NỘI DUNG TRÌNH BÀY:
A- KHÁI QUÁT VỀ BONG BÓNG CHỨNG KHOÁN
B- HIỆN TƯỢNG BONG BÓNG VÀ SỤP ĐỔ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN:
I- Hiện tượng bong bóng là gì?
II- Sụp đổ là gì?
III- Phân biệt hiện tượng sụp đổ trên TTCK và trạng thái điều chỉnh thị trường.
IV- Mô hình của các giai đoạn bong bóng chứng khoán.
V- Nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán.
VI- Biện pháp hạn chế tác hại của bong bóng chứng khoán.
C- PHÂN TÍCH MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH:
I- Thị trường Chúng khoán VN trong giai đoạn đầu bong bóng.
II- Mô hình bùng-vỡ (boom-bust) trên TTCK VN 2007.
III- Nguyên nhân dẫn đến việc hình thành bong bóng 2007.
D. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM.
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3352 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện tượng bong bóng và sụp đổ trên thị trường chứng khoán, liên hệ với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác CEO của Lehman Brothers hay Goldman Sachs.
Theo Soros, thị trường tài chính có tính phản hồi, vì kỳ vọng các NĐT có thể tác động đến sự vận động của thị trường. Trên TTCK, các quyết định mua bán đều dựa trên kỳ vọng về giá cả tương lai, nhưng đến lượt nó, giá cả tương lai lại phụ thuộc vào các quyết định mua bán hiện tại.
Có thể hình dung rằng, NĐT đã tính toán giá trị nội tại từ các yếu tố cơ bản mà họ kỳ vọng sẽ diễn ra. Tuy nhiên, kỳ vọng này có thể sai và chính hành động hiện tại của các NĐT có thể tạo nên xu hướng. Sau đó, xu hướng này sẽ làm thay đổi các yếu tố cơ bản của thị trường.
Dựa trên thuyết phản hồi, Soros đã thiết lập nên "Mô hình bùng - vỡ", miêu tả quá trình: giá trị thị trường tác động lên các yếu tố cơ bản và sau đó chính các yếu tố cơ bản làm thay đổi giá trị thị trường" (trong cuốn "Thuật giả kim tài chính" năm 1987, Soros kết luận thuyết phản hồi bằng nhận định: "Giá trị thị trường là nguyên nhân thay đổi giá trị thị trường").
Ở giai đoạn đầu (1), xu thế còn chưa được nhận ra. Rồi đến giai đoạn tăng tốc (2), khi xu thế được nhận ra và tự tăng cường bởi thiên kiến thịnh hành. Một giai đoạn kiểm tra (3) có thể xen vào khi giá sụt.
Nếu thiên kiến và xu thế duy trì, cả hai hiện ra mạnh hơn bao giờ hết (4). Rồi đến giờ phút thử thách (5) khi thực tế không còn duy trì được kỳ vọng bị phóng đại, tiếp theo một giai đoạn chạng vạng (6) khi người ta tiếp tục cuộc chơi, mặc dù họ không còn tin vào nó, với hi vọng họ sẽ được cứu giúp do khôn hơn những kẻ khờ dại.
Cuối cùng đến một điểm giao (7) khi xu thế sụt giảm và ngay cả những kẻ khờ dại nhất cũng từ bỏ hi vọng. Điều này dẫn đến một sự gia tốc thảm khốc theo chiều ngược lại (8), thường được biết đến như một "sự sụp đổ".
V- Nguyên nhân hình thành bong bóng chứng khoán:
1. Các Big Boys (người có nguồn vốn lớn) trên TTCK lợi dụng tâm lý bầy đàn để thao túng thị trường hay còn gọi là hoạt động “làm giá” cổ phiếu trên TTCK.
a. Hoạt động “làm giá” cổ phiếu trên TTCK là gì?
- Quy định tại điều 28, Mục 6 về vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán của Nghị định 36/2007/NĐ-CP, hành vi thao túng giá cổ phiếu TTCK được ghi rõ: là hành vi của các NĐT cá nhân hoặc NĐT tổ chức thực hiện các giao dịch để làm cho mọi NĐT khác hiểu sai lệch về thị trường, tạo ra cung cầu giả tạo, hay việc cấu kết, lôi kéo người khác liên tục mua bán để thao túng giá chứng khoán.
