1. Lý do chọn đề tài: 1
2. Mục đích và nhiệm vụ 1
3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. 1
4. ý nghĩa của phương pháp luận. 1
5. Nội dung. 2
A. Nghiên cứu về triết học của Heghen, trước hết ta nghiên cứu về các quan điểm mở đầu làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống Heghen. 2
b. Hệ thống triết học của Heghen. 4
II- Thực trạng và giải pháp. 12
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1939 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hệ thống triết học của Heghen, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa là tìm hiểu xem Heghen có đóng góp gì cho triết học của nhân loại. Với mục đích đó ta cần phải chịu khó đọc, nghiên cứu tài liệu có liên quan về Heghen, xem xét và nghiên cứu cẩn thận đề hiểu sâu sắc về triết học Heghen, để nắm được hệ thống các tư tưởng cốt lõi của tư tưởng Heghen.
3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Dựa vào những ấn bản của các nhà xuất bản tin cậy về triết học, trong đó có triết học Heghen, dựa vào tài liệu, kết quả nghiên cứu của các nhà kinh điển viết về Heghen và những suy xét của bản thân ta đã có cơ sở lý luận của đề tài.
Không có triết học Heghen liệu có phép biện chứng duy vật hay không? Điều đó cho ta thấy một vấn đề rằng Heghen có công lao rất lớn trong sự phát triển triết học. Bằng khoa học thực tiễn ta có thể khẳng định điều đó.
4. ý nghĩa của phương pháp luận.
Qua nghiên cứu triết học Heghen chúng ta thấy ông đã khái quát một cáhc sâu sắc và có hệ thống về những vấn đề cơ bản của phép biện chứng, tư tưởng biện chứng của ông là tư tưởng tiến bộ, cách mạng ẩn sau cái vỏ thần bí. Song hệ thống triết học của ông lại là duy tâm bảo thủ, siêu hình và đi ngược lại sự phát triển của tiến bộ, khoa học, cách mạng. Mặt cách mạng của học thuyết Heghen đã đè bẹp bởi sự trưởng thành quá khổ của mặt bảo thủ của nó.
Nghiên cứu triết học Heghen, trước hết phải vượt qua nó, biết được hạn chế và tích cực của nó, không nên "phủ định sạch trơn".
5. Nội dung.
Heghen trong sự phát triển triết học cổ điển Đức là một đại biểu kiệt xuất nhất, bộ óc bách khoa toàn thư của thời đại mình - Gioocvinhem Phơriđơvích Heghen.
A. Nghiên cứu về triết học của Heghen, trước hết ta nghiên cứu về các quan điểm mở đầu làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống Heghen.
Thứ nhất, ông xác định mục đích của mình là nghiên cứu tư duy, nhận thức, nghĩa là nghiên cứu tư duy của con người. Tư duy của con người là hoạt động chủ quan của con người song nó lại đóng vai trò khách quan nghĩa là không phụ thuộc vào con người, đó là "ý niệm tuyệt đối" - "tinh thần của thế giới". ý niệm tuyệt đối làm cơ sở cho mọi sự tồn tại, nó là bước phát triển cao nhất của tư duy, là khởi nguyên của mọi sự vật và hiện tượng, là đấng tối cao tạo ra giới tự nhiên và con người, là "thượng đế".
"Tinh thần tuyệt đối" là sự thống nhất giữa tư duy và tồn tại, vật chất và ý thức, chủ thể và khách thể. Nhưng không phải sự thống nhất, đồng nhất trần trụi mà chứa đựng yếu tốt khác biệt, thống nhất trong hoạt động, vận động tương tác lẫn nhau. Tư duy là tư duy chính mình, biến mình thành khách thể đồng thời trở thành cái chủ quan và cái khách quan. Tư duy phản ánh thực tiễn, phản ánh khách thể, khi phản ánh đúng, nó hợp lý. Cái hợp lý, cái thần thánh, cái thực tiễn, cái tất yếu trùng hợp nhau. "Mọi hiện thực đều hợp lý, mọi hợp lý đều là hiện thực".
