Mục lục
I. TỔNG QUAN VỀTRUNG GIAN TÀI CHÍNH 3
1. Sựra đời hệthống trung gian tài chính 3
2. Đặc trưng trung gian tài chính 5
3. Vai trò và chức năng trung gian tài chính 6
II. THỰC TRẠNG HỆTHỐNG TRUNG GIAN TÀI CHÍNH
VIỆT NAM 10
1. Trung gian nhận tiền gửi – hệthống ngân hàng Việt Nam 10
2. Trung gian đầu tư17
3. Tổchức tiết kiệm theo hợp đồng – công ty bảo hiểm 19
III. ĐIỂM MỚI TRONG LUẬT CÁC TỔCHỨC TÍN DỤNG 2010 25
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2599 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hệ thống trung gian tài chính Việt Nam và điểm mới trong Luật các tổ chức tín dụng 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị trường tài
chính, cho phép các ngân hàng quốc tế được hoạt động và đối xử bình đẳng như
những ngân hàng trong nước sẽ tạo ra những sức ép lớn hơn đối với hệ thống
ngân hàng trong thời gian tới. Hệ thống ngân hàng chưa tạo dựng được một hệ
thống thông tin có thể đáp ứng kịp thời, có hiệu quả cho phân tích, dự báo tình
hình tiền tệ, lãi suất, tín dụng, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp.
• Nhiều tổ chức tín dụng chưa xây dựng quy trình và thực hiện quản lý tập trung
đối với rủi ro thanh khoản thông qua việc xây dựng phân tích kỳ hạn. Việc quản
lý rủi ro thanh khoản hầu như chỉ thực hiện ở những chi nhánh đơn lẻ, do đó khi
xuất hiện những biến động bất thường, một số NHTM luôn phải đối mặt với
nguy cơ mất khả năng chi trả tạm thời trên toàn hệ thống.
• Phần lớn các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được quy trình tập trung tại hội sở
chính đối với rủi ro về tỷ giá và kinh doanh ngoại hối; quy trình quản lý trạng
thái ngoại hối chưa đáp ứng được yêu cầu nên chưa có những giải pháp hiệu quả
để hạn chế tác động của những rủi ro này khi có sự biến động bất lợi về lãi suất
và tỷ giá. Bên cạnh đó, một số tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại hối
không chấp hành các giới hạn về trạng thái ngoại tệ, báo cáo thiếu trung thực,
đầu cơ trong kinh doanh nhưng không kiểm soát được rủi ro tỷ giá. Vì vậy, khi
phải đối mặt với sự biến động của thị trường đã gây tổn thất cho chính tổ chức
tín dụng.
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
17
2. TRUNG GIAN ĐẦU TƯ
2.1. Công ty tài chính
Thị trường tài chính Việt Nam phát triển sinh ra một nhu cầu lớn về vốn. Khi này,
các Ngân hàng với những điều kiện chặt chẽ về hạn mức cho vay, kỳ hạn vay, điều kiện
giải ngân... sẽ rất khó đáp ứng hết được nhu cầu vốn lớn này. Sự ra đời của các công ty
tài chính, cho thuê tài chính là một bước phát triển tất yếu của thị trường tài chính.
Tại Việt Nam, hiện có tới 17 công ty tài chính, phần lớn thuộc các tập đoàn kinh
tế Nhà nước. Các công ty tài chính thường trực thuộc những Tập đoàn, Tổng công ty Nhà
nước như: Công ty tài chính công nghiệp Tàu thủy, Công ty tài chính Điện lực, công ty
tài chính xi măng, công ty tài chính Than khoáng sản Việt nam, công ty tài chính Cổ phần
Dầu khí…
Các công ty tài chính với ưu thế về nguồn vốn lớn từ các tập đoàn rót xuống đã
liên tục đầu tư dài hạn, tài trợ các dự án như: Dự án đóng tàu, dự án thủy điện, đầu tư tài
chính...
