MỤC LỤC
Trang
Mở đầu 1
Chương I: Lý luận chung về tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước. 2
I. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển 2
1. Khái niệm đầu tư 2
2. Khái niệm đầu tư phát triển 2
II. Tác động tràn của FDI 2
1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước. 2
2. Đặc điểm của FDI 3
3. Các hình thức của FDI 3
4. Tác động tích cực của FDI tới khu vực kinh tế trong nước 3
4. 1. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng 3
4. 2. Góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực kinh tế trong nước 4
4. 3. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tạo năng lực sản xuất, ngành sản xuất, phương thức sản xuất và kinh doanh mới, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh. 5
4. 4. Thúc đẩy xuất khẩu và giao lưu thương mại quốc tế 6
5. Hạn chế trong tác động của FDI tới khu vực kinh tế trong nước 6
5. 1. Công nghệ không phải là công nghệ nguồn. 6
5. 2. Gây ra sự cạn kiệt nguyên vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp trong nước 7
5. 3. Gây ra tình trạng “ chảy máu chất xám” tại chỗ và ảnh hưởng đến nguồn lao động trong các doanh nghiệp trong nước 8
Chương II: Thực trạng tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước 9
I. Tình hình thu hút và sử dụng FDI 9
1. Tình hình thu hút và thực hiện FDI 9
2. Những tồn tại và hạn chế của hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua. 11
II. Thực trạng tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước 12
1. Vai trò của FDI 12
1. 1. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng 12
1. 2. Góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực kinh tế trong nước 14
1. 3. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tạo ra một số năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, phương thức sản xuất- kinh doanh mới, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh. 16
1. 4 . Thúc đẩy xuất khẩu và giao lưu thương mại quốc tế 19
2. Những tồn tại và hạn chế trong tác động của các doanh nghiệp FDI tới khu vực kinh tế trong nước 20
2. 1. Về chuyển giao công nghệ. 20
2. 2. Gây ra sự cạn kiệt nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp trong nước 22
2. 3. Gây ra tình trạng “ chảy máu chất xám” tại chỗ và ảnh hưởng đến nguồn lao động trong các doanh nghiệp trong nước 22
Chương 3: Giải pháp cho tác động “tràn” của FDI tới khu vực kinh tế trong nước 24
I. Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 24
1. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư 24
1. 1. Hoạt động xúc tiến đầu tư của các nhà lãnh đạo cấp cao 24
1. 2. Xúc tiến thông qua các hội thảo và quảng bá môi trường đầu tư tại Việt Nam 24
1. 3. Đổi mới xúc tiến đầu tư 25
2. Hoàn thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam 25
2. 1. Hoàn thiện và minh bạch hoá chính sách ĐTTTNN 26
2. 2. Xây dựng cơ sở hạ tầng. 28
II. Định hướng sử dụng vốn FDI hợp lý. 28
1. Những biện pháp nâng cao hiệu quả của FDI 28
1. 1. Đối với lĩnh vực công nghiệp. 28
1. 2. Đối với lĩnh vực dịch vụ 28
1. 3. Đối với lĩnh vực nông nghiệp 29
2. Những biện pháp hạn chế sự ảnh hưởng của các doanh ngiệp FDI tới nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp trong nước. 29
III. Chống tình trạng “ chảy máu chất xám” tại chỗ 30
Kết luận 31
Tài liệu tham khảo 32
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1736 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải thích tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam.
ở Việt Nam, hiện nay có trên 70 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, trong đó trên 100 quốc gia tập đoàn lớn thuộc danh sách 500 công ty đa quốc gia lớn nhất thế giới do tạp chí Fortune bình chọn có đầu tư ở Việt Nam, chủ yếu đến từ các nước trong khu vực Châu á. 10 nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam lần lượt là :Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, quần đảo Virgin thuộc Anh, Pháp, Hà Lan, Thái Lan và Malysia.
