Việc dựbáo tài chính của hệthống hưu trí phụthuộc vào các chỉsốnhưsốngười
đóng góp cho hệthống (sốngười thực sựtham gia hệthống) và mức đóng trung bình
của những người này. Tương tựnhưvậy, quyết định đến dựbáo tài chính còn có các chỉ
sốnhưsốlượng người hưởng, mức hưởng, các chỉsốthu nhập và cách thức chỉsốhoá
(theo lạm phát hay theo mức lương cơbản). Cuối cùng, mức lãi đầu tưcủa khoản dựtrữ
từhệthống, các khoản thu nhập và chi phí khác.
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1971 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hệ thống hưu trí Việt Nam: Hiện trạng và những thách thức trong điều kiện dân số già hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g góp hiện tại thấp hơn so với tỷ lệ đóng góp bền vững – hay
còn gọi là tỷ lệ chi phí PAYG – và vì thế mà quỹ có thể bị cạn kiệt. Thứ ba, tỷ lệ thực
hiện có xu hướng giảm xuống do (i) sự thu hẹp của khu vực nhà nước, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhà nước; (ii) sự dịch chuyển của các đối tượng lao động giãn thải từ khu
vực nhà nước sang khu vực tư nhân nhưng lại không đăng ký tham gia vào hệ thống
bảo hiểm xã hội, và (iii) tỷ lệ tham gia của khu vực tư nhân còn quá thấp. Thứ tư, mức
hưởng được chỉ số hoá theo mức lương tối thiểu vẫn còn lớn, gắn liền với thời gian
hưởng dài do người hưởng lợi nghỉ hưu sớm và tuổi thọ có xu hướng tăng lên.
Các thách thức trong dài hạn còn có thể nghiêm trọng hơn nữa khi ta xét đến sự
công bằng giữa các thế hệ. Như đã đề cập trong rất nhiều nghiên cứu, hệ thống hưu trí
PAYG với mức hưởng được xác định trước trong điều kiện dân số già hoá cũng đồng
nghĩa với việc các thế hệ trẻ hiện nay và tương lai sẽ phải chịu gánh nặng lớn hơn mới
có thể trang trải được chi phí cho hệ thống. Gánh nặng lớn hơn này có thể được thể hiện
dưới nhiều dạng khác nhau, ví dụ như tỷ lệ đóng góp tăng lên liên tục, và vì thế mà
những người tham gia đóng góp cho hệ thống sẽ tìm cách trốn đóng hoặc nghỉ hưu sớm.
Tất cả những nhân tố kể trên khiến cho hệ thống hưu trí đối mặt với nhiều vấn đề,
và có thể làm cho hệ thống hưu trí rơi vào khủng hoảng trong tương lai, thể hiện bằng
sự bất ổn về mặt tài chính và sự bất công bằng giữa các thế hệ. Việc ổn định tài chính
và duy trì sự công bằng giữa các thế hệ trong hệ thống hưu trí PAYG với mức hưởng
được xác định trước với dân số già hoá nhanh chóng là những câu hỏi chính sách hóc
búa nhất đối với bất kỳ nền kinh tế nào. Do vậy, tìm ra những chính sách có thể áp dụng
phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định nhằm hạn chế những vấn đề này
và ổn định hệ thống là điều cần phải làm ngay.
10
III. PHƯƠNG PHÁP DỰ BÁO TÀI CHÍNH CHO HỆ THỐNG HƯU TRÍ
Phần này sẽ sử dụng các phương pháp dự báo thống kê do Tổ chức Lao động quốc
tế xây dựng để đánh giá sự bền vững tài chính của hệ thống hưu trí. Tất nhiên, các
phương pháp này được điều chỉnh nhằm thích ứng với những điều kiện kinh tế - xã hội
nhất định của Việt nam nói chung, và hệ thống hưu trí Việt nam nói riêng. Để dự báo
tài chính của hệ thống, chúng ta cần ba mô hình, đó là tổng dân số, nền kinh tế vĩ mô và
các chỉ số tài chính của hệ thống hưu trí.
