Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: CƠ SỞ LÍ LUẬN 3
I: Khái niệm 3
1: Thuế pigou 3
2:Phí 3
II. Việc cần thiêt sử dụng phí nước thải. 4
II.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP). 6
II.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền(BPP) 6
III. Nguyên tắc xác định phí nước thải. 7
PHẦN II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM 10
I. Khái quát chung 10
I.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Hà Nội 10
II.2. Nguyên nhân gây ô nhiễm. 14
PHẦN III. THU PHÍ 16
I: Văn bản pháp luật 16
II. Đối tượng áp dụng. 16
a) Nước thải từ cơ sở sản xuất công nghiệp. 16
b) Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ: 17
III. Mục tiêu của việc thu phí bảo vệ môi trường. 17
IV. Khó khăn 21
V. Kiến nghị 21
KẾT LUẬN 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 23
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6877 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện trạng ô nhiễm nguồn nước sông Tô Lịch ở Hà Nội: Nguyên nhân và Hướng giải quyết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiễm thải ra trong giai đoạn 1979-1986. Lệ phí được qui định theo nguyên tắc sau:
+ Lệ phí cao hơn một chút so với chi phí vận hành thiết bị
+ Lệ phí thay đổi theo số lượng, nồng độ và loai chất gây ô nhiễm được thải ra
+ Lệ phí ô nhiễm áp dụng cho việc xả thải nước thải công nghiệp đối với chất gây ô nhiễm nhất định nào đó được tính bằng cách nhân với lượng nồng độ chất gây ô nhiễm vượt quá tiêu chuẩn.
Malaysia một nước trong khu vực, vào giữa những năm 1979, chính phủ Malaysia đã tiến hành áp dụng hệ thu phí đối với ngành chế biến dầu cọ thô, chế biến cao su tự nhiên và các hoạt động khai hoang. Hệ thống này được thiết lập trên cơ sở các tiêu chuẩn về nồng độ cho phép trong nước thải cảu các chất gây ô nhiễm. Các lệ phí Ên định cho việc xả thải các chất gây ô nhiễm ở dưới mức tiêu chuẩn. Vượt quá mức tiêu chuẩn phải bị sử phạt mức nộp lệ phí.
Còn với các quốc gia phat triển OECD áp dụng phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm nước, loại phí này được áp dụng riêng không liên quan gì đến hệ thống xử lí nước thải từ các nhà máy xí nghiệp. ở hầu hết các nước OECD phí sử dụng hệ thống thoát nước thải là công trình công cộng, chịu sự quản lí và giám sát của chính quyền địa phương. Do đó, các hộ gia đình và cơ sở sản xuất thường phải trả lệ phí do sử dụng hệ thống công cộng này.
Từ kinh nghiệm, cũng như thực tế của các quốc gia đã làm trước chúng ta có thể thấy rằng, phí bảo vệ ô nhiễm môi trường nói chung và phí nước thải nói riêng được áp dụng là một thực tế khách quan và cũng là xu hướng chung và tất yếu của thế giới
Còn với nước ta phí bảo vệ môi trường có mục đích khuyến khích các nhà sản xuất, kinh doanh đầu tư giảm thiểu ô nhiễm, thay đổi hành vi ô nhiễm theo hướng tích cực cho môi trường, có lợi cho môi trường. Ngoài ra phí bảo vệ môi trường còn có mục đích khác là tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đầu tư khắc phục và cai thiện môi trường. Với mục đích này, phí bảo vệ môi trường là công cụ kinh tế được xây dựng trên nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền đóng góp tài chính để khắc phục ô nhiễm môi trường và cải thiện môi trường ” và ai hưởng lợi từ việc môi trường trong lành phải đóng phí khắc phục ô nhiễm.
II.1. Nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền (PPP).
Nguyên tắc này bắt nguồn từ sáng kiến do tổ chức hợp tác kinh tế và phat triển (OECD) đề ra vào các năm 1972 và 1974. PPP qui định năm 1972 có quan điểm những tác nhân gây ô nhiễm phải trả mọi chi phí cho hoạt động kiểm soát và phòng chống ô nhiễm. PPP năm 1974 chủ trương rằng, các tác nhân gây ô nhiễm thi ngoài việc tuân thủ theo các chỉ tiêu đối với việc gây ô nhiễm thì còn phải bồi thường thiệt hại cho những người bị thiệt hại do ô nhiễm này gây ra. Nói tóm lại, theo nguyên tắc PPP thì người gây ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phíđể thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do chính quyền thục hiện, nhằm đảm bảo môi trương ở mức chấp nhận được.