- Tạo ra giao dịch vòng tròn, tức là người này bán cho người kia, sau một vòng giao dịch trở về người bán ban đầu, nhưng giữa người bán và người mua đều không thu được lợi nhuận, mà chỉ nhằm tạo ra cho loại chứng khoán đó thường xuyên có giao dịch mua bán trên thị trường. Giao dịch để tạo cho mức giá của loại chứng khoán đó được duy trì ổn định (không tăng, không giảm trên thị trường) được coi là giao dịch nhằm duy trì ổn định giá trên thị trường; giao dịch nhằm tạo ra mức giá đóng cửa hoặc mở cửa cho loại chứng khoán đó trên thị trường.
b. Quy trình “làm giá” cổ phiếu:
- Cung và cầu có tác động lớn đến giá cả. Bà bá bán cá muốn bán hết hàng và bán với giá cao thì phải làm sao? Cần phải thấy việc quyết định mua hay không mua cá là quyền của bà nội trợ. Bà bán cá không thể ép bà nội trợ phải mua cá của bà. Đã không ép được thì phải tìm cách "dụ" bà mội trợ tự nguyện mua và mua với giá cao. Từ đó phát sinh những toan tính không lành mạnh tác động đến giá cả thông qua việc tác động đến cung và cầu một cách giả tạo. Có nhiều cách để thực hiện cho mục đích này. Nhưng suy cho cùng, dù thực hiện dưới dạng hành vi nào đi chăng nữa thì cũng chỉ nhằm tạo nên cơn sốt ảo về việc có một lượng lớn người mua cá của bà. Như một tất yếu theo qui luật cung cầu bà sẽ bán cá với giá cao.
- Quy trình làm giá như sau:
“Đẩy” thế nào?
- Bên bán nhìn thấy khối lượng dư mua quá lớn thì dù có muốn bán cũng có ý nghĩ chờ đợi thêm vài phiên nữa để bán được giá cao hơn. Vì vậy khối lượng giao dịch thành công trong các phiên đẩy giá rất thấp.
Giá có thể được đẩy lên liên tục vài ngày hoặc cá biệt đến vài tuần. Trong quá trình lên đến đỉnh cao có một vài phiên giao dịch mạnh nhưng giá vẫn tăng gần trần hoặc trần.
- Cũng có trường hợp đẩy giá khéo léo (khó nhận biết hơn) theo xu hướng chung của thị trường, kết hợp giữa bán và mua. Trường hợp này thường xảy ra với các cổ phiếu có nền tảng, có các chỉ số cơ bản tốt, thương hiệu mạnh, có tính thanh khoản cao, khối lượng giao dịch bình quân mỗi ngày tương đối lớn. Các nhà đầu tư lớn với các lợi thế về vốn, kinh nghiệm đầu tư, kiến thức tài chính, khả năng nhận định xu hướng thị trường và tâm lý đám đông tốt… có thể tiến hành đẩy giá theo hình thức này.
Họ tiến hành bán ra mạnh ở mức giá cao gần trần trong tài khoản A. Các nhà đầu tư nhỏ nhận thấy lượng đặt bán ở giá cao nhiều quá nên nghĩ rằng giá khó tăng cao hơn nên họ bán ra ở các mức giá thấp hơn.
Khi khối lượng bán tăng cao và ở các mức giá thấp thì nhà đầu tư lớn tiến hành mua lại ở tài khoản B, khối lượng bán suy giảm thì các nhà đầu tư nhỏ khác lại tranh mua giá cao hơn và nhà đầu tư lớn không tốn nhiều sức lực để đưa giá lên cao trở lại.
Đặc điểm của cách thức đẩy giá này là khối lượng giao dịch vẫn tốt trong các phiên giao dịch, giá vẫn tăng mặc dù có thể không tăng trần liên tiếp. Giá biến động trong các phiên giao dịch chứ không dư mua áp đảo.