Có ba bước để đánh giá thực trạng tài chính của hệ thống hưu trí, đó là bước đánh
giá nguyên trạng, bước đánh giá độ nhạy của các biến số và bước đề xuất các chính
sách cải cách. Bước đầu tiên được thực hiện trong điều kiện giả định rằng việc quản lý
và khung pháp lý của hệ thống hưu trí không thay đổi trong bối cảnh nền kinh tế xã hội
và dân số thay đổi. Bước thứ hai được thực hiện nhằm kiểm định dự báo nguyên trạng
nêu trên với những giả định khác nhau cho các chỉ số, ví dụ như tỷ lệ thực hiện, tỷ lệ
đóng góp và thay thế, để xem kết quả thu được có khác hay không và khác như thế nào
so với dự báo ban đầu. Bước thứ ba là đưa ra một số đề xuất chính sách nhằm ổn định
tài chính cho hệ thống và đảm bảo sự công bằng cho các thế hệ tham gia.
1. Dự báo dân số
Dự báo dân số của Việt nam được lấy từ dự báo dân số do Liên hợp quốc thực
hiện năm 2002 với giả định tỷ lệ sinh ở mức trung bình. Giả định này được sử dụng vì
tổng tỷ suất sinh trung bình của Việt nam đang có xu hướng giảm, nhưng vẫn giữ ở
mức 2,1 trẻ em/1 phụ nữ - tỷ lệ đảm bảo sự tái sinh của dân số.
2. Dự báo thị trường lao động
Từ tổng dân số ban đầu và các chỉ số dân số khác, ví dụ như tỷ lệ sinh, tỷ lệ chết,
tỷ lệ di cư, tổng dân số trong tương lai, bao gồm cả dân số trong độ tuổi lao động (tức là
từ 15 đến 59 tuổi), sẽ được dự báo. Bên cạnh đó, ta coi số lượng lao động là một tỷ lệ
nào đó của dân số trong độ tuổi lao động và dựa vào những biến đổi của tỷ lệ này trong
quá khứ, ta có thể dự đoán được số lượng lao động trong tương lai. Số lượng lao động
không có việc làm được tính bằng cách lấy dân số trong độ tuổi lao động trừ đi số lượng
lao động có việc làm (Hình 5).
11
Hình 5: Phương pháp dự báo thị trường lao động
Nguồn:Tổ chức Lao động quốc tế (1998)
Thông thường, số người đang làm việc bao gồm cả những người ngoài độ tuổi lao
động, nhưng sự tham gia lực lượng lao động của họ không đáng kể hoặc không được
thống kê đầy đủ nên trong dự báo, ta có thể bỏ qua số lượng người lao động này. Bên
cạnh đó, số người lao động cũng có thể được dự báo bằng cách chia kết quả dự báo
GDP thực tế cho kết quả dự báo tương ứng về năng suất lao động. Tuy nhiên, năng suất
lao động thường không được thống kê chính xác hoặc đầy đủ nên ta không sử dụng
phương pháp này.
3. Dự báo kinh tế vĩ mô
Tăng trưởng kinh tế và lạm phát
Trong ngắn hạn, tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm có thể tính toán dựa trên
những dự báo trong ngắn hạn về chiến lược kinh tế quốc gia. Trong dài hạn, tốc độ tăng
trưởng GDP được coi là một nhân tố ngoại sinh. Các giả định khi dự báo GDP trong cả
ngắn hạn và dài hạn được liên kết với nhau bằng phương pháp nội suy. GDP danh nghĩa
được tính bằng cách nhân GDP thực tế với chỉ số điều chỉnh GDP của từng năm. Chỉ số
điều chỉnh GDP trong quá khứ được tính bằng cách lấy GDP danh nghĩa chia cho GDP
thực tế. Sự thay đổi của chỉ số điều chỉnh GDP thường được dự đoán dựa trên những
giả định nào đó về lạm phát trong tương lai.
