Đề tài Giải quyết xung đột môi trường trong các làng nghề nội dung tất yếu của quản lý môi trường

Đối với nước ta hiện nay, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đổi mới công nghệ bằng hai con đường: chuyển giao công nghệ và tự tiếp thu công nghiệp hiện đại – công nghệ có hàm lượng chất xám cao và công nghệ sạch, từ đó chúng ta mới có thể thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá rút ngắn, đồng thời đó cũng chính là phương thức thực hiện hữu hiệu nhất để kết hợp các mục tiêu kinh tế và sinh thái. Kiên quyết không nhập công nghệ gây ô nhiễm môi trường sinh thái với bất kỳ điều kiện nào. Phát triển kinh tế trên sự huỷ hoại môi trường cũng đồng nghĩa với sự kết án tương lai của mình. Do vậy mục tiêu chuyển giao công nghệ phải làm sao vừa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo vấn đề môi trường sinh thái.

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2304 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải quyết xung đột môi trường trong các làng nghề nội dung tất yếu của quản lý môi trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trong công nghệ đông lạnh và chất dung môi. Vấn đề suy giảm tầng ozon đã và đang đụng chạm đến một trong những vấn đề nhức nhối và bức xúc nhất của nhân loại - vấn đề bệnh tật trong điều kiện xã hội phát triển. Chẳng hạn ung thư vẫn đang được thế giới coi là bệnh nan y. Sư suy thoái tầng ozon đã làm cho nhiều quốc gia thức tỉnh và lo ngại. Đầu năm 1987, 27 nước đã ký công ước Viên về việc bảo vệ tầng ozon. Những nước công nghiệp phát triển nhất đã cam kết giảm dần và tiến đến chấm dứt việc sử dụng, sản xuất và thải bỏ các chất gây tác hại cho tầng ozon vào năm 2000. Đó thực sự là một quyết định thông minh và nhân đạo. Song cho đến nay sự giảm độ dày của tầng ozon vẫn là vấn đề quan tâm và lo lắng của nhân loại. Hậu quả tiêu cực của hiện tại vẫn chưa thể chấm dứt ngay được. Thứ hai là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”. Trái đất và khí quyển được xem như là một nhà kính khổng lồ, trong đó trái đất có nguy cơ bị đốt nóng lên. Nhiệt độ của trái đất tăng lên được gọi là hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”. Nguyên nhân của hiện tượng này là do sử dụng nhiều các nguyên liệu hoá thạch, do sự giảm sút diện tích rừng xanh …, lượng khí thải độc CO2, CH4, CFC3.. vào thiên nhiên ngày càng nhiều. Trong thế kỷ này, nhiệt độ của trái đất tăng lên từ 0,30C đến 0,70C so với thế kỷ trước. Các nhà khoa học dự đoán rằng đến năm 2030 nếu lượng khí CO2 tăng lên hai lần thì nhiệt độ tăng từ 1,50C đến 4,50C. Khi nồng độ khí CO2 trong khí quyển tăng lên, một phần nhiệt độ của trái đất bốc lên gặp khí CO2 sẽ phản chiếu trở lại đốt nóng trái đất. Nhiệt độ của trái đất tăng lên sẽ làm tan khối lượng khổng lồ ở hai cực và làm cho mực nước biển dâng lên. Mực nước biển dâng lên là nguy cơ đe doạ rất nhiều quốc gia và đời sống của hàng triệu dân trên thế giới. Hiện tượng “hiệu ứng nhà kính” gắn liền với một hiện tượng ô nhiễm môi trường khác không kém phần nguy hiểm đó là mưa axít. Trong các chất khí thải vào khí quyển, đặc biệt có SO2 và NO2 theo hơi nước bốc lên cao, chúng bị oxy hoá và thuỷ phân tạo thành axít, gặp lạnh mưa xuống đất. Mưa axít có tác hại rất lớn đến các thế hệ sinh thái nông nghiệp, làm giảm năng suất mùa màng, có nơi còn bị mất trắng, làm giảm chất lượng cây trồng và vật nuôi, phá hoại nặng nề các cánh rừng ôn đới phía Bắc bán cầu. Mưa axít còn làm ô nhiễm các đường ống nứoc uống và nước sinh hoạt của con người và sinh vật, ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ và tính mạng của con người. Ngoài ra sự suy thoái môi trường còn thể hiện ở sự ô nhiễm nguồn nước sạch. Tổng lượng nước trên toàn cầu là 1.360 triệu km3, trong đó lượng nước ngọt chỉ chiếm trên dưới 3% và con người chỉ sử dụng được khoảng 1% để phục vụ nhu cầu của xã hội. Thế nhưng 1% đó đang bị ô nhiễm bởi các chất thải trong sinh hoạt, trong sản xuất… Như các hoá chất dùng trong công nghiệp, thuốc trừ sâu, phân bón hoá học dùng trong nông nghiệp… Trong bản thông điệp của UNEP nhân ngày Thế giới về nước – ngày 22-3-1996 nhấn mạnh: ô nhiễm nước là một vấn đề nan giải và rộng khắp. Làm cho nước bị ô nhiễm trở nên sạch là một nhu cầu cấp bách và thiết thực, là trách nhiệm của mọi người, mọi chế độ xã hội. Nguyên nhân chính dẫn đến một loạt sự suy thoái môi trường sinh thái trên, trước hết phải kể đến sự phát triển của công nghiệp ồ ạt, đặc biệt là các ngành công nghiệp gây ô nhiễm. Mỗi năm hoạt động sản xuất thải vào không khí 150 triệu tấn khí SO2, 200 triệu tấn CO2, 350.000 tấn CFC3… (Theo Phạm Thành Dung – Môi trường sinh thái, Tạp chí giáo dục lý luận số 3-99). Những chất mà những yếu tố khác trong hệ thống, trong chỉnh thể môi trường sinh thái không thể hấp thụ được, nên đã gây tác hại đến tầng ozon, đến nguồn nước sạch… Nguyên nhân thứ hai là tệ nạn phá rừng ngày càng nghiêm trọng trên phạm vi toàn cầu. Có thể nói rừng là nước cho đời sống của thực vật và cho sản xuất của xã hội, là không khí trong lành, rừng là năng suất mùa màng… Rừng đóng vai trò quan trọng như thế, nhưng hiện nạy rừng trên thé giới đang kêu cứu, cứ mỗi phút trôi qua có tới 21,5 ha rừng nhiệt đới bị phá huỷ. Sự mất mát quá lớn của rừng tất yếu dẫn đến nghèo kiệt của đất đai và sự biến mất dần những sinh vật quý hiếm, sự tăng hàm lượng CO2 trong khí quyển - một trong những chất khí quan trọng nhất gây nên “hiệu ứng nhà kính”, làm tăng nhiệt độ trung bình của trái đất… Một nguyên nhân nữa là do sự mất cân bằng tài nguyên và dân số. Dân số tăng nhanh đòi hỏi phải khai thác các tài nguyên tự do nhiều hơn nhịp điệu cao hơn, chất thải các loại tăng nhanh hơn dẫn tới phá vỡ cân bằng, vắt kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường. Tình trạng chạy đua vũ trang, sản xuất các loại vũ khí hạt nhân, vũ khí hoá học cũng là nguyên nhân vừa gây ô nhiễm môi trường, vừa tạo khả năng huỷ diệt thiên nhiên thông qua chiến tranh xung đột. Đối với Việt Nam, tuy là một nước nông nghiệp, hơn nữa sự phát triển của xã hộI ta hiện nay vẫn chưa vượt ra khỏi trình độ của nền văn minh công nghiệp, thế nhưng điều đó không có nghĩa là không có hiểm hoạ sinh thái đe doạ. Ở các nước phát triển, hiểm hoạ sinh thái là do sự phát triển của kỹ thuật công nghệ, do sự phát triển tự phát của nền văn minh công nghiệp, thì ở Việt Nam, hiểm hoạ sinh thái là do sự kết hợp giữa phát triển và lạc hậu, do ảnh hưởng còn nặng nề của nếp suy nghĩ, nếp làm của người sản xuất nhỏ và lối sống công nghiệp còn chưa ổn định, chưa hoàn thiện. Thiên nhiên nước ta trước đây bị phá hoại bởi những cuộc chiến tranh kéo dài, còn bây giờ bị phá hoại bởi những hoạt động vô ý thức, bởi thái độ tuỳ tiện vô trách nhiệm, thiếu kế hoạch trong việc khai