Mục lục Trang
I. Tựa đề
II. Tóm tắt 2
III. Giới thiệu . . 4
IV. Nội dung
4.1 Cơ cấu tổ chức . 5
4.1.1. Cấp quốc gia . 6
4.1.2. Cấp khu vực 7
4.2. Tài chính BHYT . 8
4.3.Cơ chế thanh toán . 8
4.4. Các dịch vụ được cung cấp . 9
4.4.1. Y tế công cộng . . 9
4.4.2 Phương thức chăm sóc bệnh nhân . . 10
4.4.3 Chăm sóc sức khỏe ban đầu . 10
4.4.4. Chăm sóc bệnh nhân nội trú 11
4.4.5. Hệ thống phân phối thuốc . 11
4.4.6. Trung tâm phục hồi chức năng . 12
4.4.7.Chăm sóc dài hạn . .13
4.4.8. Chăm sóc sức khỏe răng miệng .14
4.4.9. Chăm sóc giảm nhẹ .15
4.4.10. Chăm sóc sức khỏe tâm thần .15
4.4.11. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em .16
4.4.12. Chăm sóc dân cư cụ thể .17
4.5.Những cải cách chính của hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển.17
V. Kết quả .19
5.1. Những mặt đạt được .19
5.2. Một số hạn chế và giải pháp 24
VI. Lời cảm ơn .24
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2348 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an, bộ và hội đồng với sự phân chia trách nhiệm nghĩa vụ cụ thể của từng hội đồng như sau.
Bộ y tế và xã hội chịu trách nhiệm chuẩn bị nội dung và những giao dịch kinh doanh, những vấn đề về chính sách pháp luật đối với việc chăm sóc sức khỏe,các dịch vụ phúc lợi xã hội. Ngoài ra còn hỗ trợ tài chính và giám sát hoạt động của cơ quan cấp dưới.
Hội đồng y tế và phúc lợi quốc gia là cơ quan của chính phủ có chức năng giám sát các hội đồng quận và giám sát trung tâm tư vấn cho các dịch vụ y tế và xã hội. Hội đồng giám sát thực hiện các vấn đề chính sách công, pháp luật về chăm sóc sức khỏe và các dịch vụ phúc lợi xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất là để theo dõi và đánh giá các dịch vụ cung cấp để xem chúng có tương ứng với các mục tiêu đặt ra của Chính phủ hay không. Ngoài ra nó còn có chức năng giữ số liệu thống kê chính thức về sức khỏe và chăm sóc sức khỏe. Giám sát các nhân viên chăm sóc sức khỏe và cấp giấy phép cho các bác sĩ, nha sĩ và nhân viên y tế khác. Hội đồng bao gồm các Trung tâm “Dịch tễ học” có mục tiêu là mô tả, phân tích và báo cáo về sự phân bố và phát triển của sức khỏe và bệnh tật.
Hội đồng quản trị là cơ quan được chỉ định theo sự chỉ thị Cộng đồng Châu Âu có nhiệm vụ công nhận về văn bằng, chứng chỉ liên quan đến các ngành nghề y tế.
Hội đồng trách nhiệm y tế là một cơ quan chính phủ quyết định về các biện pháp kỷ luật trong trường hợp khiếu nại hoặc sơ suất có thể xảy ra.
Hội đồng quản trị lợi ích dược phẩm là một cơ quan độc lập với Chính phủ, bắt đầu hoạt động từ ngày mùng 1 tháng 10 năm 2002, có nhiệm vụ là quyết định chương trình trợ cấp dược phẩm bao gồm những sản phẩm thuốc nào và để xác định giá.
Hội đồng thụy điển về khoa học công nghệ trong chăm sóc sức khỏe có nhiệm vụ là thúc đẩy việc sử dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào chăm sóc y tế.
Viện Y tế công cộng là một cơ quan nhà nước trực thuộc Bộ Y tế và Xã hội có nhiệm vụ nâng c sao sức khỏe và ngăn ngừa bệnh tật.
Tổng công ty thuốc quốc gia Thụy Điển là công ty nhà nước độc quyền sở hữu tất cả các hiệu thuốc và do đó duy trì một hệ thống phân phối trên toàn quốc. Ngoài ra, có trách nhiệm cung cấp cho công chúng và các bác sĩ về các thong tin quan trọng khác.
Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển là cơ quan ban hành các loại bảo hiểm và tạo nên lợi ích bảo hiểm xã hội tại Thụy Điển. Ngoài ra, nhiệm vụ của Cơ quan này cũng bao gồm việc thiết kế để ngăn ngừa và giảm bệnh tật. 4.1.2. Cấp khu vực
Các hội đồng tỉnh có trách nhiệm tổng thể cho tất cả các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và có thẩm quyền về cơ cấu các bệnh viện. Ban điều hành của hội đồng quận, hoặc bệnh viện do hội đồng quản trị bầu, quyết định làm thế nào để tổ chức quản lý. Điều hành viên của hội đồng quản trị đảm bảo hoạt động chăm sóc sức khỏe đạt hiệu quả.
Ở cấp độ khu vực, hội đồng quận và chính quyền trung ương thông qua các hình thức của hệ thống chăm sóc sức khỏe tại cơ sở. Các hội đồng quận quy hoạch phát triển và tổ chức chăm sóc sức khỏe theo nhu cầu của cư dân của họ. Trách nhiệm lập kế hoạch của họ cũng bao gồm các dịch vụ y tế được cung cấp bởi các nhà tài trợ khác chẳng hạn như nhân viên tư vấn và bác sĩ trong ngành y học
4.2. Tài chính BHYT
Kinh phí của hệ thống chăm sóc y tế ở Thụy Điển chủ yếu là từ thuế. Cả hội đồng quận và thành phố đều có quyền đánh thuế thu nhập theo tỉ lệ dân số của họ. Cơ quan bảo hiểm xã hội Thụy Điển đảm bảo về mặt tài chính trong các trường hợp bệnh tật và khuyết tật. Đa số bảo hiểm y tế quốc gia được tài trợ bởi các khoản đóng góp từ người sử dụng lao động phần còn lại được tài trợ bởi khoản thanh toán chuyển giao cụ thể từ chính quyền trung ương.
4.3. Cơ chế thanh toán
Bệnh nhân ở Thụy Điển phải trả phí khám chữa bệnh do hội đồng quận quy định; Quốc hội đặt ra mức chi trả cao nhất mà người dân phải trả tại bất kỳ thời điểm nào trong vòng 12 tháng. Điều này có nghĩa là bệnh nhân chỉ phải trả một số tiền không vượt quá một mức tối đa nào đó cho việc chăm sóc sức khỏe trong vòng 12 tháng. Sau khi đã đạt tới mức phí trần (tính cả chăm sóc bệnh nhân nội trú). Sau khi đã đạt tới mức phí trần bệnh nhân không trả thêm các chi phí cho những phần còn lại trong thời gian 12 tháng. Khoảng thời gian 12 tháng được tính từ việc khám bệnh đầu tiên cho bệnh nhân của bác sĩ.
Trong hầu hết các hội đồng quận thì bệnh nhân là trẻ em và thanh thiếu niên (dưới 20 tuổi) được miến phí. Chỉ có một số ít quận có thu phí nhưng mức phí cũng thấp.
Trẻ em và thanh thiếu niên dưới 20 tuổi cũng được cung cấp miễn phí trong chăm sóc sức khỏe răng miệng. Riêng đối với người lớn thì nhận được sự trợ cấp tài chính từ hệ thống bảo hiểm quốc gia nha khoa để chăm sóc cơ bản về răng miệng.
4.4. Các dịch vụ được cung cấp
4.4.1. Y tế công cộng
Mục đích của việc thực hiện y tế công cộng của Thụy Điển là cố gắng cải thiện y tế công cộng và làm giảm sự khác biệt về sức khỏe cho các nhóm dân số khác nhau, các khu vực địa lý khác nhau. Mọi người đều có cơ hội như nhau để có sức khỏe tốt không phân biệt giới tính, học vấn, tầng lớp xã hội hay người khuyết tật.
Nội dung của y tế công cộng tại Thụy Điển là tổ chức công khai toàn diện các dịch vụ y tế cộng cộng, chẳng hạn như chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, y tế học đường, tiêm phòng và kiểm tra sức khỏe, chương trình kiểm tra và ngăn ngừa những tác hại của rượu, lạm dụng ma túy, thuốc lá và nghiện cờ bạc, và thúc đẩy các hoạt động cơ học như thói quen ăn uống lành mạnh và sức khỏe tình dục và sinh sản. Hơn nữa, kiểm soát bệnh truyền nhiễm, chẳng hạn như công tác phòng chống HIV/ AIDS.