Cho đến 2005, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh góp phần làm gia tăng thêm năng lực sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Riêng doanh thu xuất khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10.8 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2004 và nếu tính cả xuất khẩu dầu thô đạt 17 tỷ USD, chiếm 53% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Nộp ngân sách của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đạt 1.29 tỷ USD, tăng 41% so với năm 2004. Với tốc độ tăng trưởng cả về sản xuất và xuất khẩu, nộp ngân sách của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều cao hơn mức bình quân chung của cả nước. Đầu tư nước ngoài không những đã thực sự đóng vai trò động lực thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực trong nước từ đó nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta trong những năm qua.
2. Những tồn tại và hạn chế của hoạt động đầu tư nước ngoài thời gian qua.
Trong những năm 2005, công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài và hoạt động của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã có những chuyển biến, tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên, những kết quả đạt được vẫn chưa tương xứng với nhu cầu và khả năng. Trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn có những hạn chế cần phải khắc phục.
Thứ nhất, còn có sự cạnh tranh giữa các địa phương trong việc thu hút vốn đầu tư, với các biện pháp chủ yếu là đưa ra các ưu đãi, giảm thuế, cho thuê đất giá rẻ,... Điều này thể hiện công tác quy hoạch đầu tư còn nhiều bất hợp lý và tính cộng đồng chưa cao trong việc phát triển kinh tế xã hội nói chung.
Thứ hai, trong số các nước đầu tư vào Việt Nam, phần vốn đầu tư chủ yếu đến từ các nước Châu á như Đài Loan(35. 5%), Nhật Bản(13. 4%),... Đầu tư của EU và Hoa Kì vào Việt Nam còn thấp.
Thứ ba, thủ tục cấp phép đầu tư còn rườm rà hoặc một số dự án được cấp phép trong thời gian khá lâu nhưng triển khai chậm, thậm chí chưa triển khai.
Thứ tư, việc thu hút vốn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ vẫn còn ở mức thấp trong cơ cấu vốn đầu tư thu hút mới(16.3%). Rào cản lớn nhất của ĐTNN trong lĩnh vực này chính là hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực dịch vụ chưa đồng bộ, thiếu rõ ràng, thông thoáng, thậm chí mới dừng ở mức độ thí điểm.
Trong những năm tiếp theo, mặc dù gặp nhiều thuận lợi nhưng Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn. Nhưng hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam đang đứng trước những cơ hội mới. Điều này đỏi hỏi phải có sự nỗ lực và phối hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp trong nước trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nắm bắt cơ hội mới để tạo nên một làn sóng đầu tư nước ngoài mới có hiệu quả, góp phần thực hiện nhanh chóng mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
II. Thực trạng tác động tràn của FDI tới khu vực kinh tế trong nước
1. Vai trò của FDI
Thoát khỏi chiến tranh, xây dựng đất nước đi lên theo con đường xã hội chủ nghĩa từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu với trình độ thấp kém, sản xuất nhỏ là phổ biến. Cùng với một thời gian dài duy trì mô hình kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, quan liêu bao cấp, đóng cửa nền kinh tế đã làm cho nền kinh tế chậm phát triển.
Từ năm 1987 các chính sách đổi mới ra đời đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong nền kinh tế. Trong đó có việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhất là từ năm 1988, chúng ta đã bắt đầu thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, nền kinh tế đã có những bước chuyển biến quan trọng. ĐTNN tạo cho nền kinh tế một gia tốc tăng trưởng để thoát khỏi vòng luẩn quẩn của đói nghèo, tạo những bước phát triển tiếp theo. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của khu vực kinh tế trong nước.
1. 1. Tạo nguồn vốn bổ sung quan trọng
Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam để thoát khỏi cảnh đói nghèo thì vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn, từ đó dẫn tới thiếu nhiều thứ khác cần thiết cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng, ngay cả thiếu điều kiện để đào tạo nhân lực. Do đó, trong những bước đi đầu tiên, để tạo được cú huých cho sự phát triển, tạo được tích luỹ ban đầu thì không thể không huy động vốn từ nước ngoài. Trong đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức huy động vốn quan trọng cho những nước này khi mà tỷ lệ vốn tích luỹ trong nước đang còn ở mức thấp( mức tích luỹ của nền kinh tế mới đạt khoảng dưới 20% GDP, chưa đủ điều kiện phát triển nhanh nền kinh tế như đã dự kiến), ngay cả trong các doanh nghiêp cũng vậy, vốn luôn là vấn đề được quan tâm và lo ngại. Với việc thực hiện liên doanh với nước ngoài, các doanh nghiệp trong nước có thể giảm được rủi ro về tài chính. Vì khi liên doanh với nước ngoài, thứ nhất họ có nhiều kinh nghiệm trong kinh doanh, thứ hai khi liên doanh giữa ta với họ có nguy cơ đe doạ rủi ro thì các công ty mẹ sẽ có biện pháp trợ giúp về sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, về tài chính,... Trong tình huống xấu nhất, khi gặp rủi ro, họ sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với chúng ta.