thác và sử dụng các nguồn thiên nhiên. Trước năm 1945, ở nước ta, rừng bao phủ 43,8% diện tích che phủ còn 28% (tức là dưới mức báo động 30%). Diện tích đất trồng đồi trọc đang bị xói mòn mạnh, lên khoảng 13,4 triệu ha. Nguyên nhân chính là do du canh du cư, lấy gỗ, củi, mở mang giao thông, xây dựng thuỷ điện.. Ô nhiễm môi trường cũng đang là vấn đề nan giải, chất thải công nghiệp, sinh hoạt, chất độc hại của quá trình sản xuất không được xử lý nghiêm túc mà đưa trực tiếp vào môi trường, gây bệnh tật và ô nhiễm môi trường sinh thái. Khu công nghiệp Biên Hoà I hằng ngày xả ra sông Đồng Nai khoảng 20.000m3 nước thải nhiễm bẩn và thải lượng chất rắn 260-300 tấn/ 1 tháng … Ấy là chưa kể khu công nghiệp Biên Hoà II. Nồng độ bụi ở đô thị vượt quá nhiều lần chỉ tiêu cho phép. Khí thải CO2 vượt tiêu chuẩn cho phép từ 1,5 – 2,5 lần. Ngoài ra vấn đề khai thác mỏ, vật liệu xây dựng, vàng, đá quý.. chính thức và tự do cũng đã và đang làm huỷ hoại môi trường sinh thái. Việc sử dụng mìn khai thác ở nhiều lĩnh vực đang làm phá sự cân bằng về hệ sinh thái môi trường. Mặc dù những hành động vô ý thức đó chưa có sự tham gia tích cực của yếu tố kỹ thuật, do vậy mà sức tàn phá đối với môi trường chưa đạt mức độ nghiêm trọng như các nước công nghiệp phát triển, nhưng cũng không phải là không đáng bàn. Theo kế hoạch quốc gia về môi trường đánh giá “Việt Nam hiện nay phải đương đầu với những vấn đề môi trường nghiêm trọng như nạn phá rừng, với mòn đất, việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên ven biển, đe doạ tới các hệ sinh thái và sự cạn kiệt nguồn gien…” (Việt Nam kế hoạch Quốc gia về phát triển môi trường và phát triển lâu bền. Xuất bản 1991, tráng7) Thứ trưởng Bộ khoa học – Công nghệ môi trường Phạm Khôi Nguyên đã khẳng định tại Hội nghị môi trường toàn quốc (10/1998) tại Hà Nội: Bảo vệ môi trường đã trở thành vấn đề sống còn của nhân loại. Mọi quá trình phát triển sẽ trở nên không bền vững nếu như chúng ta không quan tâm đến bảo vệ môi trường. Như vậy rõ ràng vấn đề bảo vệ môi trường này không còn là vấn đề riêng của một quốc gia mà là vấn đề của toàn nhân loại. Mặc dù vấn đề này đã được cảnh tỉnh trước đó rất lâu, từ ngày 5-6-1972 tại Stockhom (Thuỵ Điển), các nhà khoa học và đại diện chính phủ nhiều nước đã họp Hội nghị môi trường thế giới lần đầu tiên để nhắc nhở “Con người hãy cứu lấy cái nôi của chúng ta” và coi ngày 5-6 hàng năm là ngay môi trường thế giới. Sau đó 6-1992 tại Braxin, Hội nghị thượng đỉnh về môi trường thế giới diễn ra với tham dự của hơn 100 quốc gia và tổ chức quốc tế, một lần nữa khẳng định tình trạng suy thoái môi trường nghiêm trọng, kêu gọi mọi quốc gia hãy hợp tác hiệp lực có trách nhiệm và nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Thế nhưng cho đến hôm nay, tình trạng vẫn không được cải thiện đáng kể là bao, và vấn đề ô nhiễm môi trường vẫn là vấn đề nóng bỏng của mỗi quốc gia. Rõ ràng đây là vấn đề rộng lớn mang tính thời đại để giải quyết tốt được nó, trong phạm vi chỉ vài trang giấy không thể đưa ra được những biện pháp cụ thể đầy đủ. Ở đây tác giả chỉ đưa ra những định hướng cơ bản bước đầu, góp phần vào nhiệm vụ chung của mọi người là gìn giữ mối quan hệ tốt đẹp giữa con người và môi trường sống. - Trước hết để làm tốt công tác bảo vệ môi trường sống, chúng ta cần phải thay đổi nhận thức – xây dựng ý thức sinh thái. Tức là làm cho mọi