Ưu điểm của các công ty tài chính là mang lại một nguồn vốn lớn dài hạn, cung
ứng cho nhiều dự án lớn trọng điểm. Tuy nhiên ở Việt Nam, các công ty tài chính lại trực
thuộc các tập đoàn mà các tập đoàn này về bản chất là sử dụng vốn của Nhà nước.
Năm 2008 khi các Tập đoàn công bố báo cáo tài chính thì hầu hết các ngành nghề
chính đều thua lỗ trong khi phần thu lãi lại xuất phát từ đầu tư tài chính. Trong khi đó,
các Tổng công ty tập đoàn có vốn nhà nước thường xuyên “kêu” thiếu vốn đầu tư cho các
dự án thì vẫn thành lập ra hàng loạt các công ty tài chính để nhằm mục đích đầu tư tài
chính.
2.2. Công ty chứng khoán
Tính từ khi ra đời, số lượng các công ty Chứng khoán không ngừng tăng nhanh về
số lượng. Nếu như năm 2000 khi thị trường Chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào
hoạt động với 4 công ty Chứng khoán thì đến thời điểm năm 2007 đã có tới 61 công ty
Chứng khoán với tổng số vốn điều lệ đạt 5735 tỷ đồng. Và đến nay đã có hơn 100 công
ty Chứng khoán đang hoạt động.
Các công ty Chứng khoán trong quá trình phát triển luôn đồng thời tăng vốn điều
lệ, nhằm đáp ứng được khả năng tài chính và sự phát triển. Các công ty chứng khoán đã
góp phần tốt trong việc thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp. Tính đến cuối
năm 2008, tỷ lệ vốn hóa thị trường chứng khoán đạt gần 40% GDP quốc dân. Điều này
chứng tỏ, Các công ty chứng khoán đã giúp các doanh nghiệp niêm yết có điều kiện tiếp
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
18
cận với nguồn vốn từ công chúng đầu tư, ổn định và với chi phí vốn thấp, mang tính dài
hạn.
2.3. Quỹ đầu tư
• Quỹ đầu tư chứng khoán
Một số quỹ đầu tư chứng khoán vào cổ phiếu, các công ty cổ phần
Quỹ Công ty quản lý
quỹ
Tăng trưởng
2009 (%)
Vietnam Equity Holding (VEH) Saigon Asset
Management
10,1
Indochiana Capital Vietnam Holdings Indochiana Capital 45,6
Manulife Progessive Fund (MAPF1) Manulife Fund 48,6
JF Vietnam Opportunities Fund JF Vietnam
Opportunities
4,3
Prudential Balanced Fund Prudential Fund
Management
6,7
Vietnam Enterprise Investment Ltd.
(VEIL) Dragon Capital
31,9
Vietnam Emerging Market Fund (VEMF) Vietnam Asset
Management
71,3
Blackhorse Enhanced Vietnam Inc Blackhorse Asset
Management
39,3
Vietnam Growth Fund Limited (VGF) Vietnam Dragon
Fund
25,8
Viet Fund 1 (VF1) Viet Fund
Management
50,9
Viet Fund (VF2) 48,2
Hiện có khoảng 20 quỹ đang tham gia đầu tư vào thị trường chứng khoán
VN, trong đó có các quỹ lớn thuộc các công ty quản lý VinaCapital và Dragon
Capital như Vietnam Opportunity Fund (VOF), Vietnam Infrastructure Ltd (VNI),
Vietnam Growth Fund (VGF), Vietnam Enterprise Investment Ltd (VEIL) và
Vietnam Dragon Fund (VDF). Theo khảo sát của tập đoàn đầu tư và tư vấn tài
chính LCF Rothschild trong năm 2009, các quỹ đầu tư vào thị trường chứng
khoán Việt Nam có mức tăng trưởng NAV xấp xỉ 40%, thấp hơn mức tăng 48,4%
của VN-Index. Giá trị NAV trung bình của 20 quỹ này tính đến ngày 21/1/2010 là
147 triệu USD, trong đó lớn nhất là VOF với giá trị lên đến 771 triệu USD, ba
quỹ do Dragon Capital quản lý có tổng NAV là 889 triệu USD.