II.2. Nguyên tắc người hưởng lợi phải trả tiền(BPP)
Nguyên tắc BPP chủ trương rằng việc phòng ngừa ô nhiễm và cải thiện môi trường cần được bảo trợ bởi những người muốn thay đổi hoặc những người không phải trả giá cho việc gây ô nhiễm. Nguyên tắc BPP cũng tạo ra một khoản thu cho nhà nước, mức phí tính theo đầu người càng cao và càng nhiều người nộp thì số tiền thu được càng nhiều. Số tiền thu được từ BPP được thu theo nguyên tắc các cá nhân muốn bảo vệ môi trường và những cá nhân không phải trả cho việc gây ô nhiễm nhưng khi môi trường được cải thiện họ là những người được hưởng lợi cần đóng góp. Tuy nhiên số tiền này không trực tiếp do người hưởng lợi tự giác trả mà phải một chính sách do nhà nước ban hành qua thuế hoặc phí buộc những người hưởng lời phải đóng góp, nên ngưyên tắc BPP chỉ khuyến khích việc bảo vệ môi trường một cách gián tiếp.
Đây là nguyên tắc có thể được sử dụng nh một định hướng hỗ trợ nhằm đạt được mục tieu môi trường, dù đó là bảo vệ hay phục hồi môi trường. Tuy nhiên hiệu quả môi trường có thể đạt được hay không, trên thực tế phụ thuộc vào mức lệ phí, số người đóng góp và khả năng sủ dụng tiền hợp lí.
III. Nguyên tắc xác định phí nước thải.
Theo nghị định 67/2003/NĐ-CP của chính phủ ban hành việc thu phí nước thải và thông tư 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT hướng dẫn thi hành nghị định 67. Nghị định 67 quy định về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; chế độ thu, nộp, quản lí và sử dụng phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Còn thông tư 125 hướng dẫn thi hành nghị định 67. trong đó quy định rõ đối tượng phải chịu phí bảo vệ môi trường với nước thải và cách tính phí.
Đối với nước thải công nghiệp cách tính phí được tính:
Số phí = tổng lượng nước thải * hàm lượng chất gây ô nhiễm trong nước thải(mg/l)*10-3 * mức thu đối với chât gây ô nhiễm ra MT(đồng/kg)
Đối với sinh hoạt:
Số phí = lượng nước sử dụng * giá bán(đồng/m3) * tỉ lệ thu phí(%)
Qua các văn bản pháp luật có thể thấy phí nước thải nước ta được tính dựa vào các tiêu chí:
+ Tổng lượng thải
+ hàm lượng các chất gây ô nhiễm có trong nước tính bằng mg/l
+ Đặc tính các chất gây ô nhiễm. Mỗi chất gây ô nhiễm khác nhau có một mức thu phí tối đa và tối thiểu khác nhau, tuỳ theo mức độ độc hại của mỗi loại chất và được quy đinh tại nghị định 67. Các chất gây ô nhiễm chủ yếu được qui đinh trong luật là: BOD, COD, TSS, Hg, Pb, As, Cd.
Stt
Chất gây ô nhiễm có trong nước thải
Mức thu
(đồng/kg chất gây ô nhiễm có trong nước thải)
Tên hoá chất
Kí hiệu
Tối thiểu
Tối đa
1
Nhu cầu ô xy sinh hoá
ABOD
100
300
2
Nhu cầu ô xy hoá học
ACOD
100
300
3
Chất rắn lơ lửng
ATSS
200
400
4
Thuỷ ngân
AHg
10.000.000
20.000.000
5
Chì
APb
300.000
500.000
6
Arsenic
AAs
600.000
1.000.000
7
Cadmium
ACd
600.000
1.000.000
Việc thực thi phí nước thải ở nhiều nước trên thế giới đã thu được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Do đó việc thực thi phí nước thải với nước ta cũng có nhiều ảnh hưởng tác động đến môi trường nước mặt. Mà cụ thể ở đây là nước mặt và môi trường sông Tô Lịch. Nó có thể giúp mọi người nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Nhà nước và địa phương có thêm nguồn thu từ đó đầu tư trở lại vào môi trường nhằm bảo vệ môi trường. Kích thích các doanh nghiệp đầu tư vào hệ thống sử lí nước thải hoặc đổi mới công nghệ nhằm làm giảm lượng ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường.