Tỷ lệ lạm phát thể hiện sự gia tăng của mức giá chung trong nền kinh tế và thường
được thể hiện bằng Chỉ số giá hàng tiêu dùng (CPI). Giả định về sự thay đổi của lạm
phát trong tương lai hết sức quan trọng đối với hoạt động dự báo thống kê của hệ thống
hưu trí nếu như tất cả mức hưởng của hệ thống này được chỉ số hoá theo giá cả của nền
kinh tế. Dự báo về lạm phát có thể dựa trên chiến lược kinh tế mà quốc gia đang theo
Tổng dân số
ban đầu
Tổng dân số
dự báo
Dân số trong tuổi
lao động ban đầu
Số lượng người làm việc (tính bằng % của dân số
trong độ tuổi lao động)
Tỷ lệ tham
gia lực lượng
lao động
Số thất nghiệp
(dự báo)
Số lao động có
việc làm (dự báo)
Dân số trong độ
tuổi lao động dự
báo
Tỷ lệ sinh, chết, di
cư...
12
đuổi cùng với các chính sách điều chỉnh của nó. Tuy nhiên, một điều cũng nên lưu ý là,
trong đánh giá thống kê, tỷ lệ lạm phát cũng là một nhân tố ngoại sinh của mô hình.
Lương và Lãi suất
Trong dự báo nguyên trạng, mức lương dự báo được dựa trên chính sách của chính
phủ, tức là dựa trên tín hiệu của mức lương cơ bản (hay mức lương tối thiểu). Do đó,
tiền lương được dự báo dựa trên sự thay đổi trong quá khứ của mức tiền lương cơ bản.
Trong ngắn hạn, tiền lương có thể được dự báo dựa trên những thay đổi gần đây nhất
của tiền lương cơ bản. Tuy nhiên, trong trung hạn và dài hạn, do tính chất của phương
pháp dự báo thống kê nên tốc độ tăng của tiền lương thực tế được coi là xấp xỉ với mức
tăng của năng suất lao động - chỉ số được tính bằng cách lấy tốc độ tăng trưởng GDP
thực tế trừ đi tốc độ tăng trưởng của số lượng việc làm.
Tổng mức lương chi trả được tính bằng cách nhân mức lương trung bình của một
lao động với số lao động. Đối với hệ thống hưu trí, tổng mức thu của hệ thống được
tính bằng mức đóng trung bình nhân với số lượng người đóng. Mức hưởng trung bình
có thể được điều chỉnh theo sự thay đổi của mức đóng.
Lãi suất có thể được dự báo dựa trên báo cáo của ngân hàng trung ương. Bên cạnh
đó, nếu nền kinh tế thể hiện hiệu quả động, tức là lãi suất cao hơn tốc độ tăng dân số
cộng với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người tại trạng thái dừng dài hạn, thì mức lãi
suất dự báo bình quân cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đối với khoản dự trữ của hệ
thống hưu trí, mức lãi bình quân phụ thuộc vào các khoản đầu tư trong quá khứ và sự
thay đổi của lãi suất trên thị trường tài chính.
4. Dự báo tài chính của hệ thống hưu trí
Việc dự báo tài chính của hệ thống hưu trí phụ thuộc vào các chỉ số như số người
đóng góp cho hệ thống (số người thực sự tham gia hệ thống) và mức đóng trung bình
của những người này. Tương tự như vậy, quyết định đến dự báo tài chính còn có các chỉ
số như số lượng người hưởng, mức hưởng, các chỉ số thu nhập và cách thức chỉ số hoá
(theo lạm phát hay theo mức lương cơ bản). Cuối cùng, mức lãi đầu tư của khoản dự trữ
từ hệ thống, các khoản thu nhập và chi phí khác.
Số lượng người đóng góp
Số lượng người buộc phải tham gia vào hệ thống hưu trí theo quy định của chính
phủ có thể được dự báo bằng cách tính theo một tỷ lệ nào đó của số người đang lao
động đã được dự báo trước đó. Đối với hệ thống hưu trí Việt nam, có ba loại hình mà ta
phải dự báo, đó là (i) công chức nhà nước, bao gồm cả lực lượng vũ trang, (ii) lao động
làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước, và (iii) lao động làm việc trong khu vực tư
nhân phù hợp với quy định của chính phủ. Những con số này được dự báo bằng cách
tính theo tỷ lệ tương ứng với các đối tượng trong các khu vực kinh tế của nền kinh tế.