Qua quá trình nhận thức thế giới, con người xây dựng nên những khái niệm. Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy, nhưng Heghen đã tuyệt đối hoá khái niệm, coi đó là "sự bắt đầu của mọi sự sống", và là hình thức vô hạn sáng tạo, bao hàm bên trong sự hoàn bị của mọi nội dung và đồng thời đóng vai trò nguồn gốc của chính nội dung.
Vậy là Heghen đã đảo lộn quan hệ tồn tại (nguồn gốc của nội dung) và tư duy (khái niệm), coi tư duy là cái có trước tồn tại, nhờ đó mà sự vật hiện hữu. Sự vật có thể mất đi nhưng ý niệm thì vẫn còn mãi.
- Về nguồn gốc của tinh thần: Heghen nêu ra cấu trúc gồm 3 phần: ý thức, tự ý thức và lý tình.
ý thức trải qua: cảm giác, tri giác và giác tính. Cảm giác cho ta hình ảnh từng bộ phận mờ nhạt. Tri giác tổng hợp các cảm giác cho ta sự vật, tri giác đem đến cho ta cái riêng, cái đơn nhất, nhưng trong đó đã chứa đựng cái chung, cái phổ biến. Nhưng sự vật luôn vận động, biến đổi và mâu thuẫn, giác tính không bao quát được nó, ý thức trở thành đối tượng để ta nhận thức, ý thức trở thành tự nhận thức, ý thức xem xét mình như một sản phẩm của lao động xã hội. Lao động đã giải phóng con người khỏi ách nô lệ, đạt đến tự do. Mục đích của "tự ý thức" là đạt đến tự do, chỉ đạt được tự do bằng sự giải phóng bên trong.
Nhận thức không chỉ dừng lại ở tự ý thức mà đạt đến lý tính. Lý tính có ý thức phê phán khoa học, hướng con người đến hạnh phúc, lý tính được biểu hiện trong hành vi và trong đạo đức. Heghen đã đạt đến đỉnh cao của tư tưởng triết học xã hội. Quan điểm về "lý tính lịch sử" là cốt lõi trong triết học lịch sử của ông. Theo Heghen lịch sử không tiến lên như một quá trình tự động, mà được hình thành từ những hành động của những con người riêng lẻ, mỗi người ra sức thực hiện những lợi ích và mục đích riêng của mình. Để theo đuổi mục đích và hành động thực hiện mục đích của con người lại nảy sinh một cái mới nào đó khác với những ý đồ ban đầu của họ. Do đó, trong hoạt động tiếp theo, con người buộc phải coi cái mới này như một tiền đề khách quan. Như vậy, theo Heghen tính ngẫu nhiên trở thành tính tất yếu. Song là một nhà duy tâm khách quan, Heghen gọi quá trình biện chứng vô tận của sự chuyển hoá lẫn nhau giữa cái ngẫu nhiên và tất nhiên là sự "tính không của lý tính lịch sử". Theo Heghen là khởi nguyên của lịch sử toàn thế giới, nó có tính siêu cá nhân, nó tự thực hiện trong lịch sử như là sự phát triển của tinh thần thế giới trong "ý niệm tuyệt đối". Mục đích của lịch sử toàn thế giới là để cho ý niệm tuyệt đối tự nhận thức mình. Trong quá trình nhận thức đó, ý niệm tuyệt đối trải qua nhiều giai đoạn thể hiện trong khái niệm tinh thần nhân dân. Tinh thần nhân dân là sự thống nhất các pháp luật, các cơ quan nhà nước, nghệ thuật, tôn giáo và triết học. Heghen cho rằng "lý tính lịch sử" tự thể hiện theo cách để cho nhân dân mỗi nước được quyền góp phần cống hiến của mình vào quá trình tự nhận thức thep hướng tiến lên của ý niệm tuyệt đối hay tinh thần thế giới.
Xét trong toàn bộ hệ thống, Heghen coi lịch sử là sự phát triển của tình thần thế giới, đó là quan điểm duy tâm về lịch sử. Tuy nhiên, ở Heghen không phải không có yếu tố hợp lý trong quan niệm về bản chất của hoạt động sống của con người. Ông đã bàn về bản chất của lao động và ý nghĩa của nó đối với việc hình thành con người và xã hội. Ông cho rằng, chỉ bằng lao động con người mới có thể tạo ra những tư liệu để thoả mãn cuộc sống của mình; lao động là nền tảng phát sinh ra các quan hệ kinh tế. Quan hệ kinh tế đến lượt nó là nền tảng cho sự phân hoá con người về mặt xã hội và nguyên nhân tồn tại cacs đẳng cấp xã hội.
b. Hệ thống triết học của Heghen.