Ở hình thức này các nhà đầu nhỏ có thể tham gia nếu nhận định tốt xu hướng của thị truờng vì có thể mua được cổ phiếu trong quá trình giá tăng nhưng không nên mạo hiểm tham gia khi mức giá đã tăng quá cao. Thời gian qua, có một cổ phiếu đã tăng hơn 200% từ 26.000đ/CP lên đến đỉnh cao gần 80.000đ/CP trong trường hợp này.
Hai đẳng cấp “xả hàng”
- Sau quá trình đẩy giá, các nhà đầu tư lớn sẽ hoạch định việc xả hàng ở các mức giá cao. Họ đặt mua ào ạt cổ phiếu ở giá trần nhằm tạo tâm lý hưng phấn cho các nhà đầu tư khác.
- Cách thức đẳng cấp cao hơn là nhà đầu tư lớn đầu giờ đặt mua giá trần và ATO với khối lượng lớn, các nhà đầu tư khác cũng tranh giành đặt lệnh mua giá trần để chờ khớp, vì lượng mua quá lớn nên phiên đầu tiên khối lượng khớp thường không đáng kể.
2. Các chính sách của Chính phủ khuyến khích càng nhiều nhà đầu tư tham gia vào thị trường.
3. Giá cổ phiếu càng lên cao thì lòng tham của con người càng mạnh mẽ, khiến cho NĐT trên thị trường không nhìn nhận thấy mối nguy hiểm đằng sau mức lợi nhuận khổng lồ.
4. Sự quản lý không chặt chẽ đối với các Quỹ đầu tư.
5. Tin tức sai sự thật xuất hiện tràn lan nhằm “làm giá” CP khiến nhà đầu tư nhận biết sai về thị trường và mục đích cuối cùng là cũng chỉ để làm giá cổ phiếu.
VI- Biện pháp hạn chế tác hại của bong bóng chứng khoán:
Làm sao để tránh hay hạn chế tác hại của các bong bóng là vấn đề chính sách hóc búa. Có thể làm lạnh những cơn sốt thị trường bằng nhiều biện pháp, can thiệp hành chính một cách nóng vội, không cân nhắc thường là biện pháp tồi tệ nhất. Dùng các công cụ thị trường, nâng cao nhận thức, tạo cơ chế phòng ngừa rủi ro và biện pháp tuyên truyền, giáo dục có thể có hiệu quả lâu dài. Tăng cung là biện pháp giảm nóng thị trường một cách hữu hiệu. Có thể ảnh hưởng đến thiên kiến bằng nâng cao nhận thức của những người tham gia, cảnh báo họ về những nguy cơ tiềm ẩn, đòi hỏi các công ty được niêm yết và các nhà môi giới chứng khoán phải cung cấp thông tin trung thực, có các quy chế rõ ràng buộc họ phải báo cáo, phải cung cấp thông tin, phải tránh xung đột lợi ích hay biểu hiện của xung đột lợi ích. Xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin của các sở giao dịch chứng khoán vững chắc, giám sát việc dùng đòn bẩy tài chính (dùng vốn vay) một cách chặt chẽ... là những lựa chọn khả dĩ. Song các nhà đầu tư phải tự học qua thành công và thất bại của mình, đấy là khuyến khích sát sườn nhất đối với họ.
PHÂN TÍCH MỘT TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH:
Thị trường Chúng khoán VN trong giai đoạn đầu bong bóng:
Năm 2007 được xem là mốc đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ nhất của thị trường chứng khoán Việt Nam. Giai đoạn này thị trường chứng khoán chia làm hai giai đoạn chính:
Hình 1: Tình hình thị trường chứng khoán ViệtNam năm 2007
Đầu năm 2007 đến giữa năm 2007: thị trường tăng trưởng nhanh và là một trong những thị trường thị trường tài chính mới nổi có tình hình chứng khoán nóng và đã xuất hiện Hiện tượng “khát chứng khoán” và hiện tượng “nổi bong bóng” khiến cho một số chuyên gia lo ngại sẽ có hiện tượng đảo chiều dòng vốn. Họ thậm chí đã nghĩ đến biện pháp kiểm soát vốn. “Qúa nóng” là từ mà các chuyên gia nhận định về thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2007, chỉ số P/E lên tới 38-40 trong khi thông thường chỉ ở mức 15-17 lần. Tại sao thị trường chứng khoán lại nóng như vậy?
