này cũng là một hạn chế lớn vì không phải chủ thể nào cũng có thể đáp ứng được...
Tóm lại, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tuy có một số hạn chế, song với những ưu điểm nổi trội của nó, có thể khẳng định đây là phương thức giải quyết đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu quả rất phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay, đáp ứng nhanh chóng, kịp thời nhu cầu giải quyết tranh chấp của các doanh nghiệp.
1.2.4. Các hình thức tổ chức trọng tài
1.2.4.1. Trọng tài vụ việc (trọng tài ad - hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên thỏa thuận thành lập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Trọng tài sẽ chấm dứt hoạt động khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp; trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng; trọng tài vụ việc không có Quy tắc tố tụng riêng, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp nên Quy tắc tố tụng để giải quyết tranh chấp được các bên thỏa thuận xây dựng.
1.2.4.2. Trọng tài thương trực
Trọng tài thường trực là hình thức trọng tài do các trọng tài viên lập ra để giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.
Tóm lại, trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực là hai hình thức trọng tài được sử dụng phổ biến trên thế giới. Mỗi hình thức đều có những ưu điểm và hạn chế riêng bắt nguồn từ chính bản chất của nó. Tùy từng vụ việc cụ thể, các bên tranh chấp sẽ quyết định hình thức trọng tài nào là phù hợp hơn để giải quyết tranh chấp cho mình.
1.3. Giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành
1.3.1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Theo quy định tại Điều 4 LTTTM 2010 ( hiệu lực từ 01/01/2011) có 5 nguyên tắc giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài, cụ thể:
Thứ nhất, trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Thứ hai, trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định của pháp luật.
Thứ ba, Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Thứ tư, giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Thứ năm, phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Tất cả những nguyên tắc giải quyết tranh chấp mà LTTTM 2010 đặt ra đều nhằm mục đích giúp các bên tranh chấp có thể giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả đảm bảo tốt nhất nhu cầu về một cơ chế giải quyết tối ưu cho các doanh nghiệp.
1.3.2. Thẩm quyền của trọng tài thương mại
Về nguyên tắc, tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, không phải mọi tranh chấp có thỏa thuận trọng tài đều thuộc thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài. Trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại. Nghĩa là, một tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền của trọng tài thương mại khi có đủ hai điều kiện:
1.3.2.1. Giữa các bên tranh chấp phải có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài có hiệu lực
Khoản 1 Điều 16 LTTTM 2003 quy định: " Thỏa thuận trọng tài có thể được xác lập dưới hình thức điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thỏa thuận riêng ".
Khoản 2 Điều 16 của Luật này cũng có quy định: "Thoả thuận trọng tài phải được xác lập dưới dạng văn bản ". Ngoài ra, một số hình thức thỏa thuận khác cũng được coi là xác lập dưới dạng văn bản như: telegram, fax, telex, thư điện tử; thỏa thuận thông qua trao đổi thông tin bằng văn bản giữa các bên; thỏa thuận được luật sư, công chứng viên ghi chép lại bằng văn bản theo yêu cầu, các văn bản thể hiện thỏa thuận trọng tài như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty...; và một số hình thức thỏa thuận khác mà pháp luật cho phép.
1.3.2.2. Tranh chấp được gửi đến trọng tài thương mại phải là tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại
Các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được quy định tại khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh trọng tài thương mại, cụ thể: "Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hanh vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại, ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật".
1.3.3. Trình tự giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
1.3.3.1. Nộp đơn và thụ lý đơn
Khoản 1 Điều 30 LTTTM 2010 có quy định: "trường hợp giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện gửi đến Trung tâm trọng tài. Trường hợp vụ tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nguyên đơn phải làm đơn khởi kiện và gửi cho bị đơn".
Đơn kiện phải chứa đựng các nội dung chủ yếu theo quy định tại khoản 2 Điều 30 của Luật này.
Nguyên đơn có thể sửa đổi, bổ sung, rút đơn kiện trước khi Hội đồng xét xử ra quyết định trọng tài. "Nếu các bên không có thoả thuận khác hoặc quy tắc tố tụng của Trung tâm trọng tài không có quy định khác, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, các tài liệu kèm theo và chứng từ nộp tạm ứng phí trọng tài, Trung tâm trọng tài phải gửi cho bị đơn bản sao đơn khởi kiện của nguyên đơn và những tài liệu theo quy định tại khoản 3 Điều 30 của Luật này" (Điều 32 LTTTM 2010).
