Đề tài Góp phần tìm hiểu tư tưởng của C.Mác về bản chất con người

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: TƯ TƯỞNG VỀ CON NGƯỜI TRONG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRƯỚC MÁC .

1.1. Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học Phương Đông.

1.1.1. Vấn đề con ngươi trong triết học Trung hoa cổ đại.

1.1.2. Vấn đề con người trong triết học Ấn Độ cổ đại.

1.2. Tư tưởng về con người trong triết học Phương Tây.

1.2.1. Vấn đề con ngừơi trong triết học Hy Lạp.

1.2.2. Vấn đề con người trong triết học TRung Cổ Tây Âu.

1.2.3. Vấn đề con người trong triết họ Phục Hưng- Khai Sáng.

1.2.4. Vấn đề con người trong triết học cổ điển Đức.

Chương 2.: TƯ TƯỞNG CỦA C. MÁC VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI.

2.1. Tính hiện thực của bản chất con người .

2.2. Bản chất con người - tổng hoà các quan hệ xã hội.

2.3. Tư tưởng chiến lược con người hiện nay ở nước ta.

PHẦN KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

 

 

doc47 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2449 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Góp phần tìm hiểu tư tưởng của C.Mác về bản chất con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tinh thần tuyệt đối. Tinh thần tuyệt đối thực hiện sự tự phủ định. Lần phủ định thứ nhất tạo thành giới tự nhiên, lần phủ định thứ 2 tạo thành con người. Con người theo Hêghen do đó là sự thống nhất giữa tự nhiên vật chất và con người ý thức . Con người là sản phẩm của lịch sử đồng thời cũng là chủ thể của lịch sử. Con người ngày càng tham gia hoạt động bao nhiêu thì ý thức càng mang bản chất xã hội bấy nhiêu. Hêghen đã nhận ra vai trò của hoạt động trong sự hình thành ý thức bản chất con người. Tuy vậy nó vẫn núp dưới vỏ bọc duy tâm thần bí về cái gọi là “tinh thần thế giới” hay “ý niệm tuyệt đối” Đối lập với Hêghen là Phoi ơ Bắc. Ông coi con người là trung tâm, là cốt lõi xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của mình. ông chống lại các quan điểm tách rời thể xác và linh hồn trong quan niệm về con người. Ông cho rằng con người là sản phẩm của tự nhiên, là cái gương vũ trụ, thông qua tự nhiên ý thức và nhận thức chính bản thân mình. Bản chất con người là tổng thể nhu cầu, khát vọng, ham muốn và cả khả năng tưởng tượng của anh ta nữa. Ông khẳng định “on người là sản phẩm của văn hoá và của lịch sử”. Nhưng văn hoá lịch sử ấy là văn hoá lịch sử chung chung phi giai cấp, phi dân tộc và vì thế quan niệm này còn quá trừu tượng. Cũng như vậy quan niệm về bản chất con người của ông cũng quá trừu tượng, mang tính chất sinh lý thụ động, bị tách khỏi những điều kiện kinh tế-lịch sử: “bản chất của con người là bản chất chung và bản chất đó là bản chất cá thể”. Ông viết “bản chất thần thánh không có gì khác mà là bản chất của con người nhưng đã được tinh tế, khách quan hoá, tách rời với con người bằng xương bằng thịt”. Như vậy, triết học cổ điển Đức đã đề cập đến bản chất, nguồn gốc của cong người cũng như vị trí vai trò của họ đối với thế giới. Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng triết học cổ điển Đức đã đem lại một cách nhìn mới về con người so với các thời kỳ lịch sử trước đây. Tư tưởng triết học trước Mác về con người mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng cũng còn có những hạn chế. Những tư tưởng triết học đó thể hiện sự đối lập các thế giới quan, giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật; giữa hai phương pháp tư duy siêu hình và tư duy biện chứng. Cuộc đấu tranh nảy lửagiữa các quan điểm đó là một trong những động lực giúp cho việc giải mã số phận con người, bản chất con người cũng như việc tìm ra những con đường giải phóng con người thoát khỏi sự thống trị của giới tự nhiên. Tuy nhiên các nhà triết học trước Mác đã không lý giải