Trên thị trường chứng khoán, các nhà đầu tư ngoại gọi thị trường Việt Nam là Second China” ở châu Á và nhận xét đây là điểm sáng về đầu tư. Thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là thành công, với mức tăng trưởng chỉ số VN-Index là 23.3% và HASTC Index là 33.2% so với năm 2006. Tổng giá trị vốn hàng hóa thị trường (cả hai sàn HOSE và HASTC, chưa tính đến trái phiếu) đã đạt trên 43% so với GDP, vượt xa mức so với mục tiêu của nhà nước đặt ra là tới năm 2010, vốn hóa thị trường chiếm 35%.
Hơn 330.000 tài khoản đã được mở ra so với hơn 130.000 tài khoản trong năm ngoái. Điều này thể hiện mức độ quan tâm của công chúng đầu tư lên thị trường chứng khoán ngày càng lớn. Số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài gần 7900 tài khoản ( 5400 tài khoản cá nhân và 500 tài khoản tổ chức) tăng gấp 3 lần so với năm 2006. Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ từ 25-30% cổ phần của các doanh nghiệp niêm yết và chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị trường. Giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chính thức ước khoảng 7.6 tỷ USD (nếu tính cả thị trường không chính thức con số này đạt 20 tỷ USD) tăng gấp 3 lần so với năm 2006.
Nhìn lại vào đầu năm 2007, thị trường thật sự đã trở nên quá "nóng". Dồn dập những nhà đầu tư mới đã tham gia thị trường với một niềm tin rằng sẽ thu được lợi nhuận "khổng lồ", đến mức trên nhiều sàn giao dịch của các công ty chứng khoán (vốn bấy lâu vắng khách) vào lúc đó cũng trở nên quá tải. Đỉnh điểm của sự "kỳ vọng" là VN-Index đã lên đến 1.170,67 điểm vào ngày ngày 12-3-2007 - mức kỷ lục cho đến tận hôm nay, tăng hơn 55% so với phiên cuối cùng của năm 2006 (VN-Index ở mức 751,77 điểm vào ngày 29-12-2006).
Liệu năm 2008 có lặp lại kịch bản hay không, chứ còn vào thời điểm tràn đầy sự hăm hở của nhà đầu tư vào lúc ấy, 90% công ty niêm yết đã tranh thủ "thời cơ" để huy động vốn. Điều đáng nói ở đây, sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán không chỉ làm tốn giấy mực của báo chí trong nước mà còn thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của các báo giới nước ngoài. Thời gian trước và sau Tết, không ngày nào mà hai từ Việt Nam không xuất hiện trên mặt báo cùng với tin tức về thị trường chứng khoán.
Phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam (AMCHAM) đăng tải trên website của họ bài viết “thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa thiếu cơ sở”. Thời báo Tài Chính Anh (Financial Times) dẫn lời các nhà quản lý tài chính nước ngoài cảnh báo thị trường chứng khoán TP.HCM đang rơi vào tình trạng quá nóng và vượt quá giá trị thật. Thậm chí tuần báo Wall Street Joural – tuần báo có uy tín vào hạng bậc nhất trên thế giới cũng có bài bình luận về Thị trường chứng khoán Việt Nam với tựa "Saigon’ Miss”. Đáng chú ý là IMF cũng đã gửi bản khuyến cáo đến chính phủ Việt Nam về sự bùng nổ của TTCK.
Mô hình bùng-vỡ (boom-bust) trên TTCK VN 2007:
Quá trình vận động của TTCK Việt Nam giai đoạn 2005 - 2008 là một minh chứng cho mô hình bùng - vỡ của Soros. Trong giai đoạn thứ nhất, sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam 2004 - 2005 đã tạo tiền đề cho xu hướng tăng trưởng của TTCK.
Tuy nhiên, xu hướng này vẫn chưa được chú ý (1). Năm 2006, một xu hướng đi lên được thiết lập, khi nhiều NĐT trong và ngoài nước kỳ vọng vào triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế (2). Giai đoạn 3 là một sự kiểm nghiệm khi TTCK có sự sụt giảm.