Về nguyên tắc, tố tụng trọng tài chỉ bắt đầu khi có đơn kiện của nguyên đơn và đơn phải được gửi khi vụ tranh chấp còn thời hiệu khởi kiện. Điều 31 LTTTM 2010 quy định: "Trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài, nếu các bên không có thỏa thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi Trung tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn" và "Trường hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc, nếu các bên không có thoả thuận khác, thì thời điểm bắt đầu tố tụng trọng tài được tính từ khi bị đơn nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn". Điều 33 Luật này quy định về thời hiệu khởi kiện như sau: "Trừ trường hợp luật chuyên ngành có quy định khác, thời hiệu khởi kiện theo thủ tục trọng tài là 02 năm, kể từ thời điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm".
1.3.3.2. Thành lập và hoạt động của Hội đồng trọng tài
Việc thành lập Hội đồng trọng tài dựa trên nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của các bên tham gia trọng tài. Về cách thức thành lập Hội đồng trọng tài được quy định khá cụ thể tại Điều 39 LTTTM 2010. Theo đó, " thành phần Hội đồng trọng tài có thể bao gồm một hoặc nhiều Trọng tài viên theo sự thỏa thuận của các bên. Trường hợp các bên không có thỏa thuận về số lượng Trọng tài viên thì Hội đồng trọng tài bao gồm ba trọng tài viên". Điều 40, Điều 41 LTTTM 2010 cũng quy định khá cụ thể về cách thức thành lập Hội đồng trọng tài tại trung tâm trọng tài và Hội đồng trọng tài vụ việc. Nếu theo quy định tại ®iều 40, việc thành lập Hội đồng trọng tài tại trung tâm trọng tài có thể có sự giúp đỡ của Chủ tịch trung tâm trọng tài thì theo quy định tại ®iều 41, việc thành lập Hội đồng trọng tài vụ việc do các bên thành lập có thể có sự giúp đỡ của tòa án trong việc giúp các bên chọn, chỉ định trọng tài viên.
Sau khi đã chọn trọng tài viên, các bên mới phát hiện ra trọng tài viên do mình chọn thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 ®iều 42 thì có quyền yêu cầu trọng tài viên này từ chối vụ tranh chấp. Việc thay đổi trọng tài viên được tiến hành theo thủ tục quy định tại các khoản 2,3,4,5,6,7 Điều 42 của Luật này.
Sau khi thành lập, Hội đồng trọng tài nghiên cứu hồ sơ, thực hiện những hoạt động cụ thể để xác minh sự việc nếu thấy cần thiết, thu thập chứng cứ (Điều 30 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003; LTTTM 2010 không quy định).
Trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên có khiếu nại để xem xét thỏa thuận trọng tài, thẩm quyền của Hội đồng trọng tài (Điều 43 LTTTM 2010). Các bên có thể hòa giải hoặc yêu cầu Hội đồng trọng tài hòa giải, có quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định tại các Điều 48, 49, 50, 51, 52, 53 LTTTM 2010. Bị đơn có quyền kiện lại nguyên đơn về những vấn đề có liên quan đến vụ tranh chấp (Điều 36 LTTTM 2010)
1.3.3.4. Phiên họp giải quyết tranh chấp và phán quyết trọng tài
Điều 55 Luật này quy định: "Phiên họp giải quyết tranh chấp được tiến hành không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Các bên có thể trực tiếp hoặc uỷ quyền cho người đại diện tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp; có quyền mời người làm chứng, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội đồng trọng tài có thể cho phép những người khác tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp". Về trường hợp vắng mặt của các bên được quy định cụ thể tại điều 56 của Luật này.
Kết thúc quá trình giải quyết tranh chấp, Hội đồng trọng tài phải đưa ra được phán quyết trọng tài. Phán quyết trọng tài phải được đưa ra trên cơ sở xem xét, cân nhắc các chứng cứ, tài liệu của vụ việc và phải tuân thủ quy định tại Điều 60: “Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài bằng cách biểu quyết theo nguyên tắc đa số. Trường hợp biểu quyết không đạt được đa số thì phán quyết trọng tài được lập theo ý kiến của Chủ tịch Hội đồng trọng tài". "Phán quyết trọng tài được ban hành ngay tại phiên họp hoặc chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp cuối cùng". "Phán quyết trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ ngày ban hành".
Bên không đồng ý với phán quyết trọng tài có quyền làm đơn gửi đến Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài, để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài (Điều 69).