Hơn thế, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tạo ra tác động tích cực đối với việc huy động các nguồn vốn khác như ODA, NGO. Nó tạo ra hình ảnh đẹp về Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Ngay trong quan hệ đối nội, ĐTNN còn có tác dụng kích thích đối với việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước.
Từ số vốn FDI qua các năm, ta có thể thấy được FDI là nguồn vốn bổ sung khá quan trọng trong tổng vốn đầu tư ở nước ta.
Hình 1:Tình hình thu hút vốn đầu trực tiếp nước ngoài(FDI) của Việt Nam đến năm 2004
Nguồn :Bộ kế hoạch và đầu tư.
Nguồn: Bộ kế hoạch -đầu tư
Các kết quả FDI năm 2005 cho thấy cả nước thu hút được trên 5.8 tỷ USD vốn đăng ký, tăng trên 25% so với năm 2004, vượt gần 30% mục tiêu ban đầu (4.5 tỷ USD) đề ra cho cả năm 2005, trong đó vốn cấp mới đạt trên 4 tỷ USD, vốn bổ sung đạt 1.8 tỷ USD.
Như vậy, mặc dù tổng số vốn của khu vực FDI so với tổng số vốn đầu tư của toàn xã hội trong hai năm gần đây có chiều hướng giảm sút nhưng vẫn chiếm tỷ lệ khá lớn.
Hiện nay, để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế với nhịp độ tăng trưởng bình quân 10%/năm thì mức đầu tư gộp phải đạt được 30-35%GDP. Khả năng huy động vốn đầu tư từ trong nước trong những năm tới cao nhất cũng chỉ có thể đáp ứng được trên 50% nhu cầu đầu tư, số còn lại phải được bổ sung từ bên ngoài, trong đó FDI sẽ chiếm phần đáng kể.
1. 2. Góp phần thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu trong khu vực kinh tế trong nước
Trong điều kiện nền kinh tế mở, các quan hệ kinh tế tạo ra động lực và điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các quốc gia. Trong đó, đầu tư trực tiếp là một động lực mạnh mẽ, có ý nghĩa to lớn tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, cơ cấu kinh tế chủ yếu còn tập trung vào các ngành sử dụng nhiều lao động, hàm lượng khoa học công nghệ thấp.
Nhờ có sự tham gia của khu vực FDI nên diện mạo kinh tế có nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ, nhất là trong sản xuất công nghiệp, xây dựng, khách sạn, du lịch. Nếu hoạt động FDI những năm đầu (ngoài dầu khí) tập trung chủ yếu vào lĩnh vực kinh doanh bất động sản thì trong thời kì từ năm 1995 đến năm 2004 đã có chuyển biến tích cực, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 58% năm 1995 lên 82% năm 2004.
Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI làm xuất hiện nhiều ngành mới như khai thác dầu thô, lắp ráp ô tô, xe gắn máy, điện tử, tin học, chế biến nông- lâm thuỷ sản chất lượng cao, da giày, may mặc xuất khẩu, hoá chất,... Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã kích thích ngành dịch vụ Việt Nam phát triển nhanh hơn, tạo ra phong cách kinh doanh mới cho người Việt Nam, nhất là trong các ngành viễn thông, kinh doanh bất động sản, du lịch, tài chính- ngân hàng,...