Tuy nhiên, giai đoạn kiểm nghiệm này nhanh chóng bị vượt qua, bởi niềm tin của NĐT được củng cố. Liên tiếp các sự kiện như Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị APEC và gia nhập WTO (tháng 11/2006), khiến NĐT kỳ vọng vào triển vọng tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. Thậm chí, các định chế tài chính trên thế giới không tiếc lời khen Việt Nam như là "một ngôi sao mới nổi" (nguồn: ADB 2006).
Lúc này, chứng khoán Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ, VN-Index đạt mức kỷ lục 1.170 điểm, khi hầu hết NĐT đều tin rằng, nền kinh tế sẽ tiếp tục đi lên. Đây chính là giai đoạn 4 trong mô hình bùng - vỡ.
Có vẻ như các quy tắc định giá hoạt động chính xác khi nhiều NĐT sẵn sàng chấp nhận một mức P/E lên đến 40 lần. NĐT trở nên phấn khích với các doanh nghiệp có chia thưởng, trả cổ tức bằng cổ phiếu…, mà không nghĩ đến doanh nghiệp làm như thế nào để tạo ra lợi nhuận, bù đắp cho sự pha loãng đó.
Các NĐT cũng quên đi thực tế rằng, sự tăng trưởng của nền kinh tế, điều khiến họ trở nên phấn khích, lại dựa quá nhiều vào tăng trưởng tín dụng. Trong vòng 2 năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 cho đến cuối tháng 6/2007, GDP tăng 22%, trong khi mức cung tiền lên đến 110%.
Giai đoạn 5 diễn ra trong khoảng thời gian năm 2007 - 2008, thời điểm mà chứng khoán tạo nên mô hình ba đỉnh. Có một vấn đề mà các NĐT không nhận ra, đó là những hành động của họ trong giai đoạn 2004 - 2007 đã tạo nên sự thay đổi trong các yếu tố kinh tế vĩ mô.
Theo đó, sự hấp dẫn của TTCK khiến dòng vốn ngoại đổ vào ồ ạt. Cụ thể, Ngân hàng ANZ ước tính, dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Việt Nam đạt 5,6 tỷ USD trong năm 2007, cao hơn cả dòng vốn đầu tư trực tiếp là 4,6 tỷ USD (con số giải ngân).
Trong khi đó, Chính phủ muốn duy trì tỷ giá cố định, nên đã mua vào hơn 7 tỷ USD và điều đó tạo nên áp lực lạm phát. Đến lượt nó, áp lực lạm phát là nguyên nhân khiến Chính phủ phải thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ trong năm 2008.
Ở giai đoạn 6, khi tác động lạm phát tăng cao là lúc NĐT bắt đầu nhìn nhận lại những kỳ vọng. Và họ nhận thấy rằng, thực tế hiện tại đã không đỡ nổi các kỳ vọng. Giai đoạn 7 và 8 chính là sự sụp đổ của thị trường mà chúng ta đã chứng kiến. Mô hình bùng - vỡ của TTCK Việt Nam có dạng đối xứng giống như lý thuyết.
III- Nguyên nhân dẫn đến việc hình thành bong bóng 2007:
Tại sao những nhà đầu tư có lý trí lại muốn đầu tư vào các tài sản mà mặc dù biết là chúng được đánh giá quá cao? Yếu tố nào nằm sau bong bóng đầu cơ vào năm 2007 theo ý kiến của các nhà đầu tư cá nhân và có tổ chức? Giả định rằng nhà đầu tư hợp lý, bong bóng đầu cơ là một sự kiện không nên tồn tại.
Rất nhiều lý do được đưa ra để giải thích cho sự phát triển quá nóng của Thị trường chứng khoán Việt Nam. Nhà đầu tư trong nước đổ lỗi cho nhà đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài đổ lỗi cho sự "điên cuồng” của nhà đầu tư trong nước. Tuy nhiên quy chung lại phần lớn đồng tình cho rằng nguyên nhân chính là do tâm lý đầu tư bầy đàn, đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước- thiếu kiến thức cũng như không có kỳ vọng riêng. Và chơi chứng khoán đã được báo chí nói tới như một thứ “mốt”, một “phong trào” lan truyền nhanh hơn bất cứ dịch bệnh nào, trên khắp cả nước.