1.3.3.5. Thi hành phán quyết trọng tài
Phán quyết của trọng tài được thi hành theo quy định của pháp luật về thi hành án dân sự. Trường hợp hết thời hạn thi hành mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài thì bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài; còn đối với phán quyết của trọng tài vụ việc, bên được thi hành có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài sau khi phán quyết được đăng ký theo quy định tại Điều 62 của Luật này.
Tóm lại, thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá đơn giản, theo một trình tự được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản pháp luật và các quy định này được các trung tâm trọng tài cụ thể hóa vào Quy tắc tố tụng của trung tâm mình, đảm bảo cho các bên tranh chấp có thể tìm hiểu một cách dễ dàng hơn. Mặc dù còn một số bất cập cần sửa đổi phù hợp hơn với thực tiễn nước ta, song không thể phủ nhận rằng so với tòa án - cơ quan tài phán công, thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản, thuận tiện hơn nhiều.
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI VÀ ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ GIẢI QUYẾT
2.1. Tình hình kinh tế, xã hội ở Việt Nam
Năm 2010 là năm cuối thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010. Thực hiện thắng lợi kế hoạch năm 2010 không chỉ có ý nghĩa góp phần hoàn thành các mục tiêu và nhiệm vụ của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 mà còn tạo điều kiện thuận lợi để tiếp tục duy trì ổn định kinh tế, chính trị, xã hội và các tiền đề cho phát triển đất nước trong giai đoạn tới. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, cả nước đang ra sức nỗ lực, quyết tâm hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội năm 2010.
Sáu tháng đầu năm, kinh tế-xã hội nước ta tuy vẫn đang trên đà phục hồi nhanh và phát triển theo hướng tích cực với mức tăng trưởng khá ở hầu hết các ngành, lĩnh vực, nhưng còn gặp một số khó khăn: Kinh tế thế giới nhìn chung đang thoát ra khỏi khủng hoảng nhưng chưa thực sự có những chuyển biến mạnh mẽ và vững chắc, một số quốc gia có dấu hiệu bất ổn về kinh tế tài chính. Ở trong nước, một số cân đối kinh tế vĩ mô có biểu hiện chưa ổn định, cùng với hạn hán kéo dài và dịch bệnh xảy ra trên cây trồng, vật nuôi gây ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống dân cư.
Trong bối cảnh đó, từ đầu năm Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành kịp thời nhiều Chỉ thị, Nghị quyết quan trọng và tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương phối hợp chặt chẽ triển khai thực hiện đồng bộ và hiệu quả, trong đó trọng tâm là Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 15 tháng 01 năm 2010 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 với 6 nhiệm vụ và 8 nhóm giải pháp chủ yếu; Nghị quyết số 18/NQ-CP ngày 06 tháng 4 năm 2010 của Chính phủ về những giải pháp bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, không để lạm phát cao và đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế khoảng 6,5% trong năm 2010 với 6 giải pháp. Nhờ đó, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, lĩnh vực trong 6 tháng đầu năm đạt kết quả tích cực, tạo đà cho việc thực hiện thành công các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội cả năm 2010; cùng với đó là an sinh xã hội được đảm bảo; giáo dục, văn hóa, y tế được chú trọng phát triển...
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển đa dạng và hội nhập với nền kinh tế thế giới thì các tranh chấp liên quan đến kinh tế đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh - thương mại trong và ngoài nước cũng ngày càng trở nên phức tạp hơn. Tuy nhiên, nhờ sự ra đời và hoạt động của Trọng tài thương mại cùng với hệ thống Tòa án (Tòa kinh tế) đã giải quyết hiệu quả các tranh chấp trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tranh chấp kinh doanh - thương mại nói riêng.