người nhận thức một cách tự giác về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Con người cần phải nhận thức lại vị trí vai trò của mình và xã hội trong hệ thống tự nhiên – con người – xã hội. Trước vũ trụ mênh mông, con người trở nên nhỏ bé, không còn chuyện chiếm lĩnh tự nhiên bằng mọi giá mà phải hành động theo quy luật. Sự vi phạm quy luật tự nhiên, trước hết sẽ gây tổn thương cho tự nhiên, điều này còn có thể cứu vãn, nhưng một khi sự vi phạm đó ảnh hưởng đến vận mệnh của con người thì sự nguy hiểm khó lường hậu quả. Ăngghen đã từng nhắc nhỏ chúng ta rằng: Không nên quá khoái chí về những thắng lợi của chúng ta đối với giới tự nhiên, bởi vì sự thật nhắc nhở chúng ta hoàn toàn không thống trị giới tự nhiên như một kẻ xâm lược thống trị một dân tộc khác, như một người sống bên ngoài thế giới tự nhiên, và tất cả sự thống trị của chúng ta đối với tự nhiên bao hàm ở chỗ là chúng ta khác tất cả các sinh vật khác, biết nhận thức được những quy luật của giới tự nhiên và sử dụng những quy luật đó một cách đúng đắn. (Mác Angghen toàn tập, tập 20, trang 655. Nxb CTQG Hà NộI 1994). Cần phải nhận thức lại một cách nghiêm túc và sâu sắc rằng con người và xã hội dù có phát triển đến đâu, đến mức cao như thế nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là một bộ phận của sinh quyển, là những yếu tố trong hệ thống Tự nhiên – Con người – Xã hội, các yếu tố trong hệ thống có mối quan hệ khăng khít và tác động phụ thuộc lẫn nhau. Con người xã hội dù có sức mạnh nhưng hành động của họ cũng không thể vượt ra ngoài hệ thống mà con người phải biết vận dụng thế mạnh của mình - dạng vật chất duy nhất có ý thức, do đó chỉ có con người mới có khả năng điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Thông qua quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ con người dân dần nắm bắt được các quy luật của tự nhiên và tìm cách vận dụng một cách hợp lý các quy luật đó vào hoạt động thực tiễn của xã hội, để tạo cơ sở tự nhiên bền vững cho sự phát triển xã hội. - Thứ hai, cần phải kết hợp giữa mục tiêu kinh tế và mục tiêu sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ở Việt Nam, đã một thời do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, chúng ta chưa nhận thức đầu đủ ý nghĩa vị trí tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường sinh thái. Tình trạng tách rời công tác này với sự phát triển kinh tế - xã hội xảy ra phổ biến ở nhiều ngành, nhiều cấp. Ý thức sinh thái học chủ yếu mới nằm trong đầu các nhà khoa học, các nhà quản lý … chứ chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ trong toàn xã hội (Mặc dù gần đây đã có luật bảo vệ môi trường). Đối với tình hình nước ta muốn tăng trưởng kinh tế không có con đường nào khác là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước được Đảng ta khẳng định: Bảo đảm sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của kinh tế và gắn với việc xử lý tốt các vấn đề công bằng xã hội và tiến bộ xã hội, môi trường và sinh thái. Nghị quyết Trung ương khoá VIII cũng khẳng định: “Phát triển khoa học công nghệ gắn liền với bảo vệ và cảI thiện môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững” (Trang 60). Rút kinh nghiệm của những nước đi trước, chúng ta thấy rằng tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng bậc nhất của sự phát triển xã hội, song đó không phải là mục tiêu duy nhất và