*Đối với ngành công nghiệp: công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục tăng trưởng cao, chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong toàn ngành công nghiệp của Việt Nam. Giá trị sản xuất của khu vực này năm 2005 đã tăng 20.9%, cao nhất từ năm 2001 đến nay. Nhờ tốc độ tăng cao hơn mà tỷ trọng của công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trong toàn ngành đã đạt 37.2%, cao hơn tỷ trọng của năm 2004 với 36%. Điều đó cũng làm cho một số nhà đầu tư Việt Nam đầu tư vào các lĩnh vực này, và đòi hỏi các doanh nghiệp cũng mở rộng sản xuất vào các ngành nghề có khả năng phát triển như lắp ráp, điện tử… làm cho mức tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp tăng qua các năm thông qua tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp luôn ở hai con số như bảng số liệu:
Bảng 2: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp
Năm
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Khu vực kinh tế trong nước
32.4
34.2
30.8
35.2
34
32.4
Khu vực có vốn ĐTNN
21.8
12.6
15.2
18
15.7
20.9
Nguồn: Thời báo kinh tế 2005-2006 Việt Nam và thế giới.
Qua bảng số liệu cho ta thấy mối quan hệ giữa hai khu vực này gần như có sự đồng thời tăng giảm của tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp trong ba năm gần đây ( từ năm 2003 đến năm 2004 giảm xuống và tăng lên trong năm 2005). Tuy nhiên trong thời gian gần đây khi mà các doanh nghiệp FDI liên kết chặt chẽ với nhau trong một vài ngành đặc biệt là dầu thô thì tác động tràn của nó tới khu vực kinh tế trong nước có phần suy giảm làm cho các doanh nghiệp trong nước khó tiếp cận với ngành này.
*Đối với ngành dịch vụ: FDI chiếm 36% vốn đăng kí và 12% vốn thực hiện. Hoạt động FDI đã góp phần đưa tốc độ tăng trưởng dịch vụ cả nước đạt từ 6.8-7%/năm.
Bên cạnh đó, lĩnh vực đầu tư cũng chuyển mạnh sang các ngành khác. Năm 2003, ngành nông- lâm nghiệp có 23 dự án và 47.3 triệu USD vốn đăng kí, chiếm 3.8% số dự án và 2.5% vốn đăng kí, các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và hoạt động tư vấn có 88 dự án và 184 triệu USD vốn đăng kí, chiếm 11.7% số dự án và 9.7% vốn đăng kí. Khu vực khách sạn- nhà hàng có 20 dự án và 140 triệu USD vốn đăng kí, chiếm 2.6% số dự án và 7.4% số vốn đăng kí.
Hiện nay xu hướng chung là đầu tư giảm ở ngành công nghiệp và tăng ở các ngành dịch vụ. Năm 2004, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào công nghiệp nhẹ là 16%, công nghiệp thực phẩm là 6%, công nghiệp dầu khí 4%, trong khi vào nông- lâm nghiệp là 7% và dịch vụ cao nhất 34%. Đây cũng là điều phù hợp với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế thế giới.
Sự xuất hiện của FDI đã tạo ra việc làm cho một số lao động Việt Nam-những người không trực tiếp hưởng lương từ các chủ đầu tư nước ngoài nhưng làm việc trong các đơn vị hình thành do tác động của vốn FDI. Lượng lao động này thường hoạt động trong các khâu cung cấp nguyên vật liệu, đại lý tiêu thụ sản phẩm. Các nhà nghiên cứu kinh tế ước tính tỷ lệ số việc làm trực tiếp / gián tiếp dao động từ 1 đến 2, tức là cứ một lao động trực tiếp kéo theo một đến hai lao động gián tiếp. ở nước ta nếu tính tỷ lệ 1.5 thì số lượng việc làm do khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra khoảng 1.2 triệu người. Đây là con số rất có ý nghĩa đối với Việt Nam trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp đang còn ở mức cao như hiện nay. Trên thực tế, tuỳ vào lĩnh vực hoạt động khác nhau mà hiệu ứng gián tiếp tạo việc làm của các doanh nghiệp FDI có các kết quả khác nhau.
Bảng 4:Kết quả khảo sát việc làm trực tiếp và gián tiếp.