13
Dựa trên tính toán về số lượng người có thể tham gia vào hệ thống hưu trí theo
quy định của chính phủ, ta có thể tính số lượng người thực sự tham gia vào hệ thống
dựa trên dự báo về tỷ lệ thực hiện tương ứng của các khu vực kinh tế. Về nguyên tắc,
những con số này phải được cộng thêm với số lượng người mới gia nhập hệ thống và
trừ đi số người rời khỏi hệ thống (chết hoặc không tiếp tục được hưởng). Tuy nhiên,
trên thực tế, số liệu về sự thay đổi này thường không đầy đủ hoặc không được kịp thời
cập nhật nên để đơn giản khi dự báo, chúng ta giả định rằng tốc độ tăng của số người
mới tham gia và số người rời khỏi hệ thống khá ổn định. Chênh lệch giữa số người phải
tham gia hệ thống theo quy định của chính phủ với số người thực sự tham gia vào hệ
thống được gọi là số người không chủ động tham gia hệ thống (Hình 6).
Hình 6. Dự báo số người đóng góp cho hệ thống
Nguồn: Tổ chức lao động quốc tế (1998)
Số lượng người thụ hưởng
Để dự đoán được số lượng người thụ hưởng, thông thường ta sử dụng bảng sống
của dân số để dự báo. Bảng sống thể hiện xác suất chết của giới tính và nhóm tuổi khác
nhau (xem phần Phụ lục).
Số lượng
công chức
ban đầu
Số lượng
công chức
(dự báo)
Số lượng lao
động trong
SOEs
Số lượng
lao động
trong SOEs
(dự báo)
Tỷ lệ trong l ực
lượng lao động
Số lượng
lao động
ban đầu
của khu
vực tư
nhân
Tỷ lệ trong lực
lượng lao động
Số lượng lao
động khu vực
tư nhân
(dự báo)
Số lượng
người thực
sự đóng
góp vào hệ
thống
Tỷ lệ trong lực
lượng lao động
Số lượng
người thực
sự đóng góp
vào hệ
thống
Tỷ lệ thực hiện
Tỷ lệ thực hiện
Số lượng
người thực
sự đóng
góp vào hệ
thống
Tỷ lệ thực hiện
Số lượng người
phải tham gia
theo quy định
Số lượng người
thực sự tham gia
Số lượng người không chủ động tham gia
14
Đối với hệ thống hưu trí hiện nay của Việt nam, có hai loại đối tượng thụ hưởng là
những người thuộc hệ thống trước năm 1995 và những người thuộc hệ thống sau năm
1995. Những người thuộc hệ thống trước hiện chỉ còn người hưởng, và số lượng này sẽ
giảm theo thời gian vì không có người mới tham gia hệ thống, số người rời khỏi hệ
thống tăng lên. Ngược lại, số lượng người thuộc hệ thống sau có thể tăng lên do có
người mới tham gia vào hệ thống. Vì vậy, việc dự báo số người hưởng của hệ thống
hưu trí Việt nam cần phải được phân tách cho hai loại đối tượng thụ hưởng này.
Số người thuộc hệ thống trước năm 1995
• Số lượng người thụ hưởng từ về hưu, tai nạn lao động và mất sức lao động
được dự báo dựa trên bảng sống của tổng dân số.
• Số lượng người hưởng tử tuất cũng có thể sử dụng bảng sống để dự đoán.
Tuy nhiên, số lượng người rời khỏi hệ thống do không còn thuộc diện được
hưởng hoặc chết được coi là thay đổi với tốc độ ổn định.
Số người thuộc hệ thống sau năm 1995
Cách dự báo số lượng người hưởng của hệ thống sau năm 1995 dựa trên các công
thức tính toán được trình bày ở phần Phụ lục và tính theo từng năm. Cách thức tính toán
này cũng có thể áp dụng cho nhóm người tham gia theo nhóm tuổi 5 năm theo các giả
định nhất định. Chú ý rằng, người về hưu thuộc cả hệ thống trước và sau năm 1995 đều
được chi trả cho các khoản chăm sóc y tế nên những chi phí này có thể dự báo theo tỷ lệ
nào đó trong tổng chi tiêu cho hưu trí dựa trên thống kê trong quá khứ.
• Số lượng người về hưu (dự báo) bằng tổng của (i) số lượng người dự báo
tiếp tục được hưởng chế độ hưu trí và (ii) số lượng người dự báo sẽ được
hưởng chế độ hưu trí.