Công tác dự phòng và chăm sóc sức khỏe được thực hiện trên phạm vi toàn dân. Cụ thể như việc tiến hành đo huyết áp, máu và chất béo...tại các trung tâm y tế. Đặc biệt các chương trình giáo dục sức khỏe về sử dụng rượu, thuốc chế độ ăn uống và là tất cả chức năng thường được thực hiện bởi các học viên nói chung. Tất cả các học viên đều tham gia cung cấp một số dịch vụ chẩn đoán trong tiêm chủng và giám sát sức khỏe trẻ em. Một số chương trình, đặc biệt như đối với sức khỏe của phụ nữ (cổ tử cung ung thư và ung thư vú) được tổ chức tập trung bởi các các kế hoạch của hội đồng tỉnh. Bên cạnh đó nữ hộ sinh, y tá và bác sĩ đa khoa huyện cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình.
Ngoài ra trong hoạt động y tế công cộng còn có sự giúp đỡ và hỗ trợ của các nhân viên công tác xã hội trong việc tuyên truyền, giúp đỡ và hỗ trợ hoàn thành mục tiêu của y tế công cộng. Như giúp người dân hiểu được tác hại của rượu, thuốc lá, và các chất kích thích khác, thực hành các hoạt động y tế công cộng diễn ra ở cấp địa phương, trong lĩnh vực chăm sóc trẻ em, trong các trường học và ở nơi làm việc. Y tế học đường và giáo viên cho giáo dục sức khỏe nói chung.
4.4.2 Phương thức chăm sóc bệnh nhân.
Mục tiêu của Chính sách chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển trong suốt 25 năm qua đã tập trung quyền lợi của các bênh nhân của mình bằng các ưu tiên cho bệnh nhân có nhu cầu rất lớn về Nghe
Đọc ngữ âm
dịch vụ chăm sóc sức khỏe, mở rộng thêm cơ hội cho bệnh nhân để lựa chọn người chăm sóc sức khỏe, và đảm bảo sức khỏe được cải thiện.
4.4.3 Chăm sóc sức khỏe ban đầu
Chăm sóc sức khỏe ban đầu là những chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên những phương pháp và kỹ thuật thực hành, đưa đến tận cá nhân và từng gia đình trong cộng đồng, được mọi người chấp nhận thông qua sự tham gia đầy đủ của họ, với giá thành mà họ có thể chấp nhận được nhằm đạt được mức sức khỏe cao nhất có thể được. Chăm sóc sức khỏe ban đầu nhấn mạnh đến những vấn đề sức khỏe chủ yếu của cộng đồng, đến tăng cường sức khỏe, phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi sức khỏe.
Mục đích của lĩnh vực chăm sóc sức khỏe ban đầu là để cải thiện sức khỏe chung của dân số và để điều trị bệnh và thương tích mà không cần phải nhập viện. Các dịch vụ chăm sóc ban đầu bao gồm cả chăm sóc cơ bản và dự phòng bệnh, các dịch vụ chữa bênh được phân phối thông qua các trung tâm chăm sóc y tế địa phương.
Nội dung: Hướng dẫn các cấp thực hiên công tác chăm sóc ban đầu như sau: toàn diện, sự gần gũi và khả năng tiếp cận, liên tục, chất lượng và an toàn. dịch vụ chăm sóc ban đầu bao gồm: giáo dục sức khỏe nhằm thay đổi lối sống và thói quen không lành mạnh, cung cấp đầy đủ thực phẩm và dinh dưỡng hợp lý, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em trong đó có kế hoạch hóa gia đình, tiêm chủng phòng chống 6 bệnh nhiễm trùng phổ biến ở trẻ em, phòng chống các bệnh dịch lưu hành phổ biến ở địa phương, cung cấp các loại thuốc thiết yếu… các chương trình tiêm chủng cho trẻ em, kiểm tra khi mà đang mang thai, kiểm tra sức khỏe và tư vấn, cũng như một số các loại hình điều trị. Mỗi hội đồng tỉnh quyết định làm thế nào để cung cấp chăm sóc ban đầu cho dân số mà tỉnh chịu trách nhiệm. Ngay cả khi chăm sóc chủ yếu là công khai cung cấp, cũng có nhà cung cấp tư nhân ở cấp độ này. Ngoài y tế địa phương các trung tâm và gia đình, bác sĩ phẫu thuật, bác sĩ tư nhân và vật lý trị liệu, y tá bệnh viện huyện và bệnh viện cho trẻ em và chăm sóc sức khỏe thai sản cung cấp chăm sóc. trung tâm y tế tư nhân và các học viên là tương đối phổ biến ở các ở các thành phố lớn và ở các vùng đô thị.