một cách đúng đắn và khoa học và con người, bản chất con người, không đề ra được con đường hiện thực để giải phóng con người thoát khỏi mọi sự tha hoá. Bởi lẽ họ đã không xuất phát từ hiện thực đời sống con người từ lịch sử con người và xã hội. Họ đã không hiểu được rằng chính tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội không phải là yếu tố thụ động đối với tồn tại xã hội mà có tác động trở lại một cách tích cực. Những hạn chế của các nhà triết học trước Mác có nguyên nhân về mặt lịch sử, kinh tế, xã hội của thời đại mà họ đang sống. Những hạn chế đó chưa cho phép họ khám phá và đi sâu vào bản chất của con người và xã hội loài người. Điều này chỉ có thể khắc phục bằng quan điểm mới của Các Mác-Ăngghen và các nhà Mácxit sau này. CHƯƠNG 2 TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VỀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI 2.1 tính hiện thực của bản chất con người Kế thừa một cách có phê phán những thành tựu của triết học các thời đại trước, C Mác đã khắc phục sự nghiên cứu con người một cách trìu tượng bằng việc xác lập quan điểm khoa học, xem xét con người hiện thực trong lịch sử phát triển của nó. Ông đã chỉ ra rằng, con người không phảI do một đấng siêu nhiên hoặc thần thánh, thượng đế tạo ra như sự bịa đặt của chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo, mà là sản phẩm cao nhất trong quá trình phát triển lâu dài của vật chất. Nếu như tất cả các nhà triết học trước Mác xem xét bản chất con người trong từng cá nhân riêng lẻ mà không thấy các mối quan hệ xã hội hiện thực của nó, thì với quan điểm duy vật triệt để và phương pháp biện chứng. C Mác đã nêu ra một luận điểm rất nổi tiếng: “bản chất con người không phảI là một cáI trìu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội” Với luận điểm này, có thể nói điều đầu tiên mà C Mác muôn nêu bật lên đó là: bản chất con người không phải là cái gì đó có sẵn, hay cái gì nhất thành bất biến, mà là cái được hình thành nên, được bộc lộ ra trong cuộc sống hiện thực của nó; nghĩa là phải xem xét bản chất con người trong tính hiện thực của nó. Hiện thực theo từ điển triết học: là đang thực tế tồn tại và phát triển chứa đựng bản chất của chính nó và quy luật trong bản thân nó, và cũng bao hàm những kết quả của sự hoạt động và phát triển của chính nó. Thực tại khách quan với tất cả tính cụ thể của nó chính là hiện thực đó. Với ý nghĩa đó hiện thực không những khác với tất cả cái bề ngoài, cái tưởng tượng mà còn khác với tất cả chỉ là cái logic (cái tư duy), còn khác với tất cả chỉ là cái khả năng cái có thể có nhưng chưa tồn tại. Như vậy C Mác đã đặt bản chất con người trong tính hiện thực, điều đó có nghĩa con người là hiện thực, không phải là cái gì trìu tượng mà là cụ thể-cảm tính. Con người được hiện ra dưới dạng hoạt động thực tiễn, phong phú đa dạng. Đó là một con người sống trong một thời đại nhất định, một môi trường xã hội nhất định với các điều kiện tự nhiên, sinh quyển... và những mối quan hệ phức tạp, ngày càng phong phú cùng với sự phát triển của văn minh. Con người cụ thể hiện thực đối tượng đầu tiên mà C. Mác nghiên cứu là những người Vô sản. Khi giai cấp Vô sản tay cầm cờ đỏ bước lên vũ đài chính trị, thì ngay trong những tác phẩm đầu tay, Mác đã thấy: “từ bộ mặt thô rám đi vi lao động của họ toả đến chúng ta sự cao quý của con người”. Đây không những là tình cảm ban đầu của C Mác đối với giai cấp Vô sản mà còn là cách nhìn mới mẻ nhất trong lịch sử về những người lao động xưa nay vẫn bị coi là dưới mức phát triển của con người. Chúng ta phải thấy rằng sở dĩ, khi bàn đến con người C Mác đã đặt trong tính hiện thực bởi vì: trong triết học cổ điển Đức, con người được xem xét một cách sai lệch. Hêghen đã quan niệm duy tâm về con người, cho con người là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, “tinh