• Số lượng người tai nạn lao động và mất sức lao động được dự báo dựa trên
bảng sống của tổng dân số và xác suất bị tai nạn và mất sức lao động.
Lương trung bình và mức hưởng trung bình
Dự báo mức lương trung bình của người đóng góp và mức hưởng trung bình của
người hưởng lợi được thực hiện dựa trên thống kê quá khứ của các mức lương này.
Trong dự báo nguyên trạng, mức lương và mức hưởng trung bình được điều chỉnh theo
sự thay đổi của mức lương cơ bản (lương tối thiểu). Tuy nhiên, trong phần kiểm định
độ nhạy, các mức lương và hưởng này được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát.
Đầu tư của phần dự trữ quỹ
Phần dự trữ của quỹ sẽ được đầu tư vào các nguồn khác nhau. Một nhân tố quan
trọng tác động và thể hiện hiệu quả của việc đầu tư là lãi suất. Như đã nói ở trên, lãi
suất có thể sử dụng từ các dự báo về nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, ở Việt nam, các
khoản đầu tư phần dự trữ của quỹ hưu trí được quản lý và quy định hết sức chặt chẽ nên
15
mức lãi suất thu được có thể dự đoán dựa trên mức lãi suất của các khoản đầu tư trong
quá khứ và theo quy định của chính phủ.
Các chi phí và thu nhập khác
Các chi phí khác, ví dụ như chi phí hành chính, chi phí chuyển khoản..., và các
khoản thu nhập khác, ví dụ như trợ cấp của chính phủ cho đào tạo, xây dựng cơ bản...
được dự báo bằng một tỷ lệ nhất định của tổng mức chi phí hoặc thu nhập.
Các chỉ số tài chính của hệ thống
Có rất nhiều chỉ số tài chính của hệ thống cần phải được xem xét vì chúng cho ta
biết trạng thái tài chính của hệ thống trong suốt thời kỳ dự báo.
Tỷ lệ chi phí PAYG: còn gọi là tỷ lệ đóng góp bền vững và được tính bằng cách
lấy tổng mức chi tiêu của hệ thống chia cho tổng mức thu của hệ thống. Kết quả
của mối quan hệ này là một tỷ lệ đóng góp cần thiết để duy trì quỹ ở trạng thái cân
bằng theo thời gian. Tỷ lệ đóng góp này bao gồm hai cấu thành, đó là tỷ lệ phụ
thuộc của hệ thống – là tỷ lệ giữa số người thụ hưởng và số người đóng góp – và
tỷ lệ thay thế - tỷ lệ giữa mức hưởng với mức lương cơ sở.
Tỷ lệ đóng góp trung bình (GAP): chỉ số này thể hiện mức đóng góp cần thiết để
duy trì sự cân bằng của quỹ trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, ví dụ
như 10 năm chẳng hạn. Chỉ số này rất tiện dụng khi chúng ta so sánh các cách thức
điều chỉnh khác nhau của hệ thống. Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp trung bình đòi hỏi
một thị trường tài chính ổn định và triển vọng. Nói cách khác, nó đòi hỏi phải có
một môi trường kinh tế khá vững mạnh thì mới có thể dự báo chính xác được.
5. Kiểm tra độ nhạy
Các kết quả dự báo thống kê đối với hệ thống hưu trí không thể cho ta kết quả
thực sự chính xác được vì có thể có quá nhiều giả định đơn giản hoá vấn đề hoặc mô
hình sử dụng không chính xác hoặc phù hợp, và các biến số sử dụng có thể là kết quả
của những nhân tố không thể dự báo được. Có nhiều khả năng dẫn đến các kết quả
không chính xác, ví dụ như thiếu số liệu hoặc số liệu đầy đủ nhưng không tin cậy. Vì
vậy, kiểm tra độ nhạy có thể cho ta biết được những khác biệt giữa dự báo với thực tế
có thể phát sinh. Việc kiểm tra độ nhạy trong mô hình thống kê của hệ thống hưu trí
thường là công việc tính toán lại các biến số quan trọng, ví dụ như tốc độ tăng trưởng
kinh tế, số lượng lao động, tốc độ tăng giá và lương thực tế, lãi suất của các khoản đầu
tư...
