MỤC LỤC 3
LỜI MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Đối tượng nghiên cứu 5
3. Mục đích nghiên cứu 5
4. Phương pháp nghiên cứu 6
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT HIỆN TƯỢNG TỪ VAY MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT 7
1.1 Khái niệm 7
1.2 Nhu cầu sử dụng từ vay mượn trong tiếng Việt 8
1.3 Sự việt hóa từ mượn 10
1.3.1 Việt hóa ngữ âm 10
1.3.2 Việt hóa chữ viết 11
1.3.3 Việt hóa ngữ nghĩa 12
1.4 Hiện tượng chêm xem ngôn ngữ 12
1.4.1 Khái niệm và thực trạng về việc chêm xem ngôn ngữ ở nước ta hiện nay 12
1.4.2 Hậu quả của hiện tượng chêm xem ngôn ngữ 13
1.4.3 Những giải pháp thiết thực nhằm đẩy lùi hiện tượng chêm ngôn ngữ 14
CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI TỪ VAY MƯỢN THEO NGUỒN GỐC 15
2.1 Từ mượn tiếng Hán 15
2.1.1 Từ mượn Hán-Việt 15
2.1.2 Mục đích vay mượn từ Hán-Việt 15
2.2 Từ mượn tiếng Pháp 17
2.3 Từ mượn tiếng Nga 17
2.4 Từ mượn tiếng Anh 18
2.5 Từ mượn các ngôn ngữ khác 18
2.5.1 Ảnh hưởng của ngôn ngữ Khơme 18
2.5.2 Ảnh hưởng của ngôn ngữ Tày-Thái 19
2.5.3 Ảnh hưởng của ngôn ngữ Ấn Độ 19
2.5.4 Ảnh hưởng của tiếng Nhật 20
CHƯƠNG 3: HIỆN TƯỢNG LẠM DỤNG TỪ MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT 21
3.1 Thực trạng 21
3.1.1 Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ mạng 21
3.1.2 Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ giao tiếp (ngôn ngữ nói) 22
3.1.3 Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ viết 23
3.2 Đánh giá 23
3.2.1 Ảnh hưởng tích cực 23
3.2.2 Ảnh hưởng tiêu cực 24
3.3 Giải pháp 25
KẾT LUẬN 27
27 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/02/2022 | Lượt xem: 1270 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiện tượng từ vay mượn trong Tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao và giải trí. Bởi vì tiếng Anh được coi là ngôn ngữ giao tiếp quốc tế. Ngoài ra ở Việt Nam tiếng Anh còn là ngôn ngữ bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông và cũng là ngoại ngữ được sử dụng rộng rãi. Vì thế dù nhiều từ đã có từ thuần Việt nhưng mọi người vẫn quen sử dụng từ mượn tiếng Anh. Trong xu thế chung như giai đoạn hiện nay thì sự tiếp xúc ngôn ngữ đang ngày càng phát triển sâu rộng trên nhiều mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội nên các từ mượn không chỉ dừng lại ở các thuật ngữ chuyên ngành mà còn rất đa dạng và phong phú bởi các từ liên quan đến đời sống bình thường phục vụ cho nhu cầu giao tiếp hàng ngày (ẩm thực, trang phục, giải trí, tình cảm). Vì vậy, “có thể coi các từ vay mượn là các kí hiệu ngôn ngữ - xã hội” vì các từ lúc này “Phản ánh những biến động trong xã hội của ngôn ngữ đi vay” (Nguyễn Văn Khang, Từ ngoại lai trong tiếng Việt, 2007). Điều đó giúp thể hiện rõ ràng hơn về tình hình phát triển của xã hội Việt Nam hiện nay. Điển hình như nước việc sử dụng tiếng Anh phổ biến hơn trong xã hội ngày nay cho thấy nước Việt Nam ta cũng đang trên đà hội nhập quốc tế để phấn đấu trở thành một nước CNH-HĐH. Tuy nhiên, mỗi một người Việt Nam cần phải học cách sử dụng từ vay mượn nước ngoài sao cho thật hay, thật hợp lí, mang lại hiệu quả cao nhất trong diễn đạt ngôn ngữ mà không làm mất đi sự trong sáng thuần túy của tiếng Việt.
Sự việt hóa từ mượn
Cũng giống như những ngôn ngữ khác, hiện tượng tiếp nhận từ ngữ của một ngôn ngữ vào tiếng Việt không diễn ra một cách đơn giản mà các từ mượn phải chịu sự biến đổi theo quy luật của tiếng Việt. Quá trình đồng hoá các từ ngoại lai diễn ra trên cả bốn mặt là ngữ âm, chữ viết và ngữ nghĩa.