Theo Heghen thì quy luật phủ định của phủ định đóng vai trò là quy luật cơ bản làm cơ sở cho toàn bộ hệ thống.
Hợp đề
Phản đề
Chính đề
Triết học
Tôn giáo
Nghệ thuật
Tinh thần tuyệt đối
Tinh thầng khách quan
Tinh thần chủ quan
Tinh thần tuyệt đối
Triết học tinh thần
Triết học tự nhiên
Giới tự nhiên
Khoa học lô gíc
ý niệm tuyệt đối
Vật
lý
Cơ học
Hoá hữu
cơ
Bản chất
Khái niệm
Tồn tại
Phản đề
Chính đề
Hợp đề
Hiện thực
Hiện tượng
Bản chất
Độ
Lượng
Chất
Khác biệt
Đồng nhất
Mâu thuẫn
Khái niệm chủ quan
( *)
Khái niệm
Khách thể
ý niệm
Qau sơ đồ hệ thống chúng ta thấy Heghen xếp "ý niệm tuyệt đối" là cái có trước. "Giới tự nhiên" chỉ là sự tồn tại khác của thế giới ý niệm. Sau đó lại trở về với chính nó, nhưng cao hơn, đó là "tinh thần tuyệt đối".
Toàn bộ cơ cấu hệ thống của Heghen được coi là "bách khoa toàn thư về triết học", là khoa học vạch ra mối quan hệ mang tính quy luật bằng khái niệm, nguồn gốc triết học của các khái niệm và nguyên lý chủ yếu của nó.
Hệ thống gồm 3 bộ phận: logic học, triết học về tự nhiên và triết học về tinh thần.
a. Khoa học về logic:
Là khoa học về khái niệm, thuần tuý và ý niệm trừu tượng. "ý niệm trong nguyên chất trừu tượng của tư duy". Theo Heghen phải xây dựng các cặp phạm trù của logic học sao cho phản ánh mối liên hệ phổ biến và tất yếu của tồn tại và cả tư duy trong sự vận động và chuyển hoá lẫn nhau. Các cặp phạm trù cũng được xem xét trong sự vận động từ trừu tượng đến cụ thể, từ phiến diện đến toàn diện, từ nội dung trống rỗng đến nội dung hoàn hảo.
Logic học gồm ba phần, đó là ba giai đoạn vận động của "ý niệm tuyệt đối". Lúc đầu "ý niệm tuyệt đối" tự tha hoá trong tồn tại với tính cách là "tồn tại khác" của nó. Sau đó tìm thấy mình trong bản chất, trong khái niệm.
* Học thuyết tồn tại.
Tồn tại (tồn tại thuần tuý) tìm thấy hư vô - mặt đối lập của mình. Tồn tại - hư vô đi vào sự thống nhất, đồng nhất tạo nên sinh thành có tam đoạn thức: tồn tại - hư vô - sinh thành. Sinh thành, tồn tại đã mang nội dung. Sinh thành là quá trình dẫn đến sửa đời của chất. ở đây đã mang tính cụ thể của sự vật. Chất lượng là tính quy định đồng nhất với tồn tại. Vậy: chất bằng tính quy định có thực bằng hiện thực bằng tồn tại hiện có bằng "tông tại - trong nó".
Nhưng vật chất không đứng im, mà vận động vào mặt đối lập của mình. Vượt quá một giới hạn nào đó ta sẽ có cái khác. "Tồn tại - trong nó" chuyển sang "tồn tại - cho - cái khác" nhưng cũng là chất đó. Nhưng rồi đằng trước "cái khác này" lại có "cái khác nữa" như thể nó kéo dài mãi mà Heghen gọi là "vô tận xấu". Nếu như cái "vô tận" tìm thấy cái "hữu hạn" thì liên kết với nhau, quan hệ với cái khác mất đi, chỉ còn quan hệ với chính mình - đó là vô hạn đúng. "Tồn tại cho cái khác" chuyển về "tồn tại cho nó". Chất đi vào mặt đói lập của mình, vào lượng à chất đổi dẫn đến lượng đổi. Sự thống nhất giữa chất và lượng gọi là độ. Vì thế độ là sự thống nhất giữa chất và lượng. Độ biểu hiện cái tồn tại đã hoàn thiện. Nhưng rồi độ cũng bị phá vỡ, lúc đó chất cũng mất đi, chất mới ra đời bằng bước nhảy.