Một cuộc điều tra đã được tiến hành để biết được nguyên nhân dẫn đến việc hình thành bong bóng 2007. Có 2 vấn đề được đề cập tới trong cuộc điều tra đó là:
Bạn đã từng ở bất cứ thời điểm nào trong thời kỳ bong bong CK, bạn có thể dự đoán tương lai phát triển của TT hay không?
Có 64% các nhà đầu tư cá nhân và 38% các nhà đầu tư có tổ chức không nghĩ là họ có thể dự đoán được sự phát triển của thị trường ở một vài thời điểm trong thời kỳ bong bóng đầu cơ. 26% các nhà đầu tư cá nhân và 57% các nhà đầu tư có tổ chức tin rằng họ có thể dự đoán thị trường trong khi 10% nhà đầu tư cá nhân và 4% nhà đầu tư có tổ chức không quyết định giữa hai chọn lựa.
Phần lớn các nhà đầu tư có tổ chức nghĩ rằng họ có thể dự đoán sự phát triển của thị trường trong khi chỉ có một số ít các nhà đầu tư cá nhân nghĩ là họ có thể. Một cá nhân thường có xu hướng tin rằng họ nhận thức tốt hơn người khác.
Kết quả trong bảng khảo sát này là 26% các nhà đầu tư cá nhân tin rằng họ có thể dự đoán thị trường. Điều này có thể được giải thích một phần bởi thuyết quá tự tin, thông qua những người có xu hướng phóng đại khả năng của mình và có ước lượng sai lệch kết quả thực. Rõ ràng, 57% nhà đầu tư có tổ chức bị ảnh hưởng bởi một niềm tin mạnh mẽ vào khả năng của chính mình. Tuy nhiên, có một số ít các nhà đầu tư cá nhân dường đủ tự tin vào khả năng tiên đoán của họ như những nhà đầu tư có tổ chức.
Như vậy, theo kết quả điều tra, thì phần lớn các nhà đầu tư tổ chức có thể dự đoán được thị trường còn các nhà đầu tư cá nhân thì ít có khả năng này. Điều dễ nhận ra ở đây là các NĐT tổ chức sẽ chèo lái thị trường theo các mà họ muốn, và các NĐT cá nhân theo tâm lý bầy đàn sẽ đi theo các tổ chức đó. Tuy nhiên, các tổ chức là là những người chuyên thao túng giá để tối đa hóa lợi ích của mình, thế thì, dẫn đến việc hình thành bong bóng chứng khoán là điều khó tránh khỏi.
Bạn phản ứng như thế nào với các nguồn thông tin nhạy cảm?
Người ta có xu hướng phản ứng thái quá đối với các sự kiện mang tính bất ngờ hay kịch tính. Thị trường chứng khoán có phản ứng thái quá và hành vi đó có ảnh hưởng giá chứng khoán? Các nhà đầu tư phản ứng với các công bố và những thông tin khác trong thời kỳ bong bóng đầu cơ như thế nào?
Có 57% nhà đầu tư cá nhân và 62% có tổ chức thay đổi danh mục đầu tư của họ sau nhiều tin tức như thế. 37% các nhà đầu tư cá nhân và 15% các nhà đầu tư có tổ chức không quan tâm đến tin công bố từ các công ty và chỉ 5% các nhà đầu tư cá nhân và 17% các nhà đầu tư có tổ chức thay đổi danh mục đầu tư của họ chỉ sau một công bố.
Các nhà đầu tư dường như xem trọng một cách không cân xứng sự phát triển ngắn hạn của nền kinh tế. Chứng khoán với một thời gian dài giá tăng thường có xu hướng được định giá quá mức và có lợi tức bình quân thấp. Phần lớn cả 2 nhóm nhà đầu tư cho rằng họ sẽ thay đổi danh mục đầu tư của mình sau nhiều tin tức (công bố) chỉ cùng một hướng. Người ta thì khá nhạy cảm khi thấy những mẫu tin mà có thể khiến giá chứng khoán bị phản ứng thái quá và hậu quả là tạo ra những bong bóng đầu cơ thị trường chứng khoán.