càng không phải là tất cả. Những gì được gọi là thành tựu trong gần 300 năm qua do khoa học và công nghệ đem lại cũng đồng thời kèm theo những tổn thất to lớn cho môi trường tự nhiên như: lổ thủng ozon, hiệu ứng nhà kính, mưa axít, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên… Tất cả chỉ khẳng định rõ thêm rằng con người không thể sống thiếu khoa học và công nghệ, cần cả các tài nguyên thiên nhiên để tồn tại và phát triển xã hội, nhưng đồng thời cũng rất cần một môi trường sống trong sạch lành mạnh, bởi vì bản chất con người là một thực thê sinh học – xã hội. Một bài học xương máu rút ra từ quá trình công nghiệp hoá vừa qua là không thể tách mục tiêu kinh tế, đó là một tất yếu khách quan nếu muốn phát triển lâu bền. Đối với nước ta hiện nay, để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết phải đổi mới công nghệ để tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Đổi mới công nghệ bằng hai con đường: chuyển giao công nghệ và tự tiếp thu công nghiệp hiện đại – công nghệ có hàm lượng chất xám cao và công nghệ sạch, từ đó chúng ta mới có thể thực hiện được công nghiệp hoá hiện đại hoá rút ngắn, đồng thời đó cũng chính là phương thức thực hiện hữu hiệu nhất để kết hợp các mục tiêu kinh tế và sinh thái. Kiên quyết không nhập công nghệ gây ô nhiễm môi trường sinh thái với bất kỳ điều kiện nào. Phát triển kinh tế trên sự huỷ hoại môi trường cũng đồng nghĩa với sự kết án tương lai của mình. Do vậy mục tiêu chuyển giao công nghệ phải làm sao vừa đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo vấn đề môi trường sinh thái. -Thứ ba, nên sản xuất xã hội cần phải thực hiện thêm chức năng tái sản xuất các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Trong một thời gian dài chúng ta đã tiêu xài quá phung phí một nguồn vốn - nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là các nguồn tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được (các nguyên, nhiên liệu hoá thạch). Các nguồn tài nguyên là một loại vốn không thể thay thế được, con người chỉ tìm ra chúng và sử dụng chúng một cách ồ ạt, lãng phí, làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên và gây ô nhiễm môi trường. Nền sản xuất xã hội chưa quan tâm đúng mức đến hiệu quả của tài nguyên thiên nhiên, từ khâu khai thác chế biến, cũng như đến các chất thải bỏ, các quá trình sản xuất phần lớn chưa đáp ứng được yêu cầu sinh thái, đã thải ra quá nhiều chất độc hại cho môi trường. Để tránh tình trạng trên, nền sản xuất sản xuất cần phải thực hiện thêm chức năng tái sản xuất các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Cụ thể là phải thay thế phương thức sử dụng các nguồn tài nguồn thiên nhiên từ bề rộng sang bề sâu, cố gắng sử dụng tối đa các tính năng vốn có của nó để sao cho khi thảI ra khỏi quá trình sản xuất, những chất thải đó, các sinh vật khác có thể sử dụng được, môi trường có thể tiếp nhận được và xử lý được như những chất thải của các sinh vật tự nhiên khác. Nói cách khác là thực hiện phương pháp chu trình công nghệ khép kín, nghĩa là đưa các chất thải của sản xuất vào lĩnh vực tiêu dùng của sản xuất, tăng cường cái gọi là “công nghệ khô”, khử các chất độc hại bằng sinh học. Tóm lại, các nhân tố kinh tế, con người, môi trường, công nghệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Chỉ có sự thực hiện đồng bộ các nhân tố đó mới tạo ra được sự tiến bộ thật sự của