* Học thuyết về bản chất.
Bản chất là thế giới nội tại, là những mối quan hệ có bề sâu, có thể phân tích bản chất bằng ba cách.
- Như đã được phản ánh (bản chất).
- Như cái bộc lộ ra bên ngoài (hiện tượng).
- Như sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng (hiện thực).
Bản chất
Học thuyết bản chất Hiện tượng
Hiện thực
Trong phần này Heghen đã đóng góp cho phép biện chứng hàng loạt nội dung sâu sắc về bản chất - hiện tượng, thống nhất - đối lập, mâu thuẫn, nội dung - hình thức, khả năng - hiện thực, tất nhiên - ngẫu nhiên, nguyên nhân - kết quả. Bản chất là cái bên trong và phân biệt với tồn tại như cái bề ngoài. Nhưng ông cho rằng "bản chất cũng tồn tại như vẻ bề ngoài trong chính mình" là quan hệ với chính mình, là sự phát triển vào phía trong, là "phân tử". Mâu thuẫn tồn tại trong phạm trù bản chất là sự đồng nhất của cái khác biệt, đồng nhất và khác biệt. Đồng nhất chỉ là tương đối (không có vật nào trùng khớp hoàn toàn với sự vật khác, cả với chính mình). Sự khác biệt dẫn đến đối lập. Sự thống nhất giữa các mặt đối lập tạo nên mâu thuẫn.
Bản chất trong sự sống động của mình là hiện tượng, bản chất thì phải hiện ra trong hiện tượng. "Bản chất thì hiện ra, còn hiện tượng thì có bản chất". Bản chất thì sâu sắc, hiện tượng thì phong phú. Cái lặp lại trong các hiện tượng là qui luật. Qui luật "phản ánh yên tĩnh", thế giới đang hiện ra. Sự thống nhất giữa hiện tượng - bản chất tạo thành thực tiễn (hiện thực). Hiên thực là khả năng được thực hiện.
Về nội dung hình thức có mối quan hệ biện chứng. Nội dung và hình thức thống nhất, nội dung không thể thiếu hình thức, hình thức đồng thời bao hàm chính nội dung và là cái bên ngoài của nó nội dung. Hình thức và nội dung chuyển hoá cho nhau.
Về khả năng - hiện thực: hiện thực là khả năng được thực hiện và là khả năng của sự phát triển sau đó. Mọi khả năng đều cụ thể: khả năng trừu tượng là vô nghĩa. Mọi khả năng thực sự đều tất yếu.
Về tất nhiên và ngẫu nhiên: tính tất yếu, tính quy luật đi vào mặt đối lập của mình: tính ngẫu nhiên. "Tính ngẫu nhiên… là cái gì có thể có, có thể không có, có thể thế này, có thể thế kia, tồn tại của nó hay tồn tại khác có cơ sở không ở trong nó, mà ở cái khác".
Dù khả năng hay ngẫu nhiên cũng đều phụ thuộc vào nội dung thực tiễn.
Về nguyên nhân kết quả: nguyên nhân sinh ra kết quả và tương đương với nó. Nguyên nhân là khởi đâu, có nguyên nhân tự nó và nguyên nhân cho nó. Trong sự thống nhất đồng nhất, thì nguyên nhân chuyển hoá vào kết quả.
Không phải bất cứ sự vật nào cũng đều có nguyên nhân mà còn có nhiều mối quan hệ khác. Heghen cũng chú ý đến sự tác động trở lại của hành động lên nguyên nhân. Theo ông "nguyên nhân là nguyên nhân bên trong hành động, hành động là hành động bên trong nguyên nhân".
* Học thuyết về khái niệm.
Học thuyết về khái niệm chia làm ba phần:
- Khái niệm chủ quan (hay hình thức).