thần thế giới”, còn Phoi ơ Bắc lại tách con người ra khỏi đời sống, quy tính sinh vật vào bản tính con người. Để chống lại các quan điểm sai lầm đó, C.Mác đã xem xét con người trong tính hiện thực của nó. Mặt khác, trong triết học C. Mác, vấn đề thực tiễn là điểm xuất phát có tính chất nền tảng. Trong “luận cương về Phoi ơ Bắc” C. Mác đã nhấn mạnh đến vai trò của thực tiễn: “các nhà triết học trước kia chỉ nhận thức thế giới bằng nhiều cách khác nhau xong vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới”. Hoạt động thực tiễn của con người rất phong phú, đa dạng, xong hoạt động cơ bản nhất đó là hoạt động sản xuất vật chất. Con người thông qua hoạt động lao động mà quan hệ với tự nhiên. Chính trong hoạt động sản xuất ra đời sống của mình, con người có những quan hệ năng động, tích cực hai chiều và nhiều chiều với tự nhiên, với đồng loại. Qua sự tác động của con người với tự nhiên, con người làm biến đổi tự nhiên, đồng thời làm biến đối chính bản thân mình. Trong “Tư bản”, C Mác viết: “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Bản thân con người đối diện với thực tiễn tự nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên. Để chiếm hữu được thực thể của tự nhiên dưới một hình thái có ích cho đời sống của bản thân mình, con người vận dụng những sức tự nhiên thuộc về bản thân của họ: “tay và chân, đầu và hai bàn tay. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó làm thay đổi tự nhiên con người đồng thời làm thay đổi bản tính của chính họ”. Bằng lao động, con người đã tạo ra những tư liệu để thoả mãn nhu cầu của mình. Bản chất tự nhiên của con người được biểu hiện ra bên ngoài là các nhu cầu tất yếu khách quan như: ăn, ở, mặc... Hoạt động để thoả mãn nhu cầu sinh học của con người khác với con vật. ở con người, hoạt động này không phải là hoạt động bản năng, hoạt động đơn thuần sinh vật mà nó đã mang tính xã hội. Trong “bản thảo kinh tế-triết học 1844” C. Mác khẳng định: “con người có một hoạt động sinh sống có ý thức. Đó không phải là cái có tính quy định mà với nó con người trực tiếp hoà làm một. Hoạt động sinh sống có ý thức phân biệt trực tiếp con người với hoạt động sinh sống của con vật”. Hoạt động có ý thức, có mục đích của con người là đặc trưng để phân biệt giữa con người và con vật “bản thân con người bắt đầu phân biệt với con vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra tư liệu của mình-sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình như thế là con người đã gián tiếp sản xuất ra đời sống vật chất của mình và đó chính là hành vi lịch sử đầu tiên”. Chính vì thế, sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là hoạt động bản chất nhất của con người. C Mác khẳng định nét đặc trưng riêng của quá trình lao động của con người là sử dụng và sáng tạo ra những tư liệu lao động, vì thế C. Mác đã nhất trí với Phranclin khi ông định nghĩa con người là “động vật chế tạo công cụ”. Như vậy, hoạt động lao động đã làm biến đổi bản chất tự nhiên của tổ tiên con người, tạo lập ra bản chất xã hội của con người. Hoạt động xã hội của con người chủ yếu là hoạt động lao động sản xuất, hoạt động cách mạng cải tạo thế giới đã làm biến đổi mặt sinh học của con người một cách đáng kể và làm cho mặt sinh vật trở thành “người hoá”. Chính toàn bộ sự hoạt động ấy đã làm cho những nhu cầu sinh vật ở con người trở thành những nhu cầu xã hội. Nếu con vật chỉ thuần tuý là sản phẩm của tự nhiên, hoàn toàn chịu sự chi phối và thống trị của tự nhiên thì con người với tư cách là một sản phẩm đặc biệt của tự nhiên, lại luôn tìm cách chế ngự chinh phục và làm chủ tự nhiên để thoả mãn những nhu cầu của bản thân mình. Nếu con vật chỉ biết thích nghi với môi trường tự nhiên vây quanh nó một cách hoàn toàn thụ động bằng cách biến đổi cơ thể cho phụ hợp với những điều kiện của môi trường thì con người bằng hoạt động của mình lại luôn tìm cách sử dụng và biến đổi môi trường xung quanh để tồn tại và phát triển. Lao động sáng tạo nên con người và nhờ tham gia lao động xã hội con người xẽ hoàn thiện các bản chất đặc thù của mình. Chính vì thế Ăngghen viết: “trên một nghĩa nhất định nào đó, chúng ta phải nói rằng: lao động sáng tạo ra bản thân con người”. Nhờ lao động loài người đã trải qua những biến đổi về mặt sinh học, đồng thời xét đến cùng lao động đã hình thành nên bản chất con người và quy định phẩm chất xã hội đặc biệt của con người trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Nhờ lao động có mục đích nên con người đã thoát khỏi ra tình trạng loài vật, xong không có nghĩa là con người thoát ra khỏi hoàn toàn tự nhiên. Ăngghen đã nói rất đúng rằng: “chúng ta, với cả xương, thịt, máu bộ não của chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên và chúng ta nằm trong giới tự nhiên. Hơn thế nữa, cũng giống như bất kỳ sinh vật nào, con người phải thích ứng với tự nhiên, xong con người thích ứng với tự nhiên bằng cách bắt tự nhiên đáp ứng nhu cầu của mình. Sự thích ứng ấy có tính chất môi giới và thực hiện thông qua lao động. Nhờ lao động có mục đích mà con người tác động và giới tự nhiên và sáng tạo ra thế giới vật chất riêng của mình. Khi thoả mãn nhu cầu, trong điều kiện thay đổi môI trường tự nhiên, con người đã thể hiện bản chất loài của mình và tự biến mình thành một thực thể xã hội. Hoạt động thực tiễn của con người không chỉ tạo nên mối quan hệ giữa con người với xã hội mà nó còn làm cho con người thực sự trở thành người, làm cho mối quan hệ giữa con người với tự nhiên chuyển sang hình thức mối quan hệ giữa con người với con người. Theo C.Mác, trong xã hội thống nhất biện chứng giữa con người với tự nhiên là xã hội. vì bản chất tự nhiên của con người chỉ tồn tại với con người xã hội. Chỉ có trong đời sống xã hội, tự nhiên đối với con người mới là khâu liên hệ con người với con người, mới là nhân tố sinh hoạt của con người. Chỉ có trong xã hội, tồn tại tự nhiên của con người mới là tồn tại có tính chất người của con người đối với con người. Tự nhiên có trước con người, còn xã hội ra đời cùng với con người. Song tự nhiên và xã hội luôn có mối quan hệ với nhau. Tính tự nhiên của con người không tồn tại bên cạnh tính xã hội của con người mà chúng hoà quyện vào nhau, tồn tại trong yếu tố xã hội. Như vậy con người hiện thực của Mác là con người với tư cách là tổng thể tồn tại bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Con người hiện thực được hiện ra với các hoạt động thực tiễn và cũng chính thông qua các hoạt động thực tiễn bản chất của con người được hình thành và tính tự nhiên của con người đã mang tính xã hội, được chuyển vào hoà nhập trong xã hội. Như vậy, tính hiện thực của con người cũng chính là sự tồn tại của con người trong hiện thực khách quan, trong thực tiễn của nó. Tính hiện thực của con người trước hết được thể hiện ở chỗ con người tồn tại thực, hiển nhiên, cảm tính, trong mối quan hệ với tự nhiên với xã hội, trong một hoàn cảnh nhất định, một thời đại nhất định, chứ không phải là sự tồn tại trìu tượng. Điều này đã được Mác khẳng định trong “hệ tư tưởng Đức” rằng: “chúng ta cũng không xuất phát từ những con người chỉ tồn tại trong lời nói, trong ý nghĩ, trong tưởng tượng, trong biểu tượng của người khác, để từ đó mà đi tới những con người bằng xương, bằng thịt. Không, chúng ta xuất phát từ những con người đang hành động hiện thực và chính là cũng xuất phát từ quá trình đời sống hiện thực của họ”. Trong “luận cương về Phoiơbắc” Mác đã lý giải con người hiện thực bằng cách đưa ra định nghĩa con người hiện thực: “bản chất của con người không phải là cái trìu tượng vốn có của một cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tính tổng hoà các quan hệ xã hội”. Định nghĩa trên về bản chất con người chứa đựng một tư tưởng hết sức sâu sắc, nhưng lại được trình bày một cách cô đọng, vắn tắt nên nó thường bị giảI thích một cách phiến diện. Định nghĩa trên thường bị các sách báo Tư sản và những người chống lại Mác xuyên tạc một số giảI thích Mác hiểu con người là tổng hoà những mối quan hệ sản xuất. Một số khác khẳng định rằng: dường như trong luận cương của Mác không thể hiện được cơ sở tích cực, cơ sở hoạt động trong con người. Thực ra luận điểm trên của Mác cần phải hiểu rằng, Mác đã vạch ra yếu tố cấu thành con người là các quan hệ xã hội hơn nữa nó lại là bản chất xã hội đặt trong tính hiện thực trực tiếp của nó. CáI quyết định bản chất của con người là cái xã hội cái bản chất ấy được hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn, trước hết là thực tiễn lao động sản xuất của cảI vật chất. Đó là hành vi lịch sử đầu tiên làm cho con người mang bản chất khác với loài vật. C Mác đặt con người trong tính hiện thực không phảI chỉ dừng lại xem xét con người trong hoạt động thực tiễn, trong đó quan trọng nhất là hoạt động sản xuất và lao động cảI tạo xã hội mà còn có nghĩa là C.Mác đã không phủ nhận mặt tự nhiên gạt bỏ cái sinh vật khi xem xét con người. Trong “bản thảo kinh tế-triết học 1844”, khi còn mang nặng ảnh hưởng của triết học Phoi Ơ Bắc, C. Mác viết: “con người là một sinh vật có tính loài”, và xem giời tự nhiên là “thân thế vô cơ của loài người… vì con người là một bộ phận của giới tự nhiên”. ở “Lời góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị” C.Mác viết: “con người theo nghĩa đen của nó là một vận động vật học xã hội, không những là một động vật có tính hoẹp quần mà còn là một động vật chỉ có thể tách riêng ra trong xã hội mà thôI”. Ông còn khẳng định: “trong mọi trường hợp con người đều là một động vật học xã hội” Trong “biện chững củatn Ăngghen cũng khẳng đinh: “con người đó là một loài động vật có xương sống mà trong đó giới tự nhiên đạt tới trình độ tự nhận thức được mình”. Như vậy, con người trong triết học C. Mác là con người hiện thực, cụ thể-cảm tính. Con người với tư cách là một tổng thểtồn tại bao gồm cả mặt tự nhiên và mặt xã hội. Đó là một “sinh vật” có tính loài, có ý thức, là “động vật xã hội”, “động vật chế tạo công cụ” và “tự nhận thức được mình”. Vì vậy, con người ở đây là con người làm chủ tự nhiên và xã hội. Con người đã đặt mọi sự vật hiện tượng của thế giười hiện thực vào phạm vi nhận thức của mình, do đó nó đã trở thành chủ thể của nhận thức, đồng thời cũng là khách thể của nhận thức. Ăngghen viết: “chúng ta phải xuất phát từ cáI tôI, từ con người thực tế, bằng da, bằng thị để không giấu giếm được gì trong đó, mà là xuất phát từ chúng ta, xuất phát từ đây để đI đến với con người”. Còn C. Mác lại viết: “con người hiện thực, con người nhục thể đứng vững trên mảnh đất vững chắc…thu hút vào mình và tự mình lại toả ra tất cả lực lượng tự nhiên”. Khắc phục chủ nghĩa duy vật trực quan của Phoi ơ Bắc, C. Mác đề cập đến tính hiện thực của bản chất con người”. Con người được hiện ra với các hoạt động thực tiễn mà bản chất của con người được hình thành và cũng thông qua hoạt động thực tiễn tính tự nhiên của con người đã mang tính xã hội, được chuyển vào, hoà nhập vào trong xã hội. Hơn nữa, quá trình hoạt động lao động đã hình thành nên phẩm chất xã hội của con người. Bản chất đặc thù của con người. Chính vì thế C. Mác đã nói: “bản chất của “con người đặc thù” không phải là râu của nó không phải là máu của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó mà là phẩm chất xã hội của nó”. C. Mác không chỉ xem xét con người vớicác hoạt động thực tiễn mà còn xem xét nó trong một thời đại nhất định, một giai đoạn lịch sử cụ thể, chịu ảnh hưởng của một môI trường tự nhiên. C. Mác viết: “chúng ta, cần phảI thấy thế nào là bản chất con người nói chung và bản chất ấy biến hình như thế nào trong mỗi thời đại nhất định”. “Bất kỳ lịch sử nào cngx không phải là cái gì khác mà là sự hoạt động không ngừng của bản chất con người”. Bản chất chính là cáI chung của con người. Trong mỗi giai đoạn líchử (tức trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội) bản chất con ngưòi lại là những đặc điểm riêng. Giữa cái chung và cáI riêng luôn luôn chuyển hoá lẫn nhau. ở thời đại khác nhau con ngưòi cũng khác nhau bởi vì, xã hội loài người luôn luôn vận động từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thành kinh tế-xã hội khác nên con người cũng phải biến đổi cho phù hợp. Con người ở thời đại nào thì mang dấu ấn của thời đại ấy. Trong xã hội có giai cấp, bản chất con người mang tính giai cấp, bản chất với tư cáh là một bộ phận của toàn thể xã hội không trực tiếp gắn với xã hội nữa, mà thuộc về các giai cấp nhất định trong xã hội”. Như vậy, theo Mác bản chất con người không phải là một cái gì trừu tượng mà là sản phẩm của tự nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử cụ thể, con người hiện thực, đó là con người cụ thể, cảm tính, bản chất của con người hiện ra, tồn tại và phát triển trong lao động sản xuất, chinh phục tự nhiên cải tạo xã hội, sự tồn tại hiện thực của con người không thể tách rời các mối quan hệ xã hội. Tiêu biểu nhất trong các mối quan hệ xã hội của con người là hoạt động sản xuất để đáp ứng những yêu cầu đầu tiên, mặt khác là duy trì sự sống của mỗi cá nhân, một mặt được coi là quan hệ tự nhiên mặt khác là quan hệ xã hội. Ngay từ khi con người có hành vi sản xuất ra của cải vật chất để tồn tại thì đồng thời cũng làm nảy sinh các quan hệ giữa các cá nhân. Đây là những quan hệ do lịch sử quy định và vì vậy quan hệ giao tiếp giữa các cá nhân trong xã hội là nhu cầu tất yếu. Khi khẳng định tính hiện thực của con người xã hội. Mác đã dần đi tới quan niệm về quần chúng lao động. 2.2.Bản chất con người-tổng hoà các mối quan hệ xã hội Các quan hệ xã hội là những quan hệ giữa cộng đồng xã hội của con người, xuất hiện trong quá trình sản sinh và tái sản sinh ra bản thân con người với tư cách là chủ thể xã hội hoàn chỉnh. Sở dĩ Mác xem xét bản chất con người trong tổng hoà các quan hệ xã hội để nhằm đối lập với quan điểm của Phoi ơ Bắc coi con người đơn thuần như một phần của giới tự nhiên, quan điểm của Phoi ơ Bắc xuất phát từ những cá thể cô lập theo kiểu RoBinSon để nhận thức bản chất con người, bỏ qua không nói gì đến mặt xã hội của con con người, đồng thời C. Mác cũng nhấn mạnh mặt xã hội , yếu tố đặc trưng trong nhân cách con người- yếu tố đặc thù để phân biệt con người và con người và vật. xét bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội tức là xem con người với tất cả các quan hệ xã hội của nó không những chỉ những quan hệ xã hội đã có từ trước người đang sống mà cả những quan hệ xã hội đã có từ trước kia trong một tổng thể với những mối liên hệ biện chững, bởi vì trong lịch sử của mình, con người bắt buộc phải kế thừa những di sản, những truyền thống đã thúc đẩy con người vươn lên hoặc ngược lại. Theo C. Mác, bản chất con người không phải à sinh thành bất biến mà có sự vận động, phát triển phù hợp với sự biến đổi của hoàn cảnh, của thời đại. Cụ thể là bản chất xã hội của con người luôn luôn thay đổi cùng với năm phương thức sản xuất lớn với những chế độ chính trị khác nhau. Mỗi con người dù muốn hay không, vừa cất tiếng khóc chào đời đã bị khoác bởi cái áo xã hội họ đang sống, đó là những mối quan hệ xã hội. Các quan hệ xã hội có đặc điểm: Các quan hệ xã hội xuất hiện cùng với sự ra đời của loài người và tồn tại mãI với nó, luôn luôn mang tính chất quan hệ giữa các nhóm