Hiện nay tổng lượng nươc thải sinh hoạt của khu vực nội thành Hà Nội khoảng 500.000m3/ngày đểm trong đó có khoảng 100.000m3ngày đêm là nước thải của các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, bệnh viên. toàn bộ lượng nước thải này được tiêu thoát chủ yếu qua 4 con sông chính cẩu thành phố là: sông Tô Lịch, sông Sét, sông Kim Ngưu và sông Lừ. Nước thải sinh hoạt phần lớn qua sử lí sơ bộ tại các bể tự hoại trước khi thải vào tuyến cống chung, kênh, mương, ao, hồ. Tuy nhiên các bể tự hoại này làm việc kém hiệu quả do xây dựng không đúng quy cách, không hút phân cặn thường xuyên nên hàm lượng chất bẩn trong nước cao, gây ảnh hưởng xấu trong chất lượng nước trong các kênh mương.
Sông Tô lịch là con sông lớn nhất trong bèn con sông tiêu thoát nước chính của thành phố Hà Nội. Qua đánh giá thực tế ban đầu bằng việc quan sát trực tiếp sông, có thể nói sông đang bị ô nhiễm nặng dù mùa khô hay mùa mưa. vào những ngày nóng bức mùi từ sông bốc lên gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống, sức khoẻ, cũng nh sản xuất của ngưòi dân hai bên bờ sông. Không những thế nó còn gây mất mĩ quan đô thị làm giảm hình ảnh thủ đô cũng như môi trường của thành phố.
Tuy nhiên với việc áp dụng phí nước thải với các cơ sở sản xuất và các hộ gia đình, sẽ có những tác động tích cực tới môi trường. Phí nước thải có thể buộc các doanh nghiệp phải làm giảm lượng gây ô nhiễm, từ đó nâng cao chất lượng môi trường. Với nguồn thu từ phí nước thải, chinh phủ có thể đầu tư trở lại môi trường thực hiện các công việc khảo sát đo đạc, lập báo cáo, thực hiện các công việc quản lí cũng nh các công trình về môi trường. Khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp cũng nh xây dựng hệ thống sử lí nước thải, đổi mới công nghệ.
Song vấn đề đặt trong giai đoạn đầu của chương trình thu phí ô nhiễm đối với nước thải là có thể xác định phí nói trên với tất cả các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm ở Hà Nội hay không?
PHẦN II. HIỆN TRẠNG Ô NHIỄM
I. Khái quát chung
I.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Hà Nội
Hà nội nằm ở 20 độ 57 phút vĩ bắc và 105 độ 35 phót – 106 độ 25 phút độ kinh đông. Từ bắc xuống nam dài nhất khoảng 93 km, từ đông sang tây rộng nhất khoảng 30 km.
Hà Nội nằm trong vùng nhiệt đới gío mùa, độ Èm trung bình trong năm là 81-82% tháng cao nhất vào khoảng 85-86%. Nhiệt độ trung bình có chiều hướng tăng, năm 1985 là 23,5 độ C, từ năm 1990-1995 nhiệt độ trung binh là 24 độ C ( có năm lên tới 24,1 độ C ) hàng năm bình quân có từ 8-10 cơn bão và áp thấp nhiệt đới đi qua. Tổng lượng mưa trong năm, theo thống kê thì trong những năm gần đây có nhiều biến động, tuy nhiên trung bình hàng năm khoảng 1500 mm. Số ngày mưa từ 140-160 ngày trong năm.
Sông Tô Lịch thuộc nội thành Hà Nội, nó dài 13.5 km rộng từ 30-40m sâu khoảng từ 3-4 m. Đầu nguồn bắt đầu từ kênh đào cũ Thụy Khê thuộc khu vực Phan Đình Phùng. Nó qua Từ Liêm và dịa hạt quận Thanh Trì rồi cùng ba con sông khác chảy đổ vào sông Nhuệ qua Đầm Thanh Liệt. Sông được cải tạo bằng nguồn vốn vay ODA, hai bên bờ sông được thành phố cải tạo có xây kè đá và các hệ thống thoát nước thải trực tiếp vào trong lòng sông qua rất nhiều các ống cống lớn nhỏ của các hộ dân cư và các doanh nghiệp trên địa bàn.