- Khách thể (tính khách quan).
- ý niệm (hay chân lý tuyệt đối).
Bắt đầu từ "khái niệm" đến phán đoán, suy lý. Khi định nghĩa khái niệm Heghen chú ý đến tính phổ biến, tính đặc thù, và tính đơn nhất của nó. Heghen chia phán đoán thành bốn nhóm:
+ Phán đoán về chất (khẳng định hay phủ định).
+ Phán đoán phản tư.
+ Phán đoang tính tất yếu.
+ Phán đoán khái niệm.
Sau khi phân tích, so sánh ông tìm mối liên hệ giữa chúng và suy luận cũng được ông chia làm ba nhóm:
+ Suy luận về chất
+ Suy luận về phản tư.
+ Suy luận có tính tất yếu.
Chân lý và ý niệm được coi là sự phù hợp giữa khái niệm và thực tiễn. Theo ông chân lý bao gồm những đặc trưng sau:
+ Chân lý luôn cụ thể, không có chân lý trừu tượng.
+ Chân lý luôn vận động.
+ Chân lý mang tính biện chứng là sự thống nhất giữa những cái khác biệt.
+ Chân lý mang tính mục đích là sự vươn tới hoàn thiện, hoạt động của con người luôn hướng tới mục đích.
+ Chân lý như tư tưởng nhận thức gồm chân lý lý luận và chân lý thực tiễn.
Thực tiễn cao hơn nhận thức.
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn tạo thành ý niệm tuyệt đối. Con đường vận động của ý niệm tuyệt đối như sau: lúc đầu ý niệm tuyệt đối "tha hoá" tồn tại của mình, đem đến cho tồn tại nội dung sau đó nó tìm thấy mình trong bản chất, trong khái niệm và cuối cùng như "tinh thần tuyệt đối".
Heghen kết thúc khoa học logic: "Giờ đây chúng ta trở về với khái niệm ý niệm mà từ đó chúng ta bắt đầu, nhưng đồng thời sự trở lại đằng sau này cũng là sự vận động về phía trước".
Thay lời kết luận, Lênin đánh giá khoa học logic của Heghen như sau: "Tổng cộng và tóm tắt, tiếng nói cuối cùng và bản chất của logic học Heghen là phép biện chứng. Điều này thật tuyệt diệu! thêm một điều nữa, trong tác phẩm duy tâm nhất này của Heghen ít có chủ nghĩa duy tâm nhất, nhiều chủ nghĩa duy tâm nhất. Đó là mâu thuẫn nhưng đó lại là sự thật.
b. Triết học tự nhiên:
Phần này Heghen đã đặt ra cho mình nhiệm vụ nghiên cứu giới tự nhiên, là ''tinh thần đã tha hoá khỏi mình, …''ý niệm tuyệt đối sau khi đã phát triển đế độ đầy đủ trong lĩnh vực tư duy thuần tuý trong lĩnh vực những phạm trù lôgic liền chuyển sang "sự tồn tại khác" của nó là giới tự nhiên.
Triết học tự nhiên gồm ba phần: cơ học, vật lý học và vật lý hữu cơ.
- Cơ học: Ông nghiên cứu vật chất, vận động, không gian, thời gian. Theo ông vật chất không phải là một thực tế khách quan, là cơ sở của mọi vật, mà chỉ là một trong những sự qui định, một trong những khái niệm nhờ đó mà ý niệm tuyệt đối sáng tạo ra giới tự nhiên với tư cách là sự tồn tại khác của nó.
Heghen phủ định tính vô tận của vũ trụ, thừa nhận sự vĩnh viễn của thời gian, nhưng đó là sự vĩnh viễn của hành động thượng đế sáng tạo ra vũ trụ. Ông thừa nhận sự thống nhất giữa vật chất và vận động, vật chất, vận động, không gian, thời gian có mâu thuẫn bên trong, là sự thống nhất giữa tính giai đoạn và tính liên tục.
- Vật lý học: Đối tượng của vật lý học là nghiên cứu thuộc tính lý hoá của vật thể. Heghen chống lại thuyết nguyên tử duy vật, xây dựng thuyết động lực duy tâm. Tuy nhiên, là nhà biện chứng ông thấy được hoá học là khoa học về những biến đổi về chất diễn ra dưới ảnh hưởng của sự thay đổi cơ cấu số lượng.