2.2. Một số bất cập của pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài
Trọng tài thương mại Việt Nam đã được hình thành và phát triên với tính chất phi chính phủ. Chính sách mở cửa của Nhà nước cho thấy rằng Nhà nước đã sẵn sàng thừa nhận các nguyên tắc chung của Trọng tài thương mại quốc tế - các quy định về trọng tài đã phát triển theo xu hướng phù hợp với những nguyên tắc chung của Luật trọng tài quốc tế. Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở Việt Nam với hơn tám mươi triệu dân cả nước mới chỉ có bảy trung tâm trọng tài là: Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), trung tâm trọng tài quốc tế Thái Bình Dương (PIAC), trung tâm trọng tài quốc tế Á Châu, trung tâm trọng tài thương mại Hà Nội, trung tâm trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm trọng tài thương mại Cần Thơ, trung tâm trọng tài thương mại Viễn Đông; trong đó, hoạt động sôi nổi nhất phải kể đến trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam với khoảng 140 trọng tài viên và số vụ mà Trung tâm đã thụ lý giải quyết như sau:
Năm
Số vụ
2000
23
2001
16
2002
19
2003
16
2004
32
2005
22
2006
23
2007
30
2008
48
Có thể nói, từ khi ra đời, các trung tâm trọng tài Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể cho nền tài phán tư ở Việt Nam. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế của nước ta hiện nay, trọng tài vẫn chưa thực sự phát huy hết vai trò của mình. Nếu như trung bình mỗi năm, Tòa Kinh tế giải quyết đến hàng nghìn hồ sơ thì có trung tâm trọng tài cả năm không thụ lý được hồ sơ nào, và ngay cả Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Nếu như bình quân mỗi năm, Tòa Kinh tế của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh phải giải quyết đến hàng trăm, hàng nghìn vụ án kinh tế, trong khi đó, mỗi năm VIAC cũng chỉ thụ lý giải quyết được khoảng 40-60 vụ; mỗi năm, các thẩm phán của các Tòa án này phải xử lý hàng chục vụ thì mỗi trọng tài viên của trung tâm chỉ phải xử lý bình quân 0,3-0,4 vụ/ người/ năm. Qua đó cho ta thấy được những con số chênh lệch rất lớn giữa hai cơ quan này.
Hơn sáu năm áp dụng Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 để giải quyết đã cho thấy bộc lộ được rất nhiều bất cập và hạn chế:
Thứ nhất, về vấn đề thỏa thuận trọng tài: Pháp luật trọng tài thương mại quy định khá cụ thể về hình thức của một thỏa thuận trọng tài nhưng lại không có bất kỳ điều khoản nào quy định về nội dung của thỏa thuận trọng tài. Nội dung thỏa thuận trọng tài là một yếu tố quan trọng để xác định một tranh chấp có thuộc thẩm quyền của trọng tài hay không. Việc thỏa thuận trọng tài có hiệu lực không và có thực hiện được trên thực tế hay không có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên tranh chấp. Trên thực tế có rất nhiều trường hợp thỏa thuận trọng tài bị “khuyết tật” ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền của trọng tài thương mại Việt Nam, có thể dẫn đến việc giải quyết tranh chấp kéo dài mà gánh chịu những thiệt hại ®ã không ai khác chính là các chủ thể tranh chấp.
Thứ hai, về việc hòa giải trong tố tụng trọng tài:
Khác với tố tụng tòa án - hòa giải là nguyên tắc bắt buộc, trong tố tụng trọng tài các bên tranh chấp có quyền quyết định mình có hòa giải hay không. Song thực tiễn cho thấy việc hòa giải đóng vai trò rất quan trọng trong giải quyết tranh chấp và khi các bên hòa giải thành sẽ không có người thắng kẻ thua nên sẽ không xảy ra tình trạng đối đầu giữa các bên và vẫn duy trì được quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên đồng thời hòa giải xuất phát từ sự tự nguyện của các bên nên khi đạt được phương án hòa giải, các bên thường nghiêm túc thực hiện. Nguyên tắc hòa giải là bắt buộc của tòa án có vẻ cứng nhắc nhưng thực tế nhờ nguyên tắc này mà không ít các vụ tranh chấp đã được giải quyết một cách hòa bình mà không phải trải qua một thủ tục tố tụng nào. Mặc dù vai trò của hòa giải là vô cùng quan trọng, song Pháp lệnh trọng tài thương mại chỉ dành một điều duy nhất quy định về nguyên tắc này (Điều 37) .
Thứ ba, về vấn đề áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tại Điều 33 Pháp lệnh trọng tài thương mại quy định: "Trong quá trình Hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án cấp tỉnh nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời". Quy định trên một mặt đã làm hạn chế đi tính độc lập của Trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp, mặt khác cho thấy được sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động cũng như công tác Trọng tài.
Thứ tư, về vấn đề thời hiệu khởi kiện: Tại khoản 2 Điều 30 của Pháp lệnh này có quy định: " Trong trường hợp Tòa án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, vụ tranh chấp không có thỏa thuận trọng tài hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì Hội đồng trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Nếu không có thỏa thuận khác, các bên có quyền khởi kiện vụ tranh chấp ra Tòa án. Thời hiệu khởi kiện ra Tòa án theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này, nhưng không tính thời gian từ ngày nguyên đơn khởi kiện tại trọng tài viên đến ngày Tòa án ra quyết định quy định tại Điều này". Theo quy định này, Tòa án sau khi xác định trọng tài không có thẩm quyền giải quyết có thể thụ lý đơn khởi kiện. Nhưng tại sao tòa án lại áp dụng thời hiệu theo quy định tại ®iều 21 của Pháp lệnh này mà không áp dụng thời hiệu của Bộ luật tố tụng dân sự ? Đó cũng là một trong những bất cập khi giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài.