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
19
Tuy nhiên, mức tăng trưởng cao lại thuộc về các quỹ có quy mô trung bình. Đơn
cử là 3 quỹ do PXP Vietnam Asset Management (PXP) quản lý gồm VLF -
Vietnam Lotus Fund, VEEF - Vietnam Emerging Equity Fund và PXP Vietnam
Fund có mức tăng trưởng NAV đứng đầu bảng xếp hạng các quỹ đầu tư có hoạt
động tốt nhất tại Việt Nam do LCF Rothschild khảo sát. Trong đó, cao nhất là quỹ
VEEF, tính đến ngày 9/11/2009 có mức tăng NAV là 98,3%.
• Quỹ đầu tư bất động sản
Các quỹ đầu tư vào bất động sản ở VN
Quỹ Công ty quản lý quỹ Tăng trưởng
2009 (%)
Vietnam Property Holding (VPH) Saigon Asset
Management
12,9
Bao Tin Real Estate Fund Bao Tin Capital
Vietnam Property Fund (VPF) Dragon Capital 9,5
Indochina Land Holdings Indochina Capital
Aseana Properties Ireka Corporation
Berhad
Vietnam Real-Estate Development
Fund
Korea Investment Trust
Management
Vietnam Infrastructure Limited
(VNI) VinaCapital
3,1
VinaCapital's VinaLand -14,4
Nhóm quỹ đầu tư vào bất động sản trong năm 2009 cũng gặt hái ít nhiều
thành công, nhưng chỉ tập trung ở một vài quỹ có chiến lược thích hợp với tình
hình thị trường BĐS không mấy khởi sắc năm qua. Đó là chiến lược nhắm đến
các dự án “đất sạch”, đặc biệt là các dự án chung cư, phân khúc có nhu cầu luôn
ổn định bất chấp thị trường BĐS đang vào “mùa” nào. Được LCF Rothschild xếp
đầu bảng là tân binh VPH (Vietnam Property Holding) của Saigon Asset
Management (SAM), hoạt động chính thức vào năm 2008, với mức tăng trưởng là
12,9%. Quỹ bất động sản VPF của Dragon Capital đứng thứ hai với mức tăng
trưởng NAV là 9,5%. Trong khi đó, quỹ VNL của VinaCapital chỉ ở mức tăng
trưởng âm 14,4% khi đầu tư tập trung vào phân khúc cao cấp gồm các dự án cao
ốc văn phòng và khách sạn, hướng đầu tư không phù hợp với bối cảnh khủng
hoảng kinh tế đang trong thời điểm “tạo dấu ấn” năm 2009.
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
20
Tuy nhiên, trong tình hình thị trường tài chính có nhiều bất ổn thì tiềm năng tăng
trưởng của nhóm quỹ đầu tư BĐS là rất lớn trong năm 2010.
3. TỔ CHỨC TIẾT KIỆM THEO HỢP ĐỒNG – CÔNG TY BẢO HIỂM
3.1. Hoạt động của các tổ chức bảo hiểm Việt Nam những năm gần đây
a. Bảo hiểm nhân thọ Việt Nam
Năm 1996 đánh dấu sự ra đời của ngành bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam bằng việc
Bộ Tài chính cho phép Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm nhân thọ. Đáp lại yêu
cầu của quá trình mở cửa và hội nhập cũng như yêu cầu phát triển của bản thân
ngành bảo hiểm nhân thọ. Trong năm 1999 đã cấp giấy phép cho 3 doanh nghiệp là
Prudential, Manulife, Bảo Minh - CMG - nay là Daiichi Life), sau đó là AIA (năm
2000), Prevoir, ACE Life, Great Eastern Life và Cathay Life... Với sự gia nhập của
các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nước ngoài, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt
Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, sản phẩm, chất lượng dịch vụ và
tính chuyên nghiệp. Đến nay trên thị trường đã có nhiều doanh nghiệp hoạt động với
quy mô lớn trên thị trường bảo hiểm tại Việt Nam.