4.4.4. Chăm sóc bệnh nhân nội trú
Chăm sóc bệnh nhân nội trú là việc chăm sóc bệnh nhân trong các trường hợp đòi hỏi phải nhập viện. Những tiến bộ trong y học hiện đại và sự ra đời của các phòng khám ngoại trú đảm bảo rằng bệnh nhân chỉ được nhận vào bệnh viện khi họ đang trong tình trạng nguy kịch, gặp phải tai nạn hay chấn thương nghiêm trọng.
Các trung tâm dịch vụ được cung cấp bởi các chuyên gia y tế người thường không có liên hệ trước với các bệnh nhân, ví dụ, tim mạch, tiết niệu và các bác sĩ da liễu.
Nội dung với các điều kiện cần điều trị bệnh viện, được cung cấp dịch vụ y tế tại huyện và bệnh viện khu vực. Tại Thụy Điển, một tỷ lệ tương đối lớn của nguồn lực sẵn có cho các dịch vụ y tế đã được phân bổ cho việc cung cấp chăm sóc và điều trị tại bệnh viện. Các bệnh viện ở Thụy Điển được chia thành các bệnh viện quận, Đối huyện, trung tâm bệnh viện huyện và bệnh viện khu vực, phụ thuộc vào kích thước và mức độ ít nhất bốn chuyên ngành: nội y học, phẫu thuật, X quang, và gây mê.
4.4.5. Hệ thống phân phối thuốc
Ngay từ thế kỷ XVII việc phân phối thuốc đã trở thành một phần của hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển. Đến năm 2003 tất cả các hiệu thuốc của Thụy Điển thuộc sở hữu của nhà nước và quản lý bởi các công ty thuốc quốc gia Thụy Điển. Tất cả dược phẩm ở Thụy Điển được phân phối và bán cho công chúng phụ thuộc hoàn toàn vào bởi Tổng công ty thuốc quốc gia, nhà thuốc bệnh viện hoạt động theo hợp đồng một năm với các hội đồng quận. Từ năm 2009, việc độc quyền nhà nước trong lĩnh vực này đã được bãi bỏ và thị trường mở cửa cho đối thủ cạnh tranh khác.
Trước khi thuốc mới hoặc sản phẩm y tế mới có thể được bán ra, nó phải được phê duyệt và đăng ký với Cơ quan y tế - một cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm quy định và giám sát phát triển, sản xuất và bán các loại thuốc và các sản phẩm thuốc khác. Dược phẩm sử dụng trong các bệnh viện được mua sắm trực tiếp bởi các hội đồng quận nên chi phí thường thấp hơn so với ngoài thị trường.
Để cho một loại thuốc được đưa vào thử nghiệm lâm sàng và ứng dụng như là một phần của Đề án Trợ cấp Dược phẩm quốc gia, phải đươc Tổ chức thử nghiệm lâm sàng phê chuẩn. Tuy nhiên, nếu tổ chức này bác bỏ một loại thuốc ở cấp quốc gia, một hội đồng tỉnh có thể quyết định để tài trợ cho nó, miễn là các tiêu chí cụ thể được đáp ứng (ví dụ nếu một loại thuốc có hiệu quả nhưng chỉ đáp ứng cho số ít nguời cần, trong một bệnh nghiêm trọng, nơi có chỉ một số ít bệnh nhân đã lựa chọn không điều trị). Hơn nữa, bệnh nhân có thể mua thuốc ở các hiệu thuốc tư nhân nhưng sẽ không được hoàn lại các chi phí dịch vụ y tế của quốc gia. Cơ quan sản phẩm y tế quốc gia chịu trách nhiệm quy định và giám sát sự phát triển, sản xuất, và bán các sản phẩm thuốc.
Như vậy việc quản lý thuốc và chế biến dược phẩm đươc nhà nước quản lý khá nghiêm ngặt từ việc quản lý sản xuất thuốc, định giá dựoc phẩm và đến tận khâu phân phối đó là hệ thống các của hàng .