STT
Doanh nghiệp
Lĩnh vực hoạt động
Việc làm trực tiếp
Việc làm gián tiếp
Trực tiếp/gián tiếp
1
Coca-cola
Nước giải khát
1. 500
18. 030
1/12
2
Shell Codamo
Kinh doanh dầu nhờn
390
2. 306
1/59. 1
3
Haiha-Kotobuki
Kinh doanh bánh kẹo
115
3. 580
1/31
4
Samsung Vina
ĐIện tử
323
3. 210
1/9. 9
Nguồn:TS. Bùi Anh Tuấn-Tạo việc làm cho người lao động, Nxb Thống kê, H. 2000.
1. 3. Thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tạo ra một số năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, phương thức sản xuất- kinh doanh mới, thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Tình hình chung của các nước đang phát triển cũng như ở Việt Nam là công nghệ lạc hậu, ngành nghề chưa đa dạng, sản phẩm chưa phong phú về mẫu mã, chủng loại,... Đây chính là đặc điểm giúp chúng ta thấy rõ được ảnh hưởng tích cực của FDI.
Trong những năm qua cùng với xu thế vốn nước ngoài đầu tư ngày càng nhiều thì công nghệ sản xuất mới được đưa vào nước ta ngày càng lớn. Do đó làm xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới như: sản xuất, lắp ráp ô tô, xe máy, linh kiện điện tử, thiết bị viễn thông,... Đặc biệt là những ngành sản xuất chưa từng có đơn vị trong nước nào sản xuất được như sản xuất máy lạnh, điều hoà nhiệt độ, nhất là việc khai thác dầu thô.
"Theo chân" các doanh nghiệp FDI là những mô hình quản lý và phương thức kinh doanh tiên tiến của thế giới, đã được "thử lửa" trên thương trường quốc tế. Đặc điểm này không những quyết định sự hoạt động hiệu quả của các nhà đầu tư nước ngoài mà còn tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới về công nghệ, phương thức quản lý, phong cách làm việc,... để tránh bị thua thiệt ngay trên sân nhà.
Đánh giá hoạt động chuyển giao công nghệ từ hoạt động FDI có thể xem xét qua một số ngành cụ thể sau:
Thứ nhất, ngành công nghiệp và xây dựng.
Công nghệ trong những ngành này được đánh giá là hiện đại hơn ở các ngành khác. Vì hầu hết trong ngành này máy móc của chúng ta đã quá cũ, không thể sử dụng để mang lại hiệu quả cao. Đi kèm những công nghệ này là những dây chuyền sản xuất tương đối hiện đại trên thế giới. Việc chuyển giao những công nghệ này đã góp phần nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Việt Nam, gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế.
-Trong lĩnh vực dầu khí, các nhà đầu tư vào lĩnh vực này chủ yếu là các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới có tiềm lực về mọi mặt từ Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu úc và một số nước Châu á. Đầu tư trong lĩnh vực này thường đỏi hỏi công nghệ, trình độ khoa học kĩ thuật tiên tiến. Mặt khác hầu như máy móc thiết bị phục vụ cho ngành công nghiệp này Việt Nam chưa sản xuất được. Vì vậy, khi đầu tư vào Việt Nam các nhà đầu tư phải đưa công nghệ mới nhất của mình để thăm dò và khai thác dầu khí. Hình thức hoạt động chủ yếu là hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm (PSC), hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) và liên doanh (JV) nên việc chuyển giao công nghệ cho đối tác Việt Nam có nhiều thuận lợi hơn là hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Hiện nay các dự án FDI đang tiến hành khai thác các mỏ lớn như: Rạng Đông, Bạch Hổ,... Một số dự án khí như:dự án khí Nam Côn Sơn, Nhà máy điện Phú Mỹ,...