Tình trạng ô nhiễm do nước thải của thành Phố Hà Nội. Nước thải của thành phố Hà Nội thải ra hệ thống thoát nước hàng ngày khoảng 500.00m3 ngày/đêm trong đó có khoảng 100.000 m3 ngày/đêm là nước thải công nghiệp, của các cơ sở dịch vụ và bệnh viện
Thực trạng ô nhiễm tại sông Tô Lịch
Sông Tô Lịch là con sông lớn nhất trong bèn con sông và cũng là con song bị ô nhiễm nặng nhất, điều này được thể hiện thông qua nước thải đổ vào sông Tô Lịch mỗi ngày là 242.506m3 ngày/đêm. Trong đó nước thải công nghiệp của các nhà máy trên địa bàn Hà Nội là 68.206m3 ngày/đêm, ttổng lượng nước thải của khu cục công cộng và bệnh viện là 43.300 m3 ngày/dêm.
Do Hà Nội chưa có hệ thống xử lí nước thải, nên nước thải được đổ trực tiếp qua các con sông và qua các hồ. Mặc dù hệ thống này có khả ngăng tự làm sạch rất lớn, nhưng do mức độ ô nhiễm quá cao đẫn tới khả năng này hầu nh không còn được phát huy được nữa mà một phần do tốc độ đô thị hoá quá nhanh. Năm 1996 sông Tô Lịch tiếp nhận chỉ khoảng 3000m3 nước thải từ 30.000 hé gia đình và 22000m3 từ 33 nhà máy.
Nhìn vào bảng 1 về nồng độ một số chất ô nhiễm có trong nước thải
Bảng 1. Tình trạng ô nhiễm sông Tô Lịch
Các chỉ tiêu
Vị trí Cầu Mới
Vị trí Nghĩa đô
Ph
7.7-8.2
7.5
Chất rắn lơ lửng (mg/l)
230-570
211
CDO (mg/l)
183-325
149
BOD (mg/l)
21-120
40.2
NO3 (mg/l)
0.39
0.61
NH4 (mg/l)
5.3-17.1
9.6
H2S (mg/l)
3.2
Nguồn: Đinh Văn Sâm năm 1996
Sông Tô lịch có độ ô nhiễm cao nh vậy có thể kể ra đây một số nguồn thải chính là:
Bệnh viện Lao.
Bệnh viện nhi Thuỵ Điển.
Bệnh viện phụ sản.
Bệnh biện giao thông.
Nhà máy giầy Thượng Đình.
Nhà máy cao su Sao Vàng
Nhà máy lever Haso
Nhà máy bóng đèn.
Nhà máy bia Hà Nội.
Nhà máy Trung Kính
Nhà máy nhựa Đại kim
Nhà máy Sơn tổng hợp.
Ngoài những bệnh viện đã thống kê ở trên sông còn tiếp nhận những nguồn nước thả từ sinh hoạt với khối lượng nước lớn và không kém phần độc hại. Phần lớn nước thải ra sông đều không qua sử lí và được thải trực tiếp hoặc gián tiếp gây làm tăng nồng độ các chất dinh dưỡng, nghiêm trọng nhất là nước thải của các bệnh viện, nhà máy. Đây là nguồn gây ra ô nhiễm chínhchô nươớc sông, làm cho quá trình xử lÝ sinh học bị giới hạn hoặc bị quá tải và có thể bị huỷ hoại hoàn toàn do các chất hữu cơ và các chất thải công nghiệp độc hại. Các chất hữu cơ nh phốtpho và nitơ là lÝ do chủ yếu là cho nước sông phì dinh dưỡng.