xã hội. Ở đây, con người với tư cách là chủ thể của lao động và trí tuệ là nhân tố giữ vai trò quyết định cho sự phát triển lâu bền. Trên đây chỉ là một vài định hướng bước đầu, nhằm cải tạo tốt hơn môi trường sống của con người và xã hội trong bối cảnh hiện nay. Cũng là bước mở đầu cho sự phát triển xã hội bền vững trong tương lai. Ô nhiễm môi trường làng nghề sơn mài Hạ Thái – Hà Tây (Khoa học và Phát triển, số 18, từ 1 - 7/5/2003, tr. 4) Những năm gần đây làng nghề sơn mài Hạ Thái, xã Duyên Thái, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây có phần “thay da đổi thịt”. Đóng góp cho sự đổi thay ấy là 75% nguồn thu từ nghề làm sơn mài. Tuy nhiên kéo theo sự phát triển về kinh tế là những vấn đề về môi trường đang ở mức báo động. Phần lớn trẻ em sơ sinh nơi đây bị viêm phế quản và người dân Hạ Thái đang hàng ngày phải đối mặt với những hơi độc từ các dung môi hữu cơ, xăng... Có thể nói làng nghề sơn mài Hạ Thái đã đứng trước tình trạng ô nhiễm môi trường từ 5 năm trở lại đây, kể từ khi các hộ làm sơn mài chuyển sang sử dụng một loại sơn mới dược nhập từ nước ngoài có pha dung môi bay hơi thay cho sơn nội với hy vọng giảm thời gian và chi phí sản xuất. Sự thay đổi này có thể có lợi cho các hộ sản xuất song lại khiến cho môi trường ngày càng bị suy thoái. Theo thông tin từ Hội Bảo vệ môi trường công nghiệp cho biết, nồng độ hơi xăng và dung môi hữu cơ đo được tại các xưởng sản xuất cao gấp 10-15 lần so với tiêu chuẩn quy định của Việt Nam. Nồng độ các chất thải rắn lơ lửng, chất hữu cơ trong nước cũng cao hơn mức bình thường cho phép. Điều nguy hiểm hơn cả là trong thành phần của dung môi pha sơn có các chất gây ung thư, giảm trí nhớ, giảm thị lực và đặc biệt là các bệnh liên quan đến đường hô hấp. Trước mắt, để tránh tình trạng này, nhiều người dân đã phải di chuyển đến nơi khác để sinh sống. Đã có nhiều gia đình gửi con nhỏ đến ở làng khác để tạm thời tránh hơi độc. Nhiều người cao tuổi trong làng cho biết, mỗi khi các hộ sản xuất tiến hành phun sơn, họ phải tránh đi nơi khác chờ đến khi công việc này kết thúc mới trở về nhà. Tuy nhiên đây chỉ là giải pháp tạm thời. Hàng năm, trong làng đều có người bệnh chết vì ung thư. Số trẻ sơ sinh bị viêm phổi cũng tăng dần. Đã lâu người dân trong làng không dám ăn cá nuôi trong các ao, hồ của làng vì có mùi dầu và sơn. Mặc dù trong năm 2002, hệ thống xử lý bụi sơn và dung môi hữu cơ đã được lắp đặt nhưng cũng chỉ hoạt động được một tuần. Vì thế toàn bộ việc giảm thiểu khí độc cho cả làng chỉ trông chờ vào vài chục ống khói được lắp theo kiểu thủ công. Trước tình hình đó, Ban lãnh đạo xã cũng đã áp dụng nhiều biện pháp để hạn chế ô nhiễm như quy định thời gian phun sơn, thu gom rác và lập dự án di dời các hộ sản xuất khỏi khu dân cư. Mong rằng những biện pháp này sẽ được áp dụng triệt để và cương quyết để người dân trong làng sớm thoát khỏi tình trạng “tránh nạn” như hiện nay. Hoàng Nhung ết Ô nhiễm môi trường làng nghề: bài toán khó giải  (Thời báo Tài chính Việt Nam, ngày 28/3/2003, tr.12) Từ khi thực hiện cơ chế thị trường, các làng nghề thủ công truyền thống ở nhiều địa phương cũng dần được phục hồi và phát triển. Sản phẩm của các làng nghề không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn vươn ra thị trường nước ngoài, thu về nguồn lợi lớn, cải thiện đời sống của tầng lớp dân cư nông thôn. Song song với sự phát triển