4.4.6. Trung tâm phục hồi chức năng
Hầu hết bệnh nhân xuất viện có nhu cầu rất lớn về việc tiếp tục chăm sóc từ khu vực chăm sóc ban đầu. Để đáp ứng nhu cầu đó thì đa số các bệnh viện đã giúp bệnh nhân liên hệ trực tiếp với một y tá huyện hoặc nơi cư trú của bệnh nhân. Nhưng thực tế kết quả đạt được không cao bởi không phải bác sỹ nào cũng tận tình chăm sóc những bệnh nhân ngoại trú, và chất lượng dịch vụ y tế ở mỗi địa phương là khác nhau nên việc hưởng các dịch vụ chăm sóc ngoại trú của người bệnh cũng khác nhau.
Một phương pháp mới để cải thiện hợp tác trong việc chăm sóc sức khỏe giữa các trung tâm y tế và bệnh viện đã được giới thiệu trong một số hội đồng quận. Theo đó tổng các bác sĩ từ khu vực chăm sóc ban đầu dành một tỷ lệ thời gian làm việc nhất định của họ tại các phòng khám bệnh viện hàng tháng để chia sẻ kiến thức về công việc và nguồn lực sẵn có tại các trung tâm, đổi lại họ được nhận thêm quyền lợi khi tham gia chương trình này. Đây là chương trình do các bác sĩ nói chung và các chuyên gia chăm sóc thực hiện, nhằm cải thiện chất lượng chăm sóc và sự hợp tác giữa các bác sĩ, đã được phát triển tại các địa phương. Mô hình này càng được mở rộng hơn và đi sâu vào chăm sóc từng bệnh cụ thể: trung tâm chăm sóc người bị bệnh tiểu đường, thận,…
Các hội đồng tỉnh có trách nhiệm đối với các bệnh nhân cho đến khi bệnh nhân có đầy đủ điều trị y khoa, tức là cho đến khi bệnh nhân không còn đòi hỏi phải chăm sóc tại bệnh viện. Một khi bệnh nhân được điều trị y khoa đầy đủ và một kế hoạch chăm sóc được phát triển, trách nhiệm đối với bệnh nhân được chuyển giao cho thành phố. Như vậy sẽ đảm bảo được việc chăm sóc thường xuyên hơn cho bệnh nhân tại nhà riêng. Nhưng cũng chính vì vậy mà gây nên sự căng thẳng giữa Hội đồng quận và các đô thị.
4.4.7.Chăm sóc dài hạn
Ngay từ những năm 1980 trong luật về các dịch vụ xã hội đã quy định rằng người già có quyền nhận các dịch vụ công cộng và giúp đỡ ở tất cả các giai đoạn trong cuộc sống. Ngoài ra, người già và người khuyết tật thường được trợ cấp cơ sở vật chất để chăm sóc sức khỏe
Thụy Điển là một trong những nước có dân số già nhất trên thế giới. Chăm sóc người già ở Thụy Điển là gần như hoàn toàn tài trợ bởi các khoản thuế. Người cao tuổi ở Thụy Điển được cung cấp miễn phí các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và có thể đến ở miễn phí tại các nhà dưỡng lão.
Đối với chăm sóc người tàn tật, nguyên tắc là tất cả mọi người có quyền bình đẳng đối trong việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế. Trong Năm 1994, Luật người tàn tật cải cách đã mở rộng các quyền lợi của người khuyết tật. Người khuyết tật được hỗ trợ các dịch vụ xã hội theo các điều khoản của Luật và dưới luật. Theo đó người khuyết tật sẽ được mở rộng một số các quyền lợi sau: hộ trợ các dịch vụ cá nhân cho sinh hoạt hang ngày…
Các đô thị và các hội đồng quận chịu trách nhiệm về các dịch vụ xã hội để chăm sóc sức khỏe. Việc giám sát thực hiện các dịch vụ xã hội cho người tàn tật thuộc về các hội đồng địa phương. Bên cạnh đó Hội đồng Y tế và Phúc lợi Quốc gia có trách nhiệm hỗ trợ, giúp đỡ gia đình những người tàn tật.
4.4.8. Chăm sóc sức khỏe răng miệng.
Sức khỏe răng miệng cũng đóng vai trò không nhỏ tạo nên hình ảnh đẹp trong giao tiếp và quan trọng hơn là ảnh hưởng đến sức khỏe toàn thân của mỗi người.