Sự quá tải của rác thải là nguyên nhân chính gây ra ngăn cản dòng sông, làm cho lòng sông bị thu hẹp đáng kể, tăng khả năng ngập úng, tăng lươợng bùn đáy sông. Mặc dù sông đã được cải tạo bằng việc xây dựng kè đá hai bên bờ sông nhằm làm giảm lượng rác thải xuống sông cũng như các loại đất đá và tạo một cảnh quan mới cho phù hợp với sự phát triển của thành phố. Thành phố sử dụng nguồn vốn vay ODA của Nhật Bản song vẫn chưa thấy có dấu hiệu khả quan nào đối với môi trường tại sông Tô Lịch, đặc biệt khi sông nằm trong lòng thủ Đô Hà Nội và nó sẽ gây ảnh hưởng đến hình ảnh một thủ đô tươi đẹp của nước ta, hướng tới văn minh hiện đại. Việc ô nhiễm của sông Tô Lịch gây ảnh hưởng nghiêm trọng không chỉ tới dân cư sống hai bên bờ sông mà con gây ảnh hưởng tới các khu vực xung quanh, khi mà ỏ hai bên bờ sông có nhều trưòng học và một số bệnh viện và đây cũng là một điểm có giao thông đi lại với cường độ lớn của thành phố.
Bảng 2: Tình trạng ô nhiễm sông tô lịch năm 1999-2000 tại Cầu Mới
Chỉ tiêu
đơn vị
1999
2000
TCVN5942-1995B
DO
mg/l
1.78
0.4
>=2
BOD5
mg/l
18.5
27
<25
COD
mg/l
36.8
89
<35
SS
mg/l
47
36.8
80
NH4+
mg/l
-
27
1
Coli-form
PC/100ml
-
49.105
10000
Do đặc điểm khí hậu miền Bắc là nhiệt đới gió mùa một năm chia làm hai mùa rõ rệt mùa khô và mùa mưa. vào mùa mưa lượng mưa tuơng đối lớn, trong khi đó mùa khô hạn chế hơn. Do đó lượng nước sông Tô Lịch thay đổi theo mùa. Vì vậy có sự chênh lệch nồng độ các chất ô nhiễm có trong nước.
Bảng 2. Chất lượng nước sông Tô Lịch theo hai mùa.
Chất lượng nước sông Tô Lịch tại cống Bưởi
Các chỉ tiêu (mg/l)
Mùa mưa
Mùa khô
PH
8.5
8.8
BOD
15.5
18.88
COD
31.2
34
SS
28
38
NO3-
0.25
0.45
NH4
2.33
6.7
Nguồn: Công ty tư vấn xây dựng Hà Nội.
Qua số liệu của bảng trên ta có thể nhận thấy:
a) Về mùa khô, nước sông bị ô nhiễm nặng. Hàm lượng BOD và COD đều vượt quá chỉ tiêu cho phép, BOD đo dược khoảng 25 mg/ldến 30 mg/l. hàm lượng các chất hữu cơ NO3- đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép, sông luôn ở tình trạng thừa dinh dưỡng. Do tập tính lâu đời mà cư dân hai bên dòng sông thường vất rác xuống lòng sông, nước sông có màu đen, mùi hơi đặc biệt vào những ngày nắng nóng, rác và rau bèo hai bên bờ sông ngăn cản dòng sông chảy.
b) về mùa mưa nước sông chảy mạnh hơn, lưu tốc độ dòng chảy tăng do ảnh hưởng của nước mưa đã pha loãng. Song có một thực tế qua phân tích và nghiên cứu nguồn nước của sông cho thấy nước sông Tô Lịch chủ yếu là nước thải do tốc độ dòng chảy chậm và tại đầu nguồn của sông tại khu vực đường Hoàng Quốc Việt cho thấy đầu nguồn của sông không hề bắt nguồn từ bất cứ nguồn nước nào của thành phố, mà nguồn nước của sông chủ yếu từ các nguồn nước thải chưa qua sử lí đổ trực tiếp vào sông tạo thành một hệ thống hình thành nguồn nước cho sông Tô Lịch.
II.2. Nguyên nhân gây ô nhiễm.
Thành phố Hà Nội trong nhiều năm qua không chỉ là một địa phương có tốc độ phát triển kinh tế cao của đất nước và con là thành phố trong điểm của miền Bắc trong việc phát triển kinh tế. Chính vì vậy trong nhiều năm qua đã có rất nhiều nhà máy, các công ty, các khu công nghiệp đã mọc lên ở trong thành phố và đi cùng với sự phát triển Êy là kèm theo các vấn đề về môi trường.