đó thì sự ô nhiễm môi trường ở các làng nghề cũng đang đặt ra những vấn đề nan giải. Tính đến nay, cả nước có khoảng 1.450 làng nghề, trong đó tập trung nhiều ở đồng bằng sông Hồng. Với sự mở cửa thông thoáng do cơ chế thị trường tạo ra, nhiều làng nghề đã tìm được hướng đi mới cho mình, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động ở nông thôn. Nhờ đó mức sống của người dân cũng được dần lên. Nhiều mặt hàng thủ công mỹ nghệ của ta đã có mặt trên thị trường quốc tế. Nhờ bàn tay khéo léo và khối óc tinh tế những người thợ thủ công đã làm ra những sản phẩm hết sức tinh xảo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Những sản phẩm đó cũng đã góp phần làm nên một bản sắc riêng của dân tộc ta. Trong các cuộc triển lãm quốc tế, nhiều sản phẩm thủ công của ta đã đoạt các thứ hạng cao như: Giải Công vàng châu Âu cho đồ gỗ mỹ nghề Phù Khê, Huy chương Vàng cho gốm sứ Đông Thành... Giờ đây nhiều mặt hàng thủ công của ta không còn xa lạ đối với người nước ngoài. Có thể kể đến các sản phẩm đồ gỗ mỹ nghệ, gốm sứ, đá mỹ nghệ, tranh tượng, mây tre đan... Nhờ vậy những sản phẩm thủ công của các làng nghề đã có được chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Điều đó khuyến khích người dân giữ nghề và mở rộng, phát triển làng nghề. Thế nhưng chính sự mở rộng phát triển làng nghề lại không đi kèm các biện pháp xử lý chất thải, bảo vệ môi trường đã làm cho môi trường ở các làng nghề bị ô nhiễm nghiêm trọng. Theo đánh giá của các chuyên gia ở các tỉnh có làng nghề thì hầu hết các làng nghề ở nước ta đều không đảm bảo môi trường, trong đó nhiều làng nghề bị ô nhiễm môi trường ở mức nghiêm trọng. Hậu quả này do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do sử dụng hoá chất trong quá trình sản xuất mà chưa có biện pháp xử lý chất thải. Ô nhiễm môi trường không chỉ tác hại trước mắt mà nó ngấm dần ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ và đời sống con người. Nhắc đến làng nghề nấu chì Đông Mai (Hưng Yên) người ta vẫn không khỏi lo lắng khi bụi chì và chất thải ra trong quá trình sản xuất đã ảnh hưởng lớn tới sức khỏe người dân. Nhiều người trong làng đã bị mắc bệnh và đặc biệt là có khá nhiều trường hợp trẻ em sinh ra bị thiểu năng, dị tật. Qua kiểm tra nguồn nước ở đây cho thấy nồng độ chì trong nước rất cao. Người dân trong làng thường đi mua những bình ắc quy hỏng về rồi lấy lá chì trong đó nấu lại. Nước rửa bình ắc quy và các tấm lá chì được xả thẳng xuống nguồn nước mà không qua một khâu xử lý nào cả. Nguồn nước này lại ngấm xuống đất, xuống mạch nước ngầm mà dân làng ăn nên không tránh khỏi độc hại. Cùng với nó là khói, bụi khí thải thoát ra từ các lò nấu chì đặt ngay cạnh khu vực sinh hoạt đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ người dân. Thế nhưng chính quyền và dân làng Đông Mai vẫn chưa tìm được cách khắc phục sự ô nhiễm độc hại này. Hiện nay dân làng đã chuyển các lò nấu chì ra xa khu vực sinh hoạt song tình trạng ô nhiễm môi trường cũng chưa được cải thiện. Ô nhiễm môi trường ở làng gốm Bát Tràng hiện nay là rất lớn bởi tiếng ồn và bụi do các lò nung dùng than đá tạo ra. Vì thế lượng khí cácbonnic trong không khí ở đây luôn vượt quá 3 lần mức cho phép, còn mức bụi silic thì cao quá mức cho phép 12 lần. Vào những ngày mưa, mặc dù đường làng đã được lát bêtông nhưng vẫn luôn lầy lội, đầy màu đen do sự rơi vãi của than, của si