Hiện nay, một số các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ lớn có thể kể tới như Bảo
Việt, Bảo Minh, Manulife , Prudential, và AIA với quy mô hoạt động rất lớn trên
khắp các tỉnh thành và tập trung chủ yếu tại các thành phố lớn như Hà Nội , Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng ...
Có thể kể ra những con số và thông tin đáng chú ý thời gian gân đây như
sau:
- Tổng doanh thu phí bảo hiểm: năm 2003 tổng doanh thu phí của toàn thị trường
đạt 6.442 tỷ đồng (bằng 1,92% GDP) và cuối năm 2009 đạt 16.485 tỷ đồng (bằng
4,06% GDP). Chính từ nguồn phí bảo hiểm này, ngành bảo hiểm nhân thọ đã cung
cấp một lượng vốn lớn cho nền kinh tế. Góp phần quan trọng trong việc luân chuyển
nguồn vốn trong nền kinh tế, từ đó khẳng định được vị thế quan trọng của mình trong
nền kinh tế của nước ta.
- Về sản phẩm: Đến nay, thị trường đã cung cấp cho công chúng hầu hết các dòng
sản phẩm từ sản phẩm truyền thống đến bảo hiểm liên kết chung (universal life) và
gần đây là bảo hiểm liên kết đơn vị (unit linked).
Rất nhiều các sản phẩm đa dạng của bảo hiểm nhân thọ đã được cung cấp trên thị
trường như :
- Bảo hiểm tử kỳ (bảo hiểm tử vong ) ,
- Bảo hiểm sinh kỳ ( bảo hiểm trong trường hợp sống )
- Bảo hiểm trọn đời – bảo hiểm hỗn hợp...
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
21
Việc cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng này đã tạo ra thêm nhiều sự lựa chọn cho
công chúng, góp phần thu hút được nguồn tiền kiết và nguồn vốn trong nền kinh tế.
Sự phát triển của thị trường tài chính một mặt cho phép nâng cao hiệu quả đầu tư
của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đồng thời tạo là cơ sở cho sự ra đời của các sản
phẩm bảo hiểm gắn với đầu tư, tích hợp sản phẩm bảo hiểm nhân thọ với các sản
phẩm bảo hiểm tài chính khác (chẳng hạn, có thể kết hợp sản phẩm bảo hiểm với các
sản phẩm tín dụng ngân hàng…). Bên cạnh đó, sự lên xuống của thị trường chứng
khoán trong thời gian qua cho thấy nhu cầu uỷ thác đầu tư cho nhà đầu tư chuyên
nghiệp (chẳng hạn, các quỹ đầu tư) ngày càng cấp thiết, tạo tiền đề cho sự phát triển
của sản phẩm liên kết đơn vị (unit Linked).
Số lượng người mua bảo hiểm nhân thọ không ngừng tăng qua các năm, tỷ lệ
thuận với dân số của nước ta ngày càng tăng nhanh.Sở dĩ số lượng người mua bảo
hiểm tăng lên cũng vì đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, những
khoản tiền tiết kiệm được dành để mua bảo hiểm.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính thế giới vừa qua, mặc dù đã tiếp cận và tham gia
nhiều vào các hoạt động bảo hiểm trên phạm vi thế giới, nhưng sự ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng tới Việt Nam là không quá lớn, điều này cũng giúp cho ngành bảo
hiểm tại Việt Nam có cơ hội phát triển hơn trong tương lai.
b. Bảo hiểm phi nhân thọ.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ phát triển thực sự sôi động kể từ sau năm 1993
với phí bảo hiểm tăng rất nhanh từ 1000 tỷ đồng vào năm 1995 tăng lên 3070 tỷ đồng
vào năm 2002. Cho tới nay thì doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đã tăng với gấp
nhiều lần so với những năm đầu, đây cũng là một trong những loại hình bảo hiểm thu
hút được nguồn tiết kiệm lớn trong dân cư.