Dân số của Hà Nội mấy năm vừa qua tăng khá nhanh chủ yếu là tăng cơ học do những người ngoại tỉnh đổ xô về đây tìm việc làm đặc biệt là những lúc nông nhàn. vì vậy mà thành phố đã đầu tư nhiều cho hệ thống cấp thoát nước của thành phố mà vẫn không sao đáp ủng nổi nhu cầu về nước sạch của người đân đặc biệt trong những tháng hè. Thành phố hàng ngày tiêu thụ một lượng nước khá lớn khoảng 500.000m3 ngày/đêm và cũng sẽ có khoảng gần ngần Êy nước được thải ra môi trường. Sông Tô Lịch là con sông chứa nước thải lớn nhất của thành phố, chính vì vậy mà lượng nước thải đổ vào sông hàng ngày là rất lớn, ngoài ra đây cũng là nơi tập trung dân cư khá đông đúc của thành phố Hà Nội. Tại hai quận Thanh Xuân và quận Cầu Giấy nơi đây tập trung khá nhiều cơ sở sản xuất của quốc doanh lãn ngoài quốc doanh. Đặc biệt ở quận cầu Giấy có khu công nghiệp Thượng Đình đây là một nguồn gây ô nhiễm lớn khi mà khu công nghiệp này hàng ngày thải một lượng lớn nước thải vào sông. Không những thế bệnh viện cũng là một nguồn gây ô nhiễm chính và khá nguy hiểm đến môi trường.
Một nguyên nhân khác là hiện nay thành phố Hà Nội chưa có hệ thống sử lí nước thải trước khi đổ ra môi trường, con các doanh nghiệp hiện nay thì chưa có nhiều doanh nghiệp có các hệ thống sử lí nước thải, việc đánh giá tác động môi trường đối với các dự án ở nước ta vẫn chưa được thực hiện một cách nghiêm túc khi mà các nhà đầu tư chỉ coi nó là nghĩa vụ chứ chưa coi đây là một vấn đề cần thiết và quan trọng với môi trường và doanh nghiệp. Dẫn tới khi một nhà máy được xây dụng xong thì bao nhiêu nước thải chưa qua sử lí đều đổ vào sông hồ. Theo báo cáo hiên trạng môi trường Hà Nội năm 2003 lượng nước thải trong tổng số 500.000 m3 được thải ra môi trường hàng ngày chỉ có khoảng 6% được sử lí và đạt tiêu chuẩn, số còn lại được thải ra ngoài môi trường. Đây cũng là địa bàn có nhiều các công ty các doanh nghiệp, các cơ sỏ sản xuất.
Do dân số nước ta đa phần làm nông nghiệp có thói quen tuỳ tiện, trong khi đó người dân ở hai bên bờ sông tuy sống ở đô thị lớn nhưng đây chỉ là hệ quả của việc đô thị hoá của nước ta trong mấy năm qua dẫn tới có một số người chưa thoát khỏi tập quán cũ thường xuyên vứt rác xuống dòng sông. Có thể nói lòng sông Tô Lịch ngoại trừ việc ô nhiễm nước thải còn có cả ô nhiễm rác thải. Hàng ngày các công nhân của công ty môi trường Hà Nội đều phải đi vớt rác từ dưới lòng sông. Ngoài ra còn từ một số nguyên nhân khác gây nên ô nhiễm của sông.
Qua phân tích cho thây thành phâng các chất ô nhiễm có trong nước sông bao gồm nhiều loại chất khác nhau nhưng chủ yếu gồm những loại chất sau: BOD, COD, Hg, Pb, chất rắn lơ lửng(SS), coliform, nitơ tổng hợp NH4+ PH, DO v.v… các chất này có nồng độ tuỳ thuộc vào tùng vị trí đo tại sông Tô Lịch và cũng tuỳ thuộc vào từng mùa.
PHẦN III. THU PHÍ
I: Văn bản pháp luật
ĐÓ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, hoà nhập với các hoạt động BVMT trong khu vực và trên toàn cầu. Quốc hôi thông qua luật bảo vệ môi trươờng ngày 27/12/1993 và luật chính thức có hiệu lực ở Việt Nam ngày 10/1/1994. khi nước ta có luật bảo vệ môi trường đã có một số quy địn về phí và lệ phí được quy định tai các văn bản tiếp theo là các nghị định 175/CP và nghị định 67/2003/NĐ-CP.