Thụy Điển là một trong những nước có hệ thống chăm sóc sức khỏe răng miệng cho người dân tôt nhất. Họ đã nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của sức khỏe răng miệng cũng như giáo dục cho người dân ý thức chăm sóc răng miệng ngay từ khi còn nhỏ.
Nội dung của hệ thống chăm sóc sức khỏe răng miệng ở Thụy Diển được thực hiện trên 2 mạng lưới:
Thứ nhất, Mạng lưới dự phòng bệnh răng miệng:
Là nội dung quan trọng nhất nhằm hạn chế tối đa bệnh răng miệng xảy ra, các dịch vụ dự phòng sức khỏe răng miệng có mục đích loại trừ hoặc giảm thiểu bệnh răng miệng trong cộng đồng.
Thứ hai, mạng lưới điều trị bệnh răng miệng: Giảm đau; ngăn chặn nhiễm trùng và chuyển tuyến trên khi cần thiết; cấp cứu chấn thương hàm mặt…Việc khám răng được thực hiện định kỳ 6 tháng/lần
4.4.9. Chăm sóc giảm nhẹ
Nghe
Đọc ngữ âm
Nghe
Đọc ngữ âm
Nghe
Đọc ngữ âm
Chăm sóc giảm nhẹ là các biện pháp nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người mắc bệnh đe doạ cuộc sống và gia đình họ bằng cách phòng ngừa, phát hiện sớm, điều trị đau và các triệu chứng thực thể, các vấn đề tâm lý và tinh thần mà bệnh nhân và gia đình họ phải chịu đựng.
Chăm sóc giảm nhẹ chịu sự quản lý của Hội đồng quận và thành phố. Các đơn vị chăm sóc giảm nhẹ được đặt tại bệnh viện và trung tâm cấp cứu.
Thụy Điển đã xây dựng một chương trình chăm sóc giảm nhẹ quốc gia một cách hoàn hảo bao gồm cả việc đào tạo cán bộ chuyên môn, đưa ra những chuẩn mực trong việc thực hành chăm sóc giảm nhẹ cho những người đang mắc các bệnh đe doạ cuộc sống, bao gồm cả người lớn và trẻ em nhiễm HIV và bị ung thư, các yếu tố thiết yếu trong chăm sóc giảm nhẹ, kể cả chẩn đoán và xử trí đau hoặc các triệu chứng khác. Hỗ trợ về tâm lý, chăm sóc về tinh thần và chăm sóc cuối đời, tư vấn và chăm sóc cho người nhà bệnh nhân.
Thụy Điển đã hướng dẫn chi tiết về thực hành chăm sóc giảm nhẹ với tiêu chuẩn chất lượng, có danh mục kiểm tra và hướng dẫn giám sát đảm bảo cung cấp một dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ theo tiêu chuẩn, nhằm hỗ trợ cho việc mở rộng các dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ tại nhà, cộng đồng và các bệnh viện. Cung cấp các dịch vụ chăm sóc giảm nhẹ và tiếp cận thuốc giảm đau với mức phí thấp cho những bệnh nhân đang mắc căn bệnh đe doạ cuộc sống.
4.4.10. Chăm sóc sức khỏe tâm thần
Trước đây, ở Thụy Điển tâm thần học gần như có sự tách biệt với những chuyên ngành khác của y học thì ngày nay khoảng cách đó đã thu hẹp dần và bệnh lý tâm thần có thể thấy và được nhận ra ở người bệnh có những bệnh lý khác nhau, được điều trị kết hợp làm cho tình trạng sức khỏe của người bệnh ngày một tốt hơn.
Việc ứng dụng nhiều loại thuốc mới trong điều trị đã giúp bệnh nhân tâm thần mạn tính cải thiện tốt về hiệu quả điều trị, tuân thủ điều trị và hạn chế được những tác dụng không mong muốn của thuốc.