16
Đối với tình trạng tài chính của hệ thống hưu trí Việt nam, bài viết này thực hiện
việc kiểm tra độ nhạy của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động, tỷ lệ thực hiện tham gia hệ
thống hưu trí, cách thức chỉ số hoá lương và lãi suất của các khoản đầu tư phần dự trữ.
IV. KẾT QUẢ DỰ BÁO THỐNG KÊ
Bằng việc sử dụng mô hình nêu trên, bài viết tìm ra một số kết quả sau đây.
Thứ nhất, số người hưởng của hệ thống trước năm 1995 giảm từ 2,2 triệu người
vào năm 2000 xuống 713.000 người vào năm 2025 và 32.000 vào năm 2050. Với dự
báo đó, tổng chi tiêu của hệ thống này tương ứng là 13.980 tỷ đồng vào năm 2000,
15.272 tỷ đồng vào năm 2025, và sau đó giảm rất nhanh xuống mức 1.906 tỷ đồng vào
năm 2050.
Thứ hai, đối với hệ thống sau năm 1995, số lượng người thực sự đóng góp cho hệ
thống tăng từ 4,5 triệu người vào năm 2000 lên 7,6 triệu người vào năm 2025 và 10,3
triệu người vào năm 2050. Tương tự, số lượng người hưởng tăng từ 243.000 người vào
năm 2000 lên 1,7 triệu người vào năm 2025 và 4,1 triệu người vào năm 2050. Do đó, tỷ
lệ phụ thuộc của hệ thống tăng từ 5,4% vào năm 2000 lên 23% vào năm 2025 và 45%
vào năm 2050. Hơn nữa, tỷ lệ thay thế sẽ tăng từ 56,5% vào năm 2000 lên tương ứng
57,7% và 59,3% vào năm 2025 và 2050.
Thứ ba, kiểm tra độ nhạy được thực hiện với các viễn cảnh khác nhau, tức là điều
kiện kinh tế có triển vọng và không có triển vọng. Sau đây là kết quả dự báo của những
viễn cảnh đó xét dưới góc độ tài chính của hệ thống.
Bảng 3 cho thấy mức nợ lương hưu tiềm ẩn của cả hai hệ thống khi so sánh với
GDP năm 2000 đều rất cao với những mức chiết khấu khác nhau. Kết quả dự báo mức
nợ lượng hưu tiềm ẩn này ngụ ý rằng nếu Việt nam tiếp tục duy trì hệ thống hưu trí
PAYG với mức hưởng được xác định trước thì việc đó đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ
phải chơi “trò chơi Ponzi” tốn kém và đầy nguy hiểm, đặc biệt khi xét trên quan điểm
tài chính. Xét trên quan điểm xã hội, các khoản nợ lương hưu tiềm ẩn này sẽ do thế hệ
lao động hiện tại và tương lai ánh chịu, và vì thế mà sự bất công bằng giữa các thế hệ
khó tránh khỏi.
Bảng 3. Nợ lương hưu tiềm ẩn (IPD) của hệ thống hưu trí, 2000-2050
IPD so với GDP năm 2000 Tỷ lệ chiết khấu
Hệ thống trước 1995 Hệ thống sau 1995
3% 87 108
5% 66 63
6% 59 50
Nguồn:Tính toán của tác giả
17
Bảng 4. Tỷ lệ chi phí PAYG và Tỷ lệ đóng góp trung bình (GAP) của hệ thống
Duy trì hệ thống trong
(số năm)
GAP
(%)
Năm Tỷ lệ chi phí
PAYG
(%)
0 3.2 2000 3.1
10 4.8 2010 7.7
20 8.0 2020 11.8
30 10.6 2030 14.7
40 13.8 2040 21.8
50 17.4 2050 26.5
Chú ý: Năm cơ sở là năm 2000.