Những năm gần đây, các sản phẩm của bảo hiểm phi nhân thọ liên tục được đổi
mới và để đáp ứng nhu cầu lớn từ dân cư.Các hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ cung
cấp chủ yếu liên quan tới các rủi ro thông thường như tại nạn, phá hủy tài sản, cháy
nổ ...Chính vì đặc điểm của các loại hợp đồng này là các rủi ro xảy ra khó có thể
lường trước được khi nào và số tiền chi trả, nên các công ty bảo hiểm phi nhân thọ
thường ưu tiên cho hoạt động đầu tư ngắn hạn và vào những tài sản có tính lỏng cao.
Có rất nhiều các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp bảo hiểm phi nhân
thọ với quy mô lớn như Bảo Việt, Bảo Minh, PVI và PJICO, PTI …
Kết quả kinh doanh quý 1/2010 (đơn vị: tỷ đồng)
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
22
Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
Theo bảng số liệu thì chúng ta có thể nhận thấy doanh nghiệp Bảo Việt có thị
phần trên thị trường lớn nhất chiếm 23.3 %(kinh doanh cả BHNT và BHPNT). Cùng
với đó tổng doanh thu của các doanh nghiệp BH đạt được là 3965.1 tỷ đồng đã góp
phần làm tăng trưởng nền kinh tế, giúp cho dòng vốn luân chuyển hiệu quả hơn.
Để có thể so sánh một cách chi tiết sự phát triển nhanh chóng của các doanh
nghiệp BH trong những năm gần đây ta có thể nhìn vào đồ thị dưới đây :
Doanh thu của các doanh nghiệp KD BHPNT (tỷ đồng)
Nguồn : Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
23
Nhìn qua về đồ thị thì chúng ta thấy sự cạnh tranh của các doanh nghiệp BHPNT
những năm gần đây đang tăng cao và sự đồng đều giữa các doanh nghiệp cũng ngày
càng được cải thiện.
BHPNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHPNT hỗn hợp mang tính chất
vừa bảo hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ
trong dân. Tuy bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng
tham gia ở mức trách nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người
dân một cách thức tiết kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng
đầu tư cho đất nước
Hiện nay, với việc gia tăng mạnh số lượng DN bảo hiểm trong thời gian qua, nhất
là kể từ khi các DN bảo hiểm trong và ngoài nước được kinh doanh bình đẳng trên
hầu hết các lĩnh vực bảo hiểm theo lộ trình WTO từ đầu 2009 đến nay, thị trường bảo
hiểm đang được các DN vẽ lại bản đồ về thị phần. Không ít DN đang mất đi lợi thế
và buộc phải chia sẻ với các DN khác. Đó chính là thách thức không nhỏ đối với các
doanh nghiệp trong nước.
Việt Nam có 11 DN BH nhân thọ, 27 DN BH phi nhân thọ, 1 DN tái BH và 10
DN môi giới. Do đó tình hình cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt hơn.
Theo dự báo, số lượng cũng như quy mô của các DN bảo hiểm trên thị trường bảo
hiểm VN sẽ còn tiếp tục tăng do hiện tại chỉ có 5% người dân có hợp đồng bảo hiểm
nhân thọ.
3.2. Thuận lợi và thách thức đối với kinh doanh BH tại VN
a. Thuận lợi
- Về dân số : Hiện nay dân số Việt Nam là 85 triệu người-đứng hàng thứ 13 trên thế
giới, với mức tăng hàng năm khoảng 1 triệu người.