Hiện nay Thụy Điển đã xây dựng chiến lược chăm sóc sức khỏe tâm thần bao gồm các nội dung: cải thiện sức khỏe tâm thần cho cộng đồng, Đảm bảo tiếp cận được các dịch vụ y tế phù hợp và hiệu quả về gía cả bao gồm cả phương diện tăng cường sức khỏe tâm thần, các dịch vụ dự phòng; Đảm bảo chăm sóc phù hợp và bảo vệ quyền con người đối với những bệnh nhân bị rối loạn tâm thần nặng đang sống ở những cơ sở từ thiện; Đánh giá và quản lý vấn đề SKTT tại cộng đồng, kể cả những đối tượng dễ bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ và người già; Tăng cường lối sống lành mạnh và giảm các yếu tố có nguy cơ đối với các rối loạn SKTT và hành vi như môi trường gia đình không bền vững; Hỗ trợ cho cuộc sống gia đình ổn định, gắn kết xã hội và phát triển nhân văn; Tăng cường các nghiên cứu nguyên nhân của các rối loạn tâm thần và hành vi, phát triển các liệu pháp điều trị hiệu quả, đồng thời giám sát và đánh giá hệ thống SKTT
4.4.11. Chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em
Thụy Điển là nơi lý tưởng nhất cho những phụ nữ muốn làm mẹ. Tại Thụy Điển, tất cả các bà mẹ mang thai đều được nhân viên y tế theo dõi và chăm sóc cho tới khi sinh nở. Với sự chăm sóc tốt nhất, nhiều đôi vợ chồng đã chọn trung tâm y tế của Thụy Điển là nơi chào đời cho đứa con của họ và bắt đầu một cuộc sống gia đình mới.
Ở Thụy Điển đã có nhiều trung tâm chăm sóc sức khỏe trẻ em, các trung tâm này đã hợp tác thực hiện các dự án với các tổ chức trong nước cũng như quốc nhằm mục đích: phòng ngừa bỏ rơi trẻ em, tìm gia đình thay thế cho trẻ bị bỏ rơi, giáo dục trẻ em hiểu các quyền của trẻ em, hỗ trợ trẻ em; Giúp trẻ em mồ côi tìm được cội nguồn khi trưởng thành như tổ chức các chuyến đi về đất nước sinh ra trẻ; Tổ chức các hoạt động cho các gia đình nhận con nuôi (kiến thức về nhận con nuôi, giáo dục kĩ năng và chia sẻ kinh nghiệm…
4.4.12. Chăm sóc dân cư cụ thể.
Theo pháp luật Thụy Điển, tất cả các công dân có quyền được điều trị thích hợp trong trường hợp bệnh tật hoặc chấn thương. Tất cả các nhóm xã hội được hưởng các lợi ích tương tự trong hệ thống y tế chính
4.5. Những cải cách chính của hệ thống chăm sóc sức khỏe của Thụy Điển
Luật dịch vụ Y Tế năm 1982 nội dung của luật nói rằng hội đồng tỉnh chịu trách nhiệm đối với các dịch vụ y tế và trách nhiệm tài chính được phân cấp cho các hội đồng quận. Luật nhấn mạnh tới mục tiêu là chăm sóc sức khỏe bình đẳng cho mọi công dân. Và đặc biệt chú ý tới các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, ví dụ: người già, người nhập cư và người về hưu sớm. Luật cũng nhấn mạnh rằng các cơ quan địa phương phải tạo điều kiện cho người khuyết tật làm việc phù hợp với tình trạng sức khỏe của họ. Ngoài ra Luật năm 1982 cũng đưa ra những quy định về việc phân cấp trách nhiệm tài chính.
Cải cách Dagmar năm 1985. Trước năm 1985 cơ quan bảo hiểm xã hội khu vực hoàn trả các dịch vụ chăm sóc ban đầu theo một lệ phí thống dựa trên số lượng tham vấn. Sau cải cách Dagmar Cơ quan Bảo hiểm xã hội Thụy Điển chịu trách nhiệm tổ chức giải ngân khoản tài trợ chăm sóc sức khỏe nói chung cho các hội đồng quận/ đầu người. Cải cách Dagmar đã tăng cường trách nhiệm của hội đồng quận trong việc “cung cấp dịch vụ y tế, cũng như định hướng dựa theo nhu cầu của quy hoạch”.
Cải cách Adel năm 1992 là cải cách cơ cấu lớn nhất của những năm 1990. Nó chuyển giao trách nhiệm cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe dài hạn cho người già và người tàn tật từ các hội đồng quận đến các đô thị của từng địa phương. Lý do chính thực hiện cải cách Adel là để sắp xếp kế hoạch tài chính và nâng cao hiệu quả thực hiện các dịch vụ cho người cao tuổi (bao gồm dịch vụ tại nhà riêng, dịch vụ tại các nhà dưỡng lão) ở các đô thị.Các mục tiêu chính của cải cách này là để tạo điều kiện sống tốt nhất cho người già. Những cải cách đó có ảnh hưởng đáng kể đến cơ cấu của hệ thống chăm sóc sức khỏe. Nhờ vậy mà những người cao tuổi không nhất thiết phải điều trị ở bệnh viện mà có thể điều trị tại nhà hoặc các nhà dưỡng lão.