- Vật lý hữu cơ: Ông cho rằng sự sống là sự tồn tại trực tiếp của ý niệm. Ông phủ nhận sự phát triển ctrong giới động vật, chỉ thừa nhận sự phát triển của khái niệm. Triết học duy tâm của Heghen mâu thuẫn gay gắt với những thành tựu khoa học tự nhiên thời bấy giờ. Có thể nói triết học tự nhiên là yếu nhất trong hệ thống, bài xa đáng kể so với Cantơ.
c. Triết học tinh thần.
Đối tượng của triết học tinh thần là tinh thần thế giới, là lĩnh vực tự nhiên trở về với bản thân mình. Trong phần này Heghen đã thể hiện tư tưởng duy tâm về con người và về đời sống xã hội. Tuy nhiên, không thể phủ nhận công lao của Heghen đưa tư tưởng biện chứng vào quá trình lịch sử. Xã hội công dân, nhà nước, pháp lý, thẩm mỹ, tôn giáo, triết học theo phép biện chứng của Heghen đều trải qua những con đường dài của sự phát triển lịch sử.
Triết học tinh thần trải qua tam đoạn thức: tinh thần chủ quan, tinh thần khách quan và tinh thần tuyệt đối.
Tinh thần chủ quan: Trước hết là linh hồn thể hiện dưới dạng con người (nhân loại học). Sau đó tinh thần chủ quan trở thành ý thức, nó phân biệt với cơ thể (hiện tượng học) và bắt thế giới bên ngoài phục tùng nó về mặt lý luận và thực tiễn (tâm lý học). Nhân loại học lấy linh hồn làm đối tượng. Linh hồn thâm nhập vào tất cả, được xem như chân lý như lý tưởng của toàn bộ vật chất. Nhưng linh hồn chỉ là giấc ngủ trong tinh thần, nó thức dậy trong ý thức.
Hiện tượng học nghiên cứu ba giai đoạn của ý thức:
- ý thức như ý thức.
- ý thức như tự ý thức.
- ý thức thành lý tính.
Tâm lý học nghiên cứu các dạng tri thức và sự hoạt động của con người, tạo thành ba dạng tinh thần:
- Tinh thần lý luận: hợp nên bởi tình cảm + ý chí được bổ sung bởi tinh thần khách quan (pháp quyền, đạo đức, phong hoá).
- Tinh thần tuyệt đối (nghệ thuật, tôn giáo, triết học).
Tinh thần khách quan.
- Pháp quyền: nền tảng của pháp quyền là tự do ý chí. ý chí được thể hiện trong sự vật, trong thực tiễn. Con người có quyền khai thác, chiếm hữu sự vật nhằm thoả mãn nhu cầu. Con người biểu hiện nhu cầu của mình trong sở hữu. Sở hữu tốt nhất là sở hữu cá thể. Trong cuốn "Triết học pháp quyền" Heghen nêu lên luận điểm.
Cái gì hợp lý đều là hiện thực
Cái gì hiện thực đều là hợp lý
- Đạo đức: trong lĩnh vực đạo đức không chỉ nói đến lợi ích của một chủ thể nào đấy mà còn nói đến lợi ích của những con người khác nữa. Nhiệm vụ của đạo đức là tìm con đường cho sự hoà hợp giữa các hành vi của các chủ thể. Người có của riêng không chỉ là pháp nhân mà còn là chủ thể đạo đức, lúc đó họ mới trở thành chủ gia đình, chỗ dựa cho Nhà nước.
- Phong hoá: Tinh thần khách quan trong phong hoá thể hiện qua tam đoạn thức: gia đình, xã hội công dân, Nhà nước. Gia đình xã hội công dân là hình thức bô hạn của tinh thần khách quan, Nhà nước là hình thức hữu hạn của tinh thần khách quan. Heghen coi nhà nước quân chủ phổ là sự thể hiện của tinh thần thế giới. Gia đình lý tưởng là chiếm hữu của riêng và nuôi dạy con cái. Trong gia đình, nam giới thống trị về mặt pháp luật và phong hoá, phụ nữ sinh con và thông qua gia đình. Heghen coi chiến tranh là hiện tượng tự nhiên, chiến tranh làm cho các dân tộc thoát khỏi sự trì trệ, mục nát và nó mang tính tất yếu. Ông coi nhà nước quân chủ Phổ là ưu việt nhất, là thần thánh trên trái đất, vì thế nó tồn tại mãi mãi.