Luật Chứng khoán có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 tạo hành lang pháp lý quan trọng cho thị trường chứng khoán Việt Nam phát triển mạnh mẽ như vậy.
Các tiêu chuẩn tham gia thị trường với nhiều thành viên như: công ty chứng khoán, công ty niêm yết, công ty quản lý quỹ đã được nâng cấp. Một điểm có tầm ảnh hưởng rộng lớn đến văn hoá kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam là quy định về nghĩa vụ công bố thông tin đối với công ty đại chúng. Quy định này buộc các doanh nghiệp khi đạt đến tầm quy mô nhất định phải hoạt động kinh doanh công khai, minh bạch, xoá bỏ thói quen kinh doanh khép kín của đại bộ phận doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời, Luật Chứng khoán cũng chính thức đưa ra điều khoản quy định về việc quản lý thị trường tự do. Để hiện thực hóa quy định này, vào ngày 8/11/2007, Bộ tài chính đã công bố Quyết định số 3567/QĐ-BTC phê duyệt phương án tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết (OTC), giúp lành mạnh thị trường tự do và chính thức. Về nguyên tắc chung, chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán hoặc trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ được đăng ký, lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán và giao dịch tại công ty chứng khoán. Kết quả giao dịch sẽ được tổng hợp qua Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội để thực hiện thanh toán bù trừ tại Trung tâm lưu ký. Hệ thống giao dịch cổ phiếu OTC dự kiến khởi động giao dịch cuối quí 1/2008 với 40 cổ phiếu của các công ty chứng khoán, ngân hàng và bảo hiểm, và được dự báo sẽ trở thành “chợ giao dịch chứng khoán” có quy mô lớn nhất.
Chỉ thị 03 của Ngân hàng Nhà nước khống chế cho vay đầu tư chứng khoán – được báo chí đề cập liên tục trong năm, đã tạo nên ảnh hưởng lớn đến TTCK 2007.
Về kiểm soát quy mô, chất lượng tín dụng và cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán nhằm kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
1. Đối với các tổ chức tín dụng:
1.1. Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp huy động vốn để mở rộng cho vay, đầu tư đối với nền kinh tế trong năm 2007 và những năm tới; chú trọng điều chỉnh cơ cấu và kỳ hạn nguồn vốn huy động cho phù hợp với cơ cấu và kỳ hạn tín dụng, đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng.
1.2. Mở rộng tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế
1.3. Để góp phần thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển bền vững, đồng thời hạn chế rủi ro các khoản cho vay, chiết khấu giấy tờ có giá để đầu tư kinh doanh chứng khoán, các tổ chức tín dụng thực hiện các biện pháp về an toàn.
2. Đối với các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước:
2.1. Theo chức năng, nhiệm vụ của mình, các đơn vị tại trụ sở chính Ngân hàng Nhà nước tham mưu cho Thống đốc Ngân hàng Nhà nước thực hiện các nhiệm vụ.
2.2. Ngân hàng Nhà nước các chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện các nhiệm vụ
Bùng nổ truyền thông về thị trường chứng khoán.
Chứng khoán và thị trường chứng khoán đã trở thành chuyên mục thường xuyên và không thể thiếu không chỉ đối với nhiều tờ báo kinh tế, truyền hình mà còn cả những tờ báo chuyên về xã hội.
Sự bùng nổ này đã dẫn đến sự ra đời của Câu lạc bộ Nhà báo chứng khoán vào ngày 28/5/2007, với sự quy tụ của gần 40 thành viên là các nhà báo chuyên sâu trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán và là một tổ chức nghề nghiệp có chức năng hỗ trợ về kiến thức và nghiệp vụ cho các thành viên tham gia.
Nhà đầu tư nước ngoài vẫn bị trói tay
Thực tế không đúng như kỳ vọng của giới đầu tư nội địa. Rào cản về hành chính và luật lệ đã làm nản lòng nhiều nhà đầu tư.