Theo nghị định 175/CP ban hành ngày 18/10/1994, tại điều 32 có quy định, nguồn tài chính cho nhiệm vụ bảo vệ môi trường gồm phí thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của cá công trình kinh tê-xã hội; phí bảo vệ môi trường do các tổ chức, cá nhân sử dụng, thành phần môi trường vào mục đích sản xuất kinh doanh đong góp theo quy định của bộ tài chính.
Tiếp sau đó chính phủ ra nghị định 67/2003/NĐ-CP ngày 13/6/2003 và thông tư 125/2003/TTLT-BTC-BTNMT ngày 18/12/2003. Trong đó nghị định 67 nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường từ nước thải, sử dụng tiết kiệm nước sạch tạo nguồn kinh phí cho quỹ bảo vệ môi trường thực hiện việc bảo vệ, khắc phục ô nhiễm môi trường. Nghị định này quy đinh về phí bảo vệ môi trường với nước thải, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí bảo vệ môi trường với nứoc thải, các đối tượng phải chịu phí. Còn thông tư 125 hướng dẫn thực hiện nghị định 67, trong đó quy đinh rõ hơn về các đối tượng chịu phí cũng nh phưong thức thu, cách thu cùng phương pháp tính toán mức thu còng nh cách quản lí và sủ dụng nguồn thu trên.
II. Đối tượng áp dụng.
Các đối tượng phải nộp phí bảo vệ môi trường được quy định trong nghị định 67 và thông tư 125 là:
a) Nước thải từ cơ sở sản xuất công nghiệp.
- Cơ sở chế biến thực phẩm nông, lâm, thủy, hai sản: cơ sở hoạt độg giết mổ gia sóc.
- Cơ sở sản xuất rượu bia, nước giải khát: cơ sỏ thuộc da, tái chế da.
- Cơ sở sản xuất thủ công nghiệp trong các làng nghề;
- Cơ sở chăn nuôi công nghiệp tập trung;
- Cơ sở cơ khí, sửa chữa ô tô xe máy tập trung.
- Cơ sở khai thác chế biến khoáng sản.
- Cơ sở nuôi tôm công nghiệp; cơ sở sản xuất và ươm tôm giống;
- Nhà máy cấp nước sạch; hệ thống xử lí nước thải tập trung.
b) Nước thải sinh hoạt là nước thải ra môi trường từ:
- Hé gia đình;
- Cơ quan nhà nước
- Đơn vị vũ trang nhân dân;
- Trụ sở điều hành, chi nhánh, văn phòng của các tổ chúc, cá nhân;
- Cơ sở rửa ô tô xe máy; bệnh viện phòng khám chữa bệnh; nhà hàng, khác sạn;cơ sở sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác;
III. Mục tiêu của việc thu phí bảo vệ môi trường.
Chính sách thu phí bảo vệ môi trường với nước thải công nghiệp đã được chính phủ ban hành thông qua nghị định 67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường với nước thải (bao gồm nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp) ngày 13/6/2003 và chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/2004. bên cạnh đó ngày 18/12/2003, Bộ tài chính và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành thông tư liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-BTNTN đẻ hướng dẫn thực hiện nghị định này. Tuy nhiên cho đến tháng 4/2004 vẫn chưa có địa phương nào trên cả nước thực hiện thu phí bảo vệ môi trường và phí nước thải với công nghiệp. Và mãi tới tháng 9/2004 mới có tin tức về việc thu phí nước thải của một số địa phương.
Mục tiêu hàng đầu của chính sách thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp là làm cho doanh nghiệp thay đổi hành vi theo hướng thân thiện với môi trường; nghĩa là Chính phủ mong muốn doanh nghiệp giảm ô nhiễm, chứ không đơn thuần là thu được nhiều phí từ phía doanh nghiệp. Tổ chức thực hiện chính sánh thành công, chính chỉ là nhằm đạt được những mục tiêu đó.
Tuy nhiên muốn đạt đựoc mục tiêu cũng phải có thời gian. Theo các nhà kinh tế, thời gian trung bình đẻ đạt mục tiêu trên phải mất khoảng 3 năm đẻ có thể nhìn nhận hiệu quả của một chính sách, nó là khoảng thời gian thường dùng cho ‘trung hạn”.