người, các cộng đồng người… Về mặt nội dung chất đặc trưng của các quan hệ xã hội được phản ánh trong kháI niệm lối sống bởi vì khái niệm này nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình tháI kinh tế-xã hội nhất định. Quá trình hình thành và phát triển của các quan hệ xã hội qua các thời đại lịch sử cũng đồng thời là quá trình nhân đạo hoá xã hội, quá trình làm cho con người dần trở thành đúng là con người. Sở dĩ như vậy là vì xã hội loài người mặc dù có những bước thăng trầm song xu hướng chung là phát triển, con người luôn luôn hướng tới cái hoàn thiện, cái tốt đẹp. Trong một xã hội có nhiều các quan hệ xã hội. Xét các quan hệ về mặt xã hội ta có: quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, gia đình, quan hệ giữa các liên minh, giữa các cá nhân và xã hội, giữa các cộng đồng xã hội. Xét về mặt tổ chức và kỹ thuật đó là sự tương tác của con người trong quá trình lao động trực tiếp, trao đổi các hoạt động. Xét về mặt vật chất ta có các quan hệ sản xuất, xét về mặt tư tưởng ta có các quan hệ tư tưởng như: các quan hệ chính trị, các quan hệ đạo đức, các quan hệ thẩm mỹ, các quan hệ pháp quyền các quan hệ tôn giáo. Trong các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất giữ vai trò quyết định đã tạo ra đời sống của con người. Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất. Nó bao gồm quanhệ với tư liệu sản xuất, tức là hình thức sử hữu (cơ sở của quan hệ sản xuất), quan hệ tổ chức vàquản lý sản xuất; quan hệ phân phối và tiêu ding của cải vật chất. Các quan hệ phân phối và tiêu ding của cải vật chất. Các quan hệ sản xuất cấu thành mặt tất yếu của mọi phương thức sản xuất bởi con người chỉ có thể tiến hành sản xuất khi giữa họ kết hợp với nhau theo một phương thức nào đó. Yếu tố chủ yếu, mặt quan trọng nhấyt của quan hệ sản xã hộiất là quan hệ kinh tế mà trên nên tảng là quan hệ với tư liệu sản xuất. Quan hệ kinh tế (sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng) tạo ra hạt nhân của quan hệ sản xuất, hình thành nội dung của những quan hã hội khác. Theo quan niệm duy vật lịch sử, quan hệ sản xuất là cơ sở của các quan hệ xã hội khác, những các quan hệ xã hội tác động lẫn nhau, xen kẽ cới nhau. Bản thân quan hệ sản xuất là quan hệ xã hội của con người trong sản xuất. Nó hình thành và biến đổi cùng sự biến đổi của quan hệ giữa con người với tự nhiên. Điều đó có nghĩa là các quan hệ xã hội qui định bản chất con người được triết học C. Mác xem xét không tách rời, cô lập với quan hệ giữa con người với tự nhiên. Trong quá trình lao độngđể tạo ra những tư liệu thoả mãn nhu cầu của mình, con người đã tác động đến giới tự nhiên và biến đổi nó. Đồng thời chính lao động lại là nền tảng phát sinh ra những quan hệ xã hội của con người, trước hết là quan hệ kinh tế. Quan hệ kinh tế đến lượt nó lại là nền tảng cho sự phân hoá con người về mặt xã hội. “Trong sự sản xuất sh ra đời sống của mình, con người ta có những quan hệ nhất định tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ-tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ… Như vậy, lao động và quan hệ sản xuất là những lực lượng vật chấtcủ yếu dẫn đến sự xuất hiện và hình thành ra cuộc sống con người; đồng thời cũng là quá trình hình thànhnên bản chất con người. C. Mác xem bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội có nghĩa bản chất con người không phải là sự tập hợp, hay tổng số số học giảm đơn các quan hệ xã hội phức tạp, đa dạng, chằng chịt mà đó là mộtbản chất “hất thời”, nõ sẽ mất đI khi giai cấp mất đi. Bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội song trong xã hội có giai cấp tính giai cấp nổi lên hành đầu. Nhưng tính ngowif là cái chung nó nằm trong tính giai cấp, tức cáI riêng, nó thể hiện thôn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBC1729.DOC