Ví dụ, nhà đầu tư có thể mua bán chứng khoán trực tiếp từ nước ngoài với điều kiện phải có mã số kinh doanh (mà để lấy được nó thì rất phức tạp), và phải có mặt để ký các mẫu chứng từ, hoặc phải ủy quyền cho một công ty môi giới nội địa (là điều rất rủi ro trong con mắt của họ, trong trường hợp giao dịch không thành công).
Bởi vậy, giải pháp tối ưu cho nhiều nhà đầu tư vẫn còn muốn đầu tư vào Việt Nam là đầu tư thông qua các quỹ đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, tuy vẫn còn nhỏ về mặt quy mô và tổ chức, nhưng ít nhất thì cũng đang hoạt động một cách rất bài bản và ít rủi ro hơn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Năm 2007 là năm đầu tiên diễn ra các đợt phải cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là các tổng công ty lớn trong danh sách hơn 20 doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cổ phần hoá trong năm này.
Hai đợt IPO của 2 doanh nghiệp lớn là Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) đã hoàn thành trong năm nay, nhưng đằng sau sự kiện IPO của loại doanh nghiệp này còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Hiện tượng mua bán năm thâm niên công tác gây thiệt hại cho không biết bao nhà đầu tư thiếu kiến thức và kinh nghiệm.
Báo chí năm qua đã liên tục đưa tin và phản ánh những vấn đề tồn tại trong quá trình IPO các doanh nghiệp lớn với hy vọng sang năm 2008, IPO của các doanh nghiệp nhà nước sẽ được thực hiện chuyên nghiệp và minh bạch hơn.
Ngân hàng tham gia đầu cơ chứng khoán
Với một hoạt động đầu tư kinh doanh chứng khoán siêu lợi nhuận, năm 2006 và năm 2007 lượng vốn do các ngân hàng đổ vào để kinh doanh chứng khoán khá lớn, đó là chưa kể ngân hàng cũng đẩy mạnh hoạt động cho vay kinh doanh chứng khoán.
Như vậy ngành ngân hàng đã góp phần tạo nên một luồng tiền lớn đổ vào chứng khoán bằng hoạt động đầu tư chứng khoán của mình.
Quỹ đóng đầu tiên được phép tăng vốn đồng thời sự điều chỉnh giá mang tính chủ quan của Công ty Quản lý quỹ gây nhiều bất bình cho nhà đầu tư.
Điều này cũng bộc lộ hạn chế của thị trường đằng sau thành công về việc huy động vốn diễn ra trong năm 2007 diễn ra một cách mạnh mẽ và dễ dàng.
Sự bùng nổ hiện tượng phát hành trái luật và nhiều doanh nghiệp bị phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán. Theo thống kê của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, năm 2007 phạt 63 tổ chức và cá nhân trong đó phạt tiền 55 trường hợp.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM chính thức thành Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM (HOSE)
Cùng với việc chuyển thành Sở giao dịch chứng khoán, cơ quan này chính thức áp dụng khớp lệnh liên tục từ 30/7/2007 để tạo tính thanh khoản cho thị trường và tăng cơ hội cho nhà đầu tư. Đồng thời, kế hoạch giao dịch từ xa cũng đã và đang khởi động và chạy thử nghiệm liên tục tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội.
Tuy nhiên, sự cải tiến công nghệ đó đã không tránh khỏi những trục trặc. Năm 2007 có thể nói là năm có nhiều sự cố về giao dịch, trong đó đáng kể là việc trục trặc hệ thống số liệu giá tham chiếu khiến HOSE phải ngừng giao dịch một ngày. Ngoài ra còn có sự nhầm lẫn về room với STB, nhầm lẫn giá tham chiếu của cổ phiếu TLT tại Hà Nội và tính nhầm HaSTC-Index.
Như vậy, các nguyên nhân dẫn đến việc hình thành hiện tượng bong bóng trên thị trường chứng khoán là rất nhiều. Tuy nhiên, một nguyên nhân chính và tất yếu đó chính là do t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BONG BONG CHUNG KHOAN - N1.doc