-Trong lĩnh vực công nghiệp điện tử: Ngay khi luật đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam có hiệu lực, đã xuất hiện các dự án FDI. Nhiều công ty lớn đã đầu tư vào lĩnh vực này như: Sony, JVC, Toshiba, Phillip, Samsung, Daewoo... Một số công ty trong nước trong lĩnh vực này đã xuất hiện như: TVB, Hanel,…
-Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe gắn máy: Đây là lĩnh vực thu hút nhiều công ty lớn và các tập đoàn có uy tín với những thương hiệu nổi tiếng như: Toyota, Ford, Honda, Suzuki, Yamaha,... Những dây chuyền công nghệ mới nhất đã được chuyển giao vào Việt Nam. Đây là điều kiện thuận lợi để Việt Nam dần hình thành các doanh nghiệp của riêng mình.
-Lĩnh vực viễn thông, thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ thông tin hiện đại như: France Telecom, Motorola, Alcatel,... Đây là hình thức không có hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển công nghệ về viễn thông. Tại Việt Nam các công ty trong nước đã bắt đầu tham gia vào lĩnh vực này như: VNPT, Viettel, EVN telecom,…VDC, FPT,…
Thứ hai, trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp, các dự án FDI tập trung chủ yếu vào trồng trọt, chăn nuôi, chế biến nông sản thực phẩm, chế biến thức ăn gia súc, trồng rừng và chế biến gỗ... Chủ yếu các dự án này tập trung vào các tỉnh có điều kiện kinh tế khó khăn như Phú Thọ, Tuyên Quang, Hải Dương, Nghệ An, Thanh Hoá, Tây Nguyên,... Nhiều loại vật nuôi, giống cây trồng mới cùng với những dây chuyền chế biến hàng nông sản-thực phẩm tiên tiến đã được nhập khẩu và chuyển giao vào nước ta.
Thứ ba, ngành dịch vụ chủ yếu chuyển giao công nghệ thực hiện trong lĩnh vực khách sạn. Nhiều dự án đầu tư với những tập đoàn nổi tiếng của các nước trên thế giới như: Singapore, Đài Loan, Nhật Bản,... đã đầu tư vào Việt Nam. Những dự án này đã góp phần vào quá trình chuyển giao công nghệ, đặc biệt là trình độ quản lý kinh doanh khách sạn cho phía đối tác Việt Nam.
Bên cạnh đó không thể phủ nhận ĐTNN đã thay đổi tư duy của các doanh nghiệp trong nước về hoạt động kinh doanh. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI đã tạo nên một hình ảnh kinh doanh mới, làm thay đổi phong cách làm việc vốn mang nhiều ảnh hưởng từ hoạt động nông nghiệp và quan trọng hơn cả đã làm thay đổi tư duy của các nhà kinh tế Việt Nam về hoạt động kinh doanh. Nếu như trước đây các doanh nghiệp Việt Nam thường có thói quen chỉ tập trung vào thị trường trong nước và một số mặt hàng với thị trường truyền thống, yêu cầu không cao. Do đó thường có thói quen dựa vào sự bảo hộ của nhà nước, ngại cạnh tranh, ngại đưa ra sự thay đổi, thì sự xuất hiện của doanh nghiệp FDI đã kéo doanh nghiệp Việt Nam ra khỏi tâm lý được bảo hộ của nhà nước, buộc doanh nghiệp trong nước phải thay đổi để có thể tồn tại và phát triển. Mà việc làm cần thiết là phải đổi mới máy móc thiết bị đã quá cũ, đổi mới phương thức quản lý, đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường cũng như nghiên cứu sản phẩm mới.
Như vậy, chính sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI đã mang lại cho nền kinh tế một "làn gió mới", góp phần hiện đại hoá nền kinh tế.
1. 4 . Thúc đẩy xuất khẩu và giao lưu thương mại quốc tế
Suốt những năm 90 đến nay, Việt Nam luôn trong tình trạng thâm hụt và nhập siêu hàng hoá. Tuy nhiên với việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, sản lượng xuất khẩu của Việt Nam ra thế giới ngày càng tăng, đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngoại tệ của đất nước, góp một phần hạn chế tình trạng thâm hụt của cán cân thanh toán thông qua thặng dư xuất khẩu và chuyển vốn đầu tư vào Việt Nam.