- Phát triển kinh tế: Từ khi thực hiện chính sách “đổi mới”, nền kinh tế Việt Nam đã
có sự tiến bộ vượt bậc và theo dự đoán Việt Nam tiếp tục đạt được tăng trưởng kinh
tế với tốc độ cao trong thời gian tới (dự báo trên 7%/năm); đời sống người dân được
cải thiện rõ rệt. Theo dự báo của Ngân hàng Thế giới năm 2010 GDP/người sẽ đạt
1.000 USD, và hơn thế nữa, người Việt Nam có truyền thống tiết kiệm và có mức tiết
kiệm/thu nhập vào hàng cao nhất thế giới.
- Nhu cầu hoạch định kế hoạch tài chính và độc lập tài chính ngày càng cao hơn.
Theo đà phát triển kinh tế - xã hội và sự hình thành gia đình hạt nhân (bố mẹ và con),
làm cho nhu cầu hoạch định tài chính và nhu cầu độc lập tài chính ngày càng cao,
nhằm tạo lập một cuộc sống ổn định, tự chủ và có mức hưởng thụ cao. Các cá nhân
đã quan tâm nhiều hơn đến nguồn tài chính khi nghỉ hưu, hết sức lao động để có thể
sống độc lập về tài chính, không phải lệ thuộc hoặc dựa vào con cái, người thân.
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
24
- Sự phát triển của thị trường tài chính một mặt cho phép nâng cao hiệu quả đầu tư
của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đồng thời tạo là cơ sở cho sự ra đời của các sản
phẩm bảo hiểm gắn với đầu tư, tích hợp sản phẩm bảo hiểm nhân thọ với các sản
phẩm bảo hiểm tài chính khác .
- Sự ủng hộ của Nhà nước Việt Nam mạnh mẽ đối với sự phát triển của thị trường
thông qua việc tạo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh thuận lợi cho ngành
cũng như thực thi chính sách hội nhập nhằm tiếp thu công nghệ kinh doanh, công
nghệ quản lý tiên tiến cho sự phát triển của ngành.
b. Thách thức
- Thứ nhất, lạm phát. Lạm phát cao kéo theo hệ quả là làm giảm niềm tin của công
chúng đối với các khoản đầu tư dài hạn, các hợp đồng bảo hiểm dài hạn đồng thời
làm cho lãi suất ngắn hạn tăng lên cao (như lãi suất tiết kiệm ngân hàng), tạo ra sự
cạnh tranh lớn đối với các sản phẩm BHNT.
- Thứ hai, sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính (như ngân hàng, chứng khoán và
các tổ chức tài chính) và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong việc thu hút tiền
vốn nhàn rỗi trong dân chúng ngày càng gay gắt. Các ngân hàng đã đưa ra những sản
phẩm có tính cạnh tranh cao đối với các sản phẩm bảo hiểm như tiết kiệm gửi định
kỳ, tiết kiệm lãi suất bậc thang, tiết kiệm với thời hạn dài kèm theo các hình thức
khuyến mại như tặng bảo hiểm, rút thăm trúng thưởng và nhiều ưu đãi liên quan
khác..
- Thứ ba, môi trường luật pháp điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm mặc dù đã
được quan tâm xây dựng nhưng đến nay vẫn chưa theo kịp sự phát triển của ngành,
đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới. Việc sửa
đổi Luật kinh doanh bảo hiểm đã được đưa vào chương trình nghị sự của Quốc hội
trong năm 2010.
- Thứ tư, nhận thức và hiểu biết của thị trường cũng như của các cơ quan nhà nước
nói chung về BHNT vẫn chưa cao, gây khó khăn cho hoạt động của ngành.
- Thứ năm, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ gặp không ít
khó khăn do thị trường tài chính của Việt Nam chưa phát triển đầy đủ.
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
25
III. ĐIỂM MỚI TRONG LUẬT CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG 2010
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế và yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
Luật Các TCTD (luật TCTD – 1997) và Luật sửa đổi một số điều của Luật Các TCTD (luật
TCTD sửa đổi bổ sung năm 2004) cũng bộc lộ một số hạn chế, bất cập cản trở sự phát triển
của hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD) cần được sửa đổi, hoàn thiện. Trong hoàn cảnh đó,
luật TCTD năm 2010 đã ra đời, nó có một số tác động như sau tới hệ thống các tổ chức tín
dụng:
1. Những mặt tích cực:
a. Về phạm vi điều chỉnh:
Điều 1 của Luật 2010 xác định rõ phạm vi điều chỉnh bao gồm việc thành lập, tổ
chức, hoạt động, kiểm soát dặc biệt, tổ chức lại, giải thể tổ chức tín dụng (TCTD); thành
lập, tổ chức, hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, văn phòng đại diện của
TCTD nước ngoài, tổ chức nước ngoài khác có hoạt động ngân hàng.
Luật 2010 đã xác định lại phạm vi điều chỉnh trên cơ sở thay đổi khái niệm “hoạt
động ngân hàng” ” và sử dụng khái niệm này làm tiêu chí để xác định thế nào là một
TCTD. So với luật các TCTD năm 1997 (hoạt động ngân hàng” được hiểu phải bao gồm
cả hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn huy động để cấp tín dụng và làm dịch vụ thanh
toán) luật quy 2010 quy định “hoạt động ngân hàng” là hoạt động kinh doanh, cung ứng
thường xuyên một hoặc một số nghiệp vụ: (i) nhận tiền gửi; (ii) cấp tín dụng; và (iii)
cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản (khoản 12 Điều 4). Theo đó, tùy theo loại
hình hoạt động, TCTD có thể thực hiện một hoặc một số hoặc cả ba hoạt động ngân
hàng nêu trên khi được NHNN cấp Giấy phép thành lập và hoat động.
Khắc phục bất cập cơ bản của Luật Các tổ chức tín dụng 1997, phạm vi điều chỉnh
của Luật 2010 đã bỏ các quy định về "các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng". Điều
này có nghĩa là, để được cấp phép hoạt động ngân hàng, các tổ chức phải được thành lập
như là một TCTD. Những tổ chức không phải là một TCTD đang có hoạt động ngân
hàng đều phải được tổ chức lại dưới hình thức là một TCTD hoặc phải chấm dứt hoạt
động này.
b. Về phân biệt các loại hình TCTD:
Thứ nhất, phân biệt ngân hàng và TCTD phi ngân hàng
Trong Luật các TCTD 2010, tiêu chí phân biệt giữa ngân hàng và các TCTD phi
ngân hàng đã được quy định rõ hơn trên cơ sở phạm vi hoạt động của hai loại hình này.
Theo đó, các TCTD phi ngân hàng không được phép nhận tiền gửi của cá nhân,
không được cung ứng dịch vụ thanh toán qua tài khoản của khách hàng. Quy định
này phù hợp hơn với thông lệ áp dụng tại hầu hết các nước và tạo điều kiện để một mặt
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
26
giảm bớt rủi ro cho hệ thống TCTD, mặt khác cho phép các TCTD phi ngân hàng được
mở rộng phạm vi cung ứng các dịch vụ ngân hàng khác của mình do các quy định về an
toàn sẽ được áp dụng ở mức độ thấp hơn so với các ngân hàng thương mại là những tổ
chức nhận tiền gửi của dân cư và tham gia vào hệ thống thanh toán.