Năm 1993, Mở rộng phạm vi các đối tượng được hưởng ưu tiên trong y tế bao gồm: người cao tuổi, người mắc bệnh tâm thần và người tàn tật. Có thể nói đây là một sự bổ sung cho các cải cách Adel.
Năm 1994,1995,2003 đã có thêm cải cách nhằm bổ sung thêm quyền lợi cho những đối tượng là bệnh nhân tâm thần và người khuyết.
Năm 1997 đã sửa đổi, bổ sung những quy định về Bảo lãnh quốc gia về y tế điều trị năm 1992. Trong phiên bản sửa đổi, khả năng tiếp cận chăm sóc y tế tìm kiếm trong các chính và chăm sóc chuyên gia đã được quy định. Bệnh nhân cần được chăm sóc từ y tá học viên tại trung tâm y tế trong cùng một ngày. Một cuộc hẹn để xem bác sĩ phải được cung cấp trong vòng 7 ngày. Khi bệnh nhân được giới thiệu chuyên gia chăm sóc, bổ nhiệm một nên được cung cấp trong vòng 3 tháng, và khi chẩn đoán không rõ ràng, một cuộc hẹn để xem một chuyên gia phải được cung cấp trong vòng một tháng. Trong trường hợp chuyên gia chăm sóc có thể không được cung cấp trong khung thời gian này, bệnh nhân được tự do để tìm sự chăm sóc trong một hội đồng quận.Ngoài việc thực hiện bảo lãnh quốc gia, hội đồng quận cũng có thể xây dựng đảm bảo điều trị riêng của họ.
Vào cuối những năm 1990, cải cách ma túy đã được triển khai trong hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên được giới thiệu vào tháng Sáu năm 1997. Đã quy định về việc đồng thanh toán dược phẩm đối với bệnh nhân. Và các thanh toán đó được tách từ mức giới hạn cao nhất về chi phí trong việc sử dụng các phương pháp điều trị y tế. Giai đoạn thứ hai đã diễn ra vào năm 1998. Các Hội đồng quận đã được trao trách nhiệm hoàn toàn về các chi phí điều trị thuốc.
Từ tháng 1 năm 1999, Luật dịch vụ y tế năm 1982 đã được bổ xung thêm một số điều khoản nhằm tăng thêm nghĩa vụ cuar hội đồng quận đối với bệnh nhân. Theo đó một số quyền lợi của bệnh nhân được tăng lên cụ thể như họ có quyền được lựa chọn bác sĩ chăm sóc – quyền này không bị hạn chế bởi khu vực địa lý nhất định. Bệnh nhân cũng có quyền nhận được những điều kiện về khám chữa bệnh chăm sóc súc khỏe của bản thân mình.
Cũng năm 1999 đã triển khai cải cách về răng miệng. Cải cách này đã cố định mức trợ cấp cho các loại hình dịch vụ cùng với một số các dịch vụ miễn phí từ nhà cung cấp.
Vào tháng 7 năm 2002, đã bổ sung thêm một số điều khoản mới về cải cách răng miệng năm 1999. Thực hiện đề án chăm sóc răng miệng nâng cao cho người trên 64 tuổi. Tuy nhiên, chi phí cho việc chăm sóc nha khoa vẫn còn chưa được cao. Khoảng 60% tổng chi tiêu cho việc chăm sóc nha khoa được trả trực tiếp cho bệnh nhân.
Trong tháng 10 năm 2002, những điều khoản mới về cải cách dược phẩm có hiệu lực.Kể từ đó, một cơ quan mới – hội đồng quản trị lợi ích dược phẩm , đã quyết định nếu một loại thuốc hoặc sản phẩm cụ thể cần được trợ giá, và sau đó thì phải được thông qua trong các cuộc đàm phán với các nhà sản xuât để quy định một mức giá.
V. Kết quả
5.1. Những mặt đạt được
Hệ thống chăm sóc y tế của Thụy Điển đã được xã hội hóa. Hầu hết mọi người dân trên đất nước đã được tiếp cận với chương trình chăm sóc sức khỏe một cách phổ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hệ thống chăm sóc sức khỏe ở Thụy Điển.doc