Lịch sử nhân loại chuyển từ phương Đông sang Tây, châu á là sự mở màn còn châu Âu là sự kết thúc lịch sử toàn thế giới. Châu Âu là trung tâm còn nước Đức là lãnh tụ của các dân tộc phương Tây. Người châu á không có năng lực phát triển văn hoá.
- Tinh thần tuyệt đối: lần lượt thể hiện trong nghệ thuật, tôn giáo và triết học. Trong nghệ thuật bằng hình tượng, trong tôn giáo bằng biểu tượng và trong triết học bằng khái niệm. Vì tinh thần cao hơn vật chất nên cái đẹp của nghệ thuật cao hơn cái đẹp của tự nhiên. Cái đẹp luôn mang tính người, là hình thức cảm tính của chân lý, cái đẹp với tính cách là ý niệm có trước giới tự nhiên và thể hiện trong khái niệm về cái đẹp nói chung, sau đó mới thể hiện trong giới tự nhiên. Cái đẹp trong nghệ thuật được tạo ra bằng cách làm cho hiện tượng sạch hết mọi cái vật chất, nghệ thuật phải lấy thần linh làm trung tâm để tả.
Tuy ràng buộc bởi chủ nghĩa duy tâm nhưng mỹ học của Heghen xuất hiện những yếu tố biện chứng xuất sắc. Tư tưởng về xung đột, mâu thuẫn, riêng - chung, hình thức, nội dung giữ vai trò quan trọng trong xây dựng hình tượng nghệ thuật, đặc biệt phát hiện vai trò quyết định của hoàn cảnh điển hình, để cho các tính cách điển hình va chạm, mâu thuẫn, đấu tranh, từ đó mà xuất hiện tình huống dẫn đến xung đột. Heghen chia nghệ thuật thành năm ngành chủ yếu: kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ và thi ca. Gạt bỏ những yếu tố duy tâm về nghệ thuật thì Heghen là người có nhiều đóng góp cho mỹ học, công lao của ông ở chỗ đã đưa nguyên lý xung đột, phát triển vào lý luận nghệ thuật.
- Tôn giáo: Heghen không bằng lòng với Cantơ và các người đi trước về quan điểm tôn giáo và niềm tin, ông cố gắng đưa nó lên lĩnh vực của lý tính.
"Ta cần hiểu thượng đế trong cái phổ biến của người", "ta phải hiểu người bằng trí tuệ của ta". Tôn giáo không đơn thuần là học thuyết mà có tính thực tiễn. Tính thực tiễn của tôn giáo là sùng bái (một thứ niềm tin vào cộng đồng, hiểu biết bản thân của mình và của cộng đồng) Heghen đã xét tôn giáo bằng quan điểm lịch sử, theo ông các thần sinh ra và diệt vong cùng với sự thay đổi của tín ngưỡng. Trong quá trình phát triển thượng đế cũng bị nhân cách hoá, tiến gần đến con người, tình yêu thượng đế thành tình yêu con người.
- Theo Heghen thì triết học là hình thức cuối cùng của tinh thần tuyệt đối. Sự phát triển của triết học là quá trình tự nhận thức của tinh thần. Heghen coi triết học của ông là sự tổng hợp của tất cả các học thuyết đã có từ trước. Ông cũng khẳng định trong lịch sử thế giới chỉ có hai dân tộc "triết học" đó là Hy Lạp và Đức. Hy Lạp thuộc về quá khứ còn Đức là hiện nay và mai sau. Ông cũng cho rằng một trong những bước ngoặt quyết định sự phát triển của triết học cận đại là sự ra đời và phát triển của phương pháp biện chứng mà công lao thuộc về "tinh thần Đức".
II- Thực trạng và giải pháp.