Nguồn:Tính toán của tác giả
Bảng 4 thể hiện tỷ lệ đóng góp nhằm duy trì hệ thống hưu trí hiện tại trong tương
lai với hai chỉ số, đó là tỷ lệ chi phí PAYG và tỷ lệ đóng góp trung bình (GAP). Do có
sự khác biệt trong kỹ thuật tính toán nên kết quả của hai chỉ số này khác nhau. Tuy
nhiên, những chỉ số này ngụ ý rằng mức đóng góp 15% hiện nay sẽ không đủ để duy trì
hệ thống trong tương lai gần. Ví dụ, sau năm 2030, tỷ lệ chi phí PAYG sẽ lớn hơn 15%
nên hệ thống sẽ cạn kiệt nguồn ngân quỹ với tỷ lệ đóng góp hiện tại. Viễn cảnh cũng
tương tự khi xét đến chỉ số tỷ lệ đóng góp trung bình - tỷ lệ cho thấy rằng hệ thống hưu
trí hiện tại chỉ duy trì được trong khoảng 40 năm nữa mà thôi.
Tất cả các chỉ số tài chính trên đây, đặc biệt là tỷ lệ chi phí PAYG, tỷ lệ đóng góp
trung bình và nợ lương hưu tiềm ẩn, ngụ ý rằng hệ thống hưu trí hiện nay của Việt nam
sẽ không bền vững về mặt tài chính trong bối cảnh dân số ngày càng già hoá và nền
kinh tế hiệu quả động. Do đó, cải cách hệ thống là điều cần làm hơn bao giờ hết.
V. CẢI CÁCH HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM
Phần này sẽ gợi ý việc giải quyết khoản nợ lương hưu tiềm ẩn của cả hệ thống
trước và sau năm 1995 nhằm tránh được sự khủng hoảng của ngân sách nhà nước (đối
với hệ thống trước năm 1995) và quỹ hưu trí (đối với hệ thống sau năm 1995).
1. Hệ thống trước năm 1995
Để giải quyết khoản nợ của hệ thống này, ta sử dụng phương pháp ràng buộc ngân
sách đều (inter-temporal budget constraint). Để đơn giản, chúng ta giả định rằng chính
phủ sẽ trả dần khoản nợ này bằng một khoản thu nhất định từ thuế mà giá trị của nó là
một tỷ lệ nhất định của GDP danh nghĩa của từng năm. Với các bối cảnh kinh tế khác
nhau, tỷ lệ thuế trung bình cũng sẽ khác nhau. Ví dụ, Hình 7 thể hiện cách giải quyết
khoản nợ lương hưu tiềm ẩn với tỷ lệ chiết khấu 5%. Trong trường hợp này, tỷ lệ thuế
18
trung bình là 1,34%. Tất nhiên, cách làm này phải được hỗ trợ bằng việc chính phủ phát
hành trái phiếu trong thời gian đầu.
Hình 7. Giải quyết nợ lương hưu tiềm ẩn của hệ thống trước năm 1995
với tỷ lệ chiết khấu 5%
Nguồn: Tính toán của tác giả
2. Hệ thống sau năm 1995
Thiết kế một hệ thống hưu trí mới
Có rất nhiều loại hệ thống hưu trí khác nhau để chúng ta thực hiện cải cách. Tuy
nhiên, cách duy nhất để tránh những khó khăn về tài chính là chuyển từ hệ thống hưu trí
PAYG với mức hưởng được xác định trước hiện nay sang hệ thống tài khoản cá nhân.
Hệ thống tài khoản cá nhân một phần hay toàn bộ phụ thuộc vào hiện trạng hiện nay
của hệ thống hưu trí và khả năng về mặt kinh tế - xã hội của một nước. Hệ thống tài
khoản cá nhân có những đặc điểm nổi bật sau đây.