và phế phẩm. Để cải tạo môi trường làng nghề Bát Tràng, Sở KHCN&MT Hà Nội đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó có đề nghị các lò nung chuyển sang dùng gas thay cho than đá. Thế nhưng giải pháp này cũng không được thực hiện triệt để do làm như vậy sẽ nâng giá thành sản phẩm lên rất cao. Ở những làng nghề sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ thì việc sử dụng hoá chất có hạn chế song tình trạng ô nhiễm môi trường ở những nơi này cũng đang ở mức báo động. Đa số các làng nghề bị ô nhiễm bởi chất thải sản xuất, bụi, khí độc, cặn bã, nước thải xả ra trong quá trình sản xuất. Trong khi đó người dân lại trực tiếp sống trong môi trường ấy nên tất nhiên phải gánh chịu hậu quả từ chính những việc làm của mình. Trong vòng 10 năm qua tốc độ tăng trưởng của các làng nghề ở nông thôn tăng khá nhanh, trung bình 8%/năm tính theo giá trị đầu ra. Song nếu chỉ nhìn ở khía cạnh tăng trưởng, lợi ích mà không tính đến việc bảo vệ môi trường, xử lý ô nhiễm thì chưa thể tính đến sự phát triển bền vững lâu dài của làng nghề. Nhiều khi chỉ vì lợi ích trước mắt mà người ta quên đi vấn đề bảo vệ môi trường sống của mình. Người dân còn chưa ý thức được việc phải giữ gìn, bảo vệ môi trường và hơn nữa là họ không có biện pháp nào xử lý ô nhiễm. Một nguyên nhân nữa là do giá thành sản phẩm nên người ta vẫn phải sử dụng các phương pháp thủ công gây ô nhiễm môi trường cao. Chỉ tính riêng ở đồng bằng sông Hồng đã tập trung tới 800 làng nghề, trong đó tập trung nhiều ở các tỉnh Hà Tây, Nam Định, Thái Bình, Bắc Ninh, Hưng Yên... Các làng nghề này vẫn tự sản xuất và tìm nơi tiêu thụ để tồn tại. Các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường hàng năm vẫn kiểm tra, đánh giá mức độ ô nhiễm môi trường của các làng nghề nhưng vẫn chưa tìm được cách khắc phục tình trạng này. Nếu có chỉ là những phương pháp xử lý thô sơ, quy mô nhỏ hẹp, chưa mang lại hiệu quả nào thực sự khả quan. Mặc khác, việc xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường ở các làng nghề còn thiếu đồng bộ, mới chỉ dừng ở quy mô cá nhân, hộ gia đình mà chưa tính đến lợi ích trên diện rộng. Hầu hết các làng chưa có các công trình xử lý ô nhiễm chung mang tính toàn diện và được quy hoạch một cách tổng thể. Vậy nên chăng các Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường áp dụng phương pháp bắt buộc các làng nghề phải có công trình xử lý ô nhiễm chung thì mới cho tiếp tục sản xuất? Và cho đến nay thì vấn đề xử lý ô nhiễm môi trường ở các làng nghề của nước ta vẫn là bài toán khó giải. Nguyễn Thị Tươi Làng nghề với vấn đề môi trờng hiện nay  (Tri thức và công nghệ, số 148 (2002), tháng 9/2002, tr. 15) Khi ở các nớc công nghiệp hiện đại đang quan tâm lo lắng đến sự ô nhiễm môi trờng từ các nhà máy điện, hoá chất, từ các lò phản ứng hạt nhân nguyên tử, hoặc các chất thải công nghiệp thì ở Việt Nam nỗi lo đó lại đợc bắt nguồn từ các làng nghề. Chính sách đổi mới kinh tế do Đảng và Nhà nớc khởi xớng chỉ đạo đã đem lại luồng sinh khí mới cho các ngành nghề thủ công truyền thống Việt Nam. Khác với thời gian ngng trệ, ì ạch, bế tắc trớc đó, trong vòng 10 năm trở lại đây, từ các nguồn ngân sách hỗ trợ của nhà nớc kết hợp với cơ chế thoáng mở của nền kinh tế thị trờng, bộ mặt làng n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCac bai viet ve xung dot moi truong lang nghe.doc
Tài liệu liên quan