Trong những năm gần đây cả hai khu vực kinh tế trong nước và khu vực kinh tế có vốn đâu tư của nước ngoài đều tăng trưởng với tốc độ hai con số. Trong năm 2005 kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 18. 517 triệu USD, tăng 27. 8% so với năm trước, của khu vực kinh tế trong nước đạt 13. 7216 triệu USD, tăng 14. 1%. Do đó nó cũng thúc đẩy kim nghach xuất khẩu của cả nước đều tăng, tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2005 đạt 32233 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI chiếm 57. 4%, của khu vực kinh tế trong là 42, 6%. Với con số đó, tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng 5729 triệu USD so với năm trước, trong đó khu vực có vố đầu tư nước ngoài tăng 4 028 triệu USD, chiếm 70.3%, còn khu vực kinh tế trong nước tăng 1701 triệu USD, chiếm 29. 7%. Tuy đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu ít hơn khu vực có vốn FDI song khu vực kinh tế trong nước vẫn đang được thúc đẩy nâng cao khi mà khu vực có vốn FDI đã trở thành động lực tăng trưởng của tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó tổng nhập siêu la 4648 triệu USD, giảm 14,7% hay giảm 802 triệu USD so với năm trước. Điều đó đã góp phần điều chỉnh cán cân thanh toán và tăng hoạt động thương mại cho nền kinh tế nước ta nói chung và khu vực kinh tế trong nước nói riêng thông qua hoạt động xuất nhập khẩu. Ngoài ra, khu vực FDI đã góp phần mở rộng thị trường trong nước; thúc đẩy các hoạt động dịch vụ phát triển nhanh, đặc biệt là khách sạn, du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ, dịch vụ tư vấn pháp lý, công nghệ; tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.
2. Những tồn tại và hạn chế trong tác động của các doanh nghiệp FDI tới khu vực kinh tế trong nước
2. 1. Về chuyển giao công nghệ.
Trong điều kiện Việt Nam là một nước nghèo, lạc hậu, trình độ công nghệ còn thấp so với thế giới. Vì vậy, việc chuyển giao công nghệ một mặt phải đảm bảo mục tiêu trước mắt, đồng thời phải bảo đảm thực hiện các mục tiêu lâu dài. Các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam phải đảm bảo các yêu cầu :
-Công nghệ chuyển giao phải nhằm mục tiêu nâng cao trình độ công nghệ của sản xuất, thể hiện ở các khía cạnh như nâng cao năng suất lao động, sử dụng tiết kiệm nhiên liệu, vật liệu, năng lượng, cải tiến kiểu dáng, nâng cao chất lượng sản phẩm,..
-Khai thác hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu, vật liệu tại chỗ, sử dụng được nguồn lao động dồi dào, tạo công ăn việc làm.
-Công nghệ được chuyển giao phải đảm bảo không gây ra những tác động làm ảnh hưởng hoặc đưa đến hậu quả xấu cho môi trường như ô nhiễm đất, nước, không khí, gây hại cho hệ động vật và thực vật, làm mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng xấu tới môi trường dân cư về mặt văn hoá xã hội
-Yêu cầu an toàn lao động, điều kiện làm việc và môi trường làm việc.
Tuy nhiên, trên thực tế việc chuyển giao công nghệ chưa đáp ứng được các yêu cầu này.
*Về phương thức chuyển giao công nghệ, chủ yếu thông qua hai hình thức : liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chuyển giao công nghệ trong doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là rất hạn chế, do không có đối tác Việt Nam để chuyển giao, hơn nữa trong thời kì đầu các hình thức đầu tư này và số người lao động Việt Nam chưa nhiều. Do vậy, chỉ có hình thức chuyển giao công nghệ thông qua các liên doanh là thuận lợi. Loại hình này phát triển mạnh trong thời kì đầu, tuy nhiên phương thức chuyển giao còn gặp một số khó khăn:
Thứ nhất, việc thành lập các liên doanh trong thời kì đầu của hoạt động đầu tư nước ngoài chủ yếu là giữa doanh nghiệp nhà nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Quy định tại thời kì đầu không cho phép thành phần kinh tế tư nhân tham gia liên doanh. Do vậy, thường tạo ra quan hệ đối kháng, nghi ngờ giữa các chủ sở hữu trong liên doanh. Quan hệ đối kháng và việc phải trả lương cao cho cán bộ kĩ thuật và quản lý của Vịêt Nam đã dẫn đến tình trạng bên nước ngoài không chuyển giao những công nghệ tốt nhất.