Thứ năm, thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài quá hẹp. Theo đó, chỉ có "những tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại" mới thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Với phạm vi giải quyết như vậy thì số vụ tranh chấp mà các trung tâm trọng tài thụ lý sẽ rất ít, trong khi đó tại các Tòa kinh tế sẽ xảy ra tình trạng quá tải trong việc giải quyết.
Thứ sáu, quy định về điều kiện trở thành trọng tài viên: Một người muốn trở thành trọng tài viên không chỉ phải đáp ứng điều khoản pháp lý nhất định mà còn cần có sự tín nhiệm của các bên tranh chấp. Do đó, pháp luật của hầu hết các nước chỉ lấy tiêu chí trung thực, khách quan, vô tư làm cơ sở cho đội ngũ trọng tài viên. Việc có một trình độ văn hóa hay trình độ pháp lý nhất định đôi khi chưa hẳn đồng nghĩa với việc sẽ có hiểu biết rộng về các vấn đề phát sinh trong kinh doanh, thương mại và có cách giải quyết hợp lý theo yêu cầu của các doanh nhân hay không. Với những quy định tại điều 12 Pháp lệnh trọng tài về điều kiện trở thành trọng tài viên như phải có quốc tịch Việt Nam; phải có bằng đại học... đã tạo ra sự cách biệt giữa đội ngũ trọng tài viên Việt Nam với các trung tâm trọng tài khu vực và các nước.
Bên cạnh đó, việc trọng tài viên mang quốc tịch nước nào không ảnh hưởng đến phán quyết của trọng tài vì phán quyết của trọng tài không mang yếu tố chính trị mà chỉ đứng trên phương diện của sự công bằng, bình đẳng giữa các bên tranh chấp. Một điều mâu thuẫn trong quy định của Pháp lệnh trọng tài đó là: một mặt, thừa nhận các bên tranh chấp được quyền lựa chọn cả trọng tài viên trong nước và nước ngoài để giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế, nhưng mặt khác, không cho trọng tài viên nước ngoài trở thành trọng tài viên của các trung tâm trọng tài thương mại Việt Nam.
Ngày 17/06/2010, dự thảo Luật trọng tài thương mại 2010 đã được Quốc hội khóa VII thông qua tại kỳ họp thứ 7. Nội dung của dự thảo luật trọng tài thương mại nhìn chung đã khắc phục được phần lớn những mặt bất cập, hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Cụ thể như sau:
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài: Dự thảo luật đã mở rộng thẩm quyền hơn so với Pháp lệnh trọng tài 2003. Trước đây, Pháp lệnh trọng tài chỉ quy định những vụ tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại mới thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài. Khi dự thảo luật trọng tài được thông qua thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài đã được mở rộng hơn rất nhiều. Cụ thể, tại Điều 2 của dự thảo luật này quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài như sau: " Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động thương mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết bằng trọng tài''. Quy định trên sẽ làm tăng số vụ tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài, đồng thời làm giảm tình trạng quá tải cho Tòa án.
Về vấn đề áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Dự thảo đã nâng vị thế của trọng tài một cách đáng kể thông qua việc cho phép Hội đồng trọng tài được ra quyết định áp dụng một số biện pháo khẩn cấp tạm thời. Điều này sẽ giúp cho tố tụng trọng tài vận hành có hiệu quả hơn, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp. Mô hình trao thẩm quyền cho Hội đồng trọng tài được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đang rất phổ biến trong trọng tài thương mại quốc tế.
Về tiêu chuẩn của các trọng tài viên: Dự thảo luật cũng đã sửa đổi một số tiêu chí như: quốc tịch trọng tài viên, trình độ của các trọng tài viên... Theo đó, Dự thảo Luật không yêu cầu Trọng tài viên phải có quốc tịch Việt Nam. Điều đó có nghĩa là người nước ngoài cũng có thể được chỉ định làm trọng tài viên ở Việt Nam nếu các bên tranh chấp hoặc tổ chức trọng tài tín nhiệm họ. Quy định này đáp ứng nhu cầu thực tế trong giai đoạn Việt Nam tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- niên luận đăng thơ.doc