Lịch sử triết học đã cho thấy Heghen không chỉ là một thiên tài sáng tạo, mà còn là một nhà khoa học có tri thức bách khoa, nên những tích cực phát triển của ông mang tính chất vạch thời đại. Nếu như bỏ đi phần duy tâm thì phép biện chứng của Heghen trở thành tuyệt vời. Heghen coi nền tảng triết học là tinh thâng tuyệt đối nên yếu tố duy tâm đó đã chi phối toàn bộ hệ thống triết học của ông. Bằng tư tưởng đó, triết học của Heghen thực sự trở thành xiềng xích trói buộc con người và tạo ra những hạn chế không nhỏ. Hạn chế cơ bản nhất của triết học Heghen theo Phoi ơ bắc là đứng trên lập trường duy tâm khi giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa con người vớitg, giữa tinh thần và vật chất và coi ý niệm tuyệt đối và yếu tố thần linh là trên hết: "Triết học Heghen là nơi ẩn náu cuối cùng, chỗ dựa hợp lý cuối cùng của thần học…" Và sau này Mác và Ăng-ghen đã phê phán quyết liệt chủ nghĩa duy tâm triết học của Heghen. học thuyết của Heghen về nhà nước và về pháp quyền không phù hợp với hiện thực, ý niệm tuyệt đối đó chỉ là ý thức của con người được xét ở bên ngoài con người và ngoài giới tự nhiên biến nó thành tuyệt đối, những phán đoán của Heghen về sự chuyển hoá tư tưởng thuần tuý, ý niệm thuần tuý thành cái tự nhiên thành ci tồn tại khác của tinh thần là không thể chứng minh được.Trong những bài viết của Heghen đã nhen nhóm tư tưởng cách mạng là bởi vì nếu như vứt bỏ hình thức thần bí phép biện chứng của Heghen trở thành hình thức cơ bản cho mọi phép biện chứng. Mặc dù đã ra sức nhấn mạnh mặt hiệu quả của ý thức, đối lập quan điểm biện chứng về sự phát triển với quan điểm siêu hình, nhưng đối với lập trường của phái duy tâm, họ không thể tạo ra phép biện chứng khoa học.
Chính hình thức duy tâm đã tạo ra những hạn ché nhất định của triết học Heghen, song chúng ta phải thừa nhận những đóng góp không nhỏ của Heghen với triết học. Ngay ở những hạn chế của Heghen đã góp phần vào các nghiên cứu của Mác và Ăng-ghen. Phép biện chứng duy tâm của Heghen đã góp phần rất lớn để Mác xây dựng phép biện chứng duy vật, Heghen là người đầu tiên đã tổng kết toàn bộ lịch sử nhận thức, tìm ra nguyên lý cơ bản của tư duy biện chứng và xây dựng một cách có hệ thống các quy luật của phép biện chứng trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm. Và chính Mác và Ăng - ghen đã tự nhận là chịu ơn lớn của Heghen, ta có thể nói không có triết học Đức cổ điẻn thì không có triết học Mác-Lênin, cũng như không có triết học Heghen thì cũng không có phép biện chứng duy vật lịch sử. Công lao của Heghen trước hết là ở chỗ Heghen phê phán mạnh mẽ phương pháp siêu hình của tư duy và độc lập nó với phương pháp biện chứng. Ông là người đầu tiên đã diễn đạt những quy luật của phép biện chứng và nó được xem như linh hồn của mọi nhận thức chân lý khoa học. Nó vạch ra cho mỗi đối tượng những mâu thuẫn bên trong, sự phát triển mâu thuẫn dẫn tới phủ định một đối tượng này và xuất hiện một đối tượng khác. Mác xây dựng thành công phép biện chứng duy vật là nhờ phần lớn vào Heghen. Heghen là người đầu tiên tổng kết toàn bộ lịch sử nhận thức, tìm ra nguyên lý cơ bản của tư duy biện chứng, và xây dựng một cách có hệ thống các qui luật của phép biện chứng trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm. Phép biện chứng của Hrghen góp phần vào những tiễn đề lý luận cho việc hình thành thế giới quan duy vật biện chứng. Mặc dù núp dưới những cái thần bí thì phương pháp biện chứng có hệ thống của Heghen đã xây dựng được các nhà sáng lập chủ nghĩa duy tâm đánh giá cao, bên cạnh đó họ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35202.doc