Thứ hai, phân biệt giữa TCTD hoạt động kinh doanh và TCTD hoạt động chính
sách
Để bảo đảm các quy định của Luật áp dụng linh hoạt hơn đối với các ngân hàng
chính sách (như Ngân hàng Chính sách xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam...), là
những ngân hàng có nhiều điểm đặc thù khác hẳn với các ngân hàng thương mại thông
thường, Luật các TCTD 2010 quy định trao cho Chính phủ thẩm quyền hướng dẫn cụ
thể về tổ chức và hoạt động của những đối tượng này (Điều 17). Tuy nhiên, Điều 17 của
Luật cũng quy định ngân hàng chính sách phải thực hiện kiểm soát nội bộ, kiểm toán
nội bộ; xây dựng, ban hành quy trình nội bộ về các hoạt động nghiệp vụ; thực hiện chế
độ báo cáo thống kê, báo cáo hoạt động và hoạt động thanh toán theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn của nhà nước được minh bạch,
công khai, an toàn. Như vậy, về cơ bản các quy định của Luật sẽ chỉ áp dụng đối với các
loại hình tổ chức hoạt động trên cơ sở thị trường, không có sự hỗ trợ từ Chính phủ và
các cơ quan khác. Điều này cũng bảo đảm để các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
tiếp tục được áp dụng đối với các ngân hàng chính sách.
Thứ ba, về mô hình ngân hàng đầu tư, nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và mô hình
ngân hàng thương mại trong luật:
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có mô hình ngân hàng đầu tư (investment bank). Về
bản chất, xét về phạm vi và nội dung hoạt động, ngân hàng đầu tư không phải là một
TCTD, mà là một định chế tài chính thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Do đó, loại hình này sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật về chứng khoán. Kế thừa các quy
định của Luật Các TCTD 1997 và bài học rút ra từ khủng hoảng tài chính toàn cầu, Luật
mới quy định mô hình ngân hàng thương mại ở Việt Nam là mô hình ”ngân hàng
thương mại đa năng hạn chế”, theo đó các NHTM được thực hiện các hoạt động ngân
hàng truyền thống (như nhận tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán)
và tùy theo mức độ rủi ro thị trường của từng nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, các ngân
hàng thương mại được phép trực tiếp (Điều 107) hoặc gián tiếp (thông qua công ty con,
công ty liên kết) thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư (Điều 103).
Thứ bốn, về hình thức pháp lý và loại hình hoạt động:
Về hình thức pháp lý, Điều 6 Luật các TCTD 2010 quy định TCTD được tổ chức
theo các hình thức pháp lý của Luật Doanh nghiệp (hoặc Luật Hợp tác xã), cụ thể: Ngân
hàng thương mại trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần
(trừ ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập dưới hình thức công ty trách
-- Thảo Luận Tiền Tệ Ngân Hàng--
27
nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ); TCTD phi ngân
hàng trong nước được thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn; TCTD 100% vốn nước ngoài, TCTD liên doanh được thành lập, tổ chức
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn; Ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân
dân được thành lập, tổ chức dưới hình thức hợp tác xã; Tổ chức tài chính vi mô được
thành lập, tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Như vậy, các quy định
về quản trị, điều hành, kiểm soát được phân loại theo hình thức pháp lý của TCTD
(công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã).
Đối với hoạt động của TCTD, Luật các TCTD 2010 quy định phạm vi hoạt động
của từng TCTD phụ thuộc vào loại hình hoạt động của chính TCTD, như ngân hàng
thương mại, ngân hàng hợp tác xã, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, tổ chức
tài chính vi mô, quỹ tín dụng nhân dân
c. Về quản trị, điều hành
Thực tiễn quản lý hoạt động của các TCTD cho thấy, TCTD là những đối tượng cần
được quản lý chặt chẽ, vì đây là những doanh nghiệp có các hoạt động ảnh hưởng lớn
đến sự ổn định xã hội, kinh tế đất nước và là những tổ chức có được quyền lực rất lớn
trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội. Việc quản lý thiếu chặt chẽ,
sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ của một TCTD thường là những nguyên nhân dẫn
đến khủng hoảng, gây ra sự mất lòng tin trong dân cư và đe doạ sự mất ổn định của cả
hệ thống TCTD... Do đó, một số các quy định về tổ chức quản lý đối với các TCTD
thường được thiết kế chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hệ thống trung gian tài chính Việt Nam & Điểm mới trong Luật các tổ chức tín dụng 2010.pdf