Song thực tÕ liệu chính sách có thể đạt đựơc mục tiêu làm thoả mãn cả hai bên hay không ta thử tìm hiểu vấn đề này thông qua một số mô hình lí thuyết. Như đã nói ở trên việc đánh phí nước thải đối với công nghiệp và việc xác định số phí dựa vào chi phí cần thiết để giảm một đơn vị ô nhiễm, tức là MAC. Tuy nhiên theo quyết định của chính phủ, thuế được thu là:
T = tổng lượng nước thải * hàm lượng chất gây ô nhiễm * mức thu phí với chất gây ô nhiễm đó.
Qua đó ta có thể thấy, việc thu phí nước thải như vậy không khuyến khích các doanh nghiệp giảm lượng nước thải vì họ thải ra bao nhiêu thì phải đóng phí bấy nhiêu không hề khuyến khích họ giảm thải. Lúc nay phí nước thải lại cũng chỉ giống như một loại chi phí sản xuất vì vậy daonh nghiệp tiếp tục sản xuất mà ở đó sản lượng đạt hiêu quả doanh nghiệp mà không phải là hiệu quả xã hội. Với việc nhà nước không hề có đưa ra một mức giới hạn nào để khuyến khích doanh nghiệp giảm thải về điểm giới hạn đó.
Thu phí nước thải được thực hiên nhằm thoả mãn cả hai phiá là người nộp phí tức doanh nghiệp và nhà quản lí. Mục đích là doanh ngihiệp phải giảm lượng ô nhiễm nhằm đạt hiệu quả sản xuất, phí môi trường phải thoả mãn là phải bằng với chi phí giảm thải cận biên. Còn nhà quản lí đạt đựơc mục đích là buộc doanh nghiệp giảm lượng thải nhằm đạt hiệu quả môi trường, túc môi trường trong sặch hơn. Với mức phí hiện nay nhà khó mà đạt được cả hai điều trên khi mà nó không có tác động khuyến khích
Ngoài ra việc xác định một mức phí thải thông nhất nh vậy cũng chưa hợp lí, khi mà từng địa phương nước ta còn có nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau cần có một cơ chế phù hợp với từng vùng từng và địa phương.
Việc thu phí như hiện nay tuy theo lí thuyết không khuyến khích doanh nghiệp giảm lượng ô nhiễm tức là không làm nâng cao chất lượng nước sông Tô Lịch. Thu phí xét cho cùng cũng chỉ là một biện pháp kinh tế, đánh vào kinh tÕ để các doanh nghiệp phải trích một phàn lợi nhuận làm giảm ô nhiễm môi trường. Những yếu tố chính ảnh hưởng đến xác suất ảnh hưởng đến việc giảm ô nhiễm của doanh nghiệp kể từ khi chính sách được thực hiện. Về mặt lí thuyết, có 3 yếu tố chính: quy mô và khả năng tài chính của doanh nghiệp, nhận xét của doanh nghiệp về chính sách thu phí, ý thức của doanh nghiệp trong việc bảo vệ môi trường.
Doanh nghiệp muốn giảm thiểu tải lượng ô nhiễm so với tải lượng ô nhiễm hiện tại bằng cách nào đi nữa cũng phụ thuộc vào khả năng tài chÝnh của bản thân doanh nghiệp. Doanh nghiệp có qui mô lớn và có nguồn tài chính tốt sẽ dễ dành đầu tư cho hệ thống sử lí, thuê công ty thu gom, và giảm sản lượng… hơn các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và yếu kém về tài chính. Doanh nghiệp có tài chíh mạnh sẽ dễ dàng thuê đất trong khu vực công nghiệp,dễ dàng trong việc đâut tư nhà xưởng để di dời ra khái khu vực hiện tại hơn các doanh nghiệp yếu kém. Và giải quyết vấn đề này cần khuyến khích về thuế doanh nghiệp. các doanh nghiệp vừa và nhỏ có doanh thu thấp do đó có Ýt tiền và khó đàu tư cho cơ sở hạ tầng và các kiến thúc kĩ thuật cần thiết để áp dụng các biện pháp kĩ thuật môi trường.
Ý thức doanh nghiệp là một phần quan trọng trong việc đảm bảo được rằng các chính sách về môi trường có thể được các doanh nghiệp thực hiện. Các doanh nghiệp thường các biện pháp làm giảm ô nhiễmc môi trường đồng nghĩa với việc giảm đi lợi nhuận của doanh nghiệp hoặc làm tăng thêm chi phí
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 104618.doc