Thứ hai, chính sách bảo hộ của Nhà nước với các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng hạn chế việc chuyển giao công nghệ. Vì chúng ta vẫn phải phụ thuộc vào công nghệ của nước ngoài trong khi sản xuất ra sản phẩm cạnh tranh với chính họ. Chính vì thế những công nghệ được đưa vào Việt Nam không phải là công nghệ tốt nhất, mới nhất, hiện đại nhất.
*Về đối tác chuyển giao công nghệ: đối tác đầu tư chính ở Việt Nam là các nước Châu á. Do vậy, việc chuyển giao công nghệ nguồn hầu như là không có. Một số nước như Đài Loan, Hàn Quốc chủ yếu đầu tư vào công nghiệp nhẹ hoặc lĩnh vực khách sạn, văn phòng cho thuê nên việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam còn hạn chế. Ngay cả Nhật Bản, việc chuyển giao công nghệ còn thấp và thấp nhiều hơn so với các nước Đông Nam á (Singopre, malaysia, Tháilan). Trong khi đó những nước có công nghệ nguồn như Mỹ, Châu Âu thì mức đầu tư ở Việt Nam còn ít.
*Về mặt công nghệ, công nghệ chuyển giao vào Việt Nam thường là công nghệ cũ và lạc hậu. Chính sách chuyển giao công nghệ trong thời kì đầu hoạt động của FDI còn nhiều hạn chế, lỏng lẻo và thiếu cơ chế giám sát. Lợi dụng vấn đề này, để làm tăng lợi ích của bên chuyển giao công nghệ, các bên chuyển giao thường kê giá cao hơn để đưa vào góp vốn. Nếu như giá trị công nghệ được tính vào bộ phận góp vốn thì người bị thiệt sẽ là chúng ta. Vì khi đó vốn góp thực tế của bên đầu tư nước ngoài ít hơn số mà họ kê khai và điều này cũng sẽ dẫn tới phần lợi nhuận mà họ nhận được cũng cao hơn. Mà tỷ lệ lợi nhuận này không chỉ trong một năm mà còn trong suốt quá trình hoạt động của dự án. Theo kết quả khảo sát về thiết bị nhập khẩu trong 42 doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nhẹ cho thấy: trong số 727 thiết bị có tới 76% số máy móc thuộc thế hệ từ năm 1950 đến năm 1986; hơn70% số máy móc đã hết khấu hao; 50% thiết bị cũ được tân trang lại.
2. 2. Gây ra sự cạn kiệt nguồn nguyên vật liệu đầu vào cho các doanh nghiệp trong nước
Bên cạnh những mặt tích cực của các doanh nghiệp FDI tạo nguồn vốn bổ sung, làm thay đổi cơ cấu, chuyển giao công nghệ cho khu vực kinh tế trong nước … thì một trong những điều đáng lo ngại với các doanh nghiệp trong nước là nguồn nguyên liệu đầu vào. Khi mà sản xuất ngày càng được mở rộng, năng suất lao động ngày càng tăng thì nhu cầu về nguyên vật liệu đầu vào lại là một vấn đề luôn luôn được chú ý, không những có sự cạnh tranh trong sản phẩn đầu ra mà còn có sự cạnh tranh trong nguyên liệu đầu vào giữa các doanh nghiệp. Hiện nay khi mà các nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng tăng thì việc khai thác nguyên liệu đầu vào sẽ tăng gây ảnh hưởng đến nguyên kiệu dầu vào cho các doanh nghiệp trong nước cùng sản xuất một mặt hàng. Và một điều dễ hiểu là khi xuất khẩu càng tăng thì kéo theo tỷ lệ nhập khẩu tăng lên như nguyên liệu dệt, may. Da nhập khẩu 2308 triệu USD, vải 2406 triệu USD, sợi dệt 354 triệu USD, bông 162 triệu USD, chất dẻo 1426 triệu USD,…
Ngay cả khi chuyển giao
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35773.doc