Thứ nhất, hệ thống tài khoản cá nhân sẽ tăng phúc lợi kinh tế của người tham gia
hệ thống vì họ tiết kiệm cho chính họ trong thời gian làm việc và sau đó số tiền được sử
dụng để trang trải các chi phí khi họ nghỉ hưu. Trong suốt thời gian tích luỹ, khoản tiết
kiệm của họ có thể được đầu tư trên thị trường tài chính để hưởng lãi suất - mức lãi suất
này thường cao hơn so với mức lãi suất ngầm định của hệ thống PAYG (Feldstein,
1998). Điều này là hiển nhiên vì trong hệ thống PAYG, chúng ta không có bất kỳ một
khoản đầu tư thực sự nào và vì thế mà không hề có một khoản lợi tức thực tế (do đóng
góp của hệ thống được dùng để chi trả ngay cho những người đang hưởng hưu trí). Quá
trình này của hệ thống PAYG dẫn đến sự bất công bằng giữa các thế hệ vì những người
hưởng lợi hiện tại có thể có mức hưởng cao hơn so với những gì họ đóng góp trong thời
-60,000
-40,000
-20,000
0
20,000
40,000
60,000
2000 2006 201
2
2018 2024 2030 2036 2042 2048
Năm
Tỷ đồng
Chi trả Phát hành/chi trả TPCP Mức thuế chung
19
gian làm việc do những thay đổi về điều kiện kinh tế, ví dụ như mức lương thực tế
trung bình cao hơn. Ngược lại, những khoản chi trả đó lại được thực hiện bằng số tiền
do thế hệ lao động hiện tại dóng góp. Đây chính là vòng luẩn quẩn về sự bất công bằng
giữa các thế hệ của hệ thống hưu trí PAYG.
Thứ hai, và quan trọng hơn, là việc chuyển sang hệ thống tài khoản cá nhân sẽ
tránh được những khoản nợ không thể trả nổi (nợ lương hưu tiềm ẩn), và vì thế mà
tránh được sự gia tăng nhanh chóng của tỷ lệ đóng góp khi dân số già hoá. Vấn đề này
đã được minh hoạ một cách rõ ràng trong các kết quả dự báo ở trên. Hơn nữa, việc
chuyển sang hệ thống tài khoản cá nhân sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm cá nhân trong dài
hạn, và từ đó tăng tỷ lệ tiết kiệm quốc gia, và cuối cùng là tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên, phương thức tài trợ cho quá trình chuyển đổi này cần phải được xem xét
một cách thận trọng vì nó có thể sẽ không mang lại cái gì khi sự chuyển dịch đó lấn át
các khoản tiết kiệm cá nhân và dẫn đến thâm hụt ngân sách trầm trọng hơn (Estelle
James, 1998).
Có rất nhiều lý do khiến cho việc chuyển sang hệ thống tài khoản cá nhân với mức
hưởng được xác định dựa trên mức đóng góp (defined-contribution) mang lại nhiều lợi
ích. Vấn đề chủ yếu là mức hưởng của người tham gia hệ thống hưu trí được tính sát
với mức đóng tương ứng của họ, và điều này khiến cho người tham gia hệ thống có ít
động cơ để trốn đóng bảo hiểm. Trong hệ thống với mức hưởng được xác định dựa trên
mức đóng, việc trốn đóng bảo hiểm đồng nghĩa với việc người tham gia hệ thống từ
giảm bớt phần hưởng lợi của chính bản thân mình; trong khi đó, việc trốn đóng bảo
hiểm trong hệ thống với mức hưởng được xác định trước lại giúp cho người tham gia hệ
thống có thể hưởng nhiều lợi ích thông qua “bóc lột” người khác, đặc biệt là những
người thuộc thế hệ hiện tại và tương lai. Đối với trường hợp của Việt nam, việc trốn
đóng bảo hiểm là vấn đề nghiêm trọng của hệ thống hưu trí hiện tại với tỷ lệ tham gia
và thực hiện của khu vực kinh tế tư nhân ở mức rất thấp. Việc chuyển sang hệ thống với
mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng sẽ tăng tỷ lệ tham gia hệ thống, và vì vậy
mà đảm bảo được quyền lợi của người tham gia, làm giảm hiện tượng trốn đóng bảo
hiểm.
Bên cạnh đó, như đã trình bày trong rất nhiều nghiên cứu, hệ thống hưu trí với
mức hưởng được xác định dựa trên mức đóng sẽ làm giảm hiện tượng nghỉ hưu sớm và
làm giảm độ nhạy cảm về mặt tài chính của hệ thống đối với quyết định nghỉ hưu sớm.
Trong bối cảnh này, mức hưởng hưu trí sẽ tự động điều chỉnh nên việc nghỉ hưu sớm
hay dân số già hoá cũng không ảnh hưởng nhiều đến vấn đề tài chính của hệ thống.
Tương tự như vậy, hệ thống n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- HỆ THỐNG HƯU TRÍ VIỆT NAM- Hiện trạng và những thách thức trong điều kiện dân số già hoá.pdf