Việt hóa ngữ âm
Về mặt ngữ âm, hệ thống ngữ âm của tiếng Việt được hình thành dần dần trên cơ sở phương ngữ Bắc Bộ với sự bổ sung thêm một số yếu tố của các phương ngữ khác. Vì thế, đứng trước những biến thể địa phương, cần lựa chọn biến thể nào phù hợp với hệ thống ngữ âm chuẩn của tiếng Việt. Chẳng hạn, giữa các biến thể dô và vô, nhâng dâng và nhân dân, dĩa và đĩa, gáo và gạo,... thì vô, nhân dân, đĩa, gạo,... là chuẩn. Khi các địa phương dùng các từ khác nhau để chỉ cùng một sự vật, hiện tượng thì từ của phương ngữ Bắc Bộ được coi là chuẩn. Chẳng hạn, giữa các từ mô và đâu, nỏ và không, chộ và thấy,... thì các từ đâu, không, thấy là chuẩn. Thực tế, chuẩn ngữ âm hình thành dần dần, không thể đòi hỏi các địa phương trong cả nước phát âm các từ thống nhất ngay được. Tuy nhiên, không thể coi nhẹ vấn đề chính âm. Vai trò của nhà trường và các phương tiện thông tin đại chúng là vô cùng quan trọng trong vấn đề này. Cách phát âm của các từ mượn cần phải phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt, những âm mà tiếng Việt không có hoặc có nhưng xuất hiện ở những vị trí bất thường, trái với ngữ âm tiếng Việt sẽ bị biến đổi thành các âm tiếng Việt có cách phát âm gần giống hoặc bị bỏ qua, không chuyển đổi thành âm tiếng Việt nào.
Ví dụ: poupée: búp bê; équipe: ê kíp.
Tiếng Việt gọi sự chuyển đổi ngữ âm này là "phiên âm". Tiếng Việt không có các tổ hợp phụ âm nên khi được phiên âm sang tiếng Việt các tổ hợp phụ âm sẽ bị loại bỏ theo các cách sau:
Âm tiết hóa các phụ âm cấu thành nên các tổ hợp phụ âm đó. Nguyên âm thêm vào để tạo thành âm tiết thường là "ơ". Ví dụ: địa danh tiếng Pháp "Genève" /ʒə.nɛv/ được phiên âm là "Giơ-ne-vơ", phụ âm /v/ được âm tiết hóa thành "vơ".
Bỏ qua một bộ phận của tổ hợp phụ âm. Ví dụ: từ tiếng Pháp "gramme" /gram/ được phiên âm là "gam", phụ âm /r/ trong phụ âm kép /gr/ bị bỏ qua.
Áp dụng đồng thời cả hai cách trên.
Việt hóa chữ viết
Về mặt chữ viết, chữ quốc ngữ là cơ sở tốt để thống nhất chính tả giữa các vùng. Ngôn ngữ trước hết là để nói, nhưng trong thực thế giao lưu văn hoá và xã hội ngày nay, chữ viết có một tác dụng quyết định đối với cuộc sống. Vì thế, chuẩn chính tả là cơ sở để bảo đảm và củng cố tính thống nhất của ngôn ngữ. Người miền Nam có thể nói coong cháo, nhâng dâng, gất... nhưng khi viết thì phải viết con cháu, nhân dân, rấtNgười miền Bắc có thể phát âm lẫn lộn châu với trâu, nồi với lồi, xung với sungnhưng khi viết thì phải viết con trâu, châu báu, xung đột, bổ sung, lồi lõm, cái nồiTrong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật. Khi viết bằng chữ quốc ngữ theo đúng cách phát âm trong thực tế của từ mượn. Trong tiếng Việt chúng được nói như thế nào thì ghi lại bằng chữ quốc ngữ đúng như thế. Các âm tiết có thể được viết liền nhau hoặc viết tách rời, có khoảng trắng giữa các âm tiết hoặc nối với nhau bằng các dấu gạch ngang đặt giữa các âm tiết, ví dụ : vali, va li, va-li. Các từ mượn được viết tách rời các âm tiết thường là từ có hai âm tiết. Trong một số trường hợp khi các âm tiết được viết liền nhau, không có khoảng trắng hoặc dấu gạch ngang xen vào giữa các âm tiết, nếu không được chỉ rõ cách đọc từ trước người đọc có thể đọc sai hoặc phân vân không biết nên đọc thế nào mới đúng vì không biết một chữ cái nào đó là chữ cái cuối cùng của một âm tiết hay là chữ cái đầu tiên của một âm tiết khác sau âm tiết đó.
Việt hóa ngữ nghĩa
Về mặt ngữ nghĩa, một đơn vị từ vựng hợp chuẩn là đơn vị có khả năng diễn đạt chính xác nhất nội dung cần diễn đạt, tự thân nó lại ngắn gọn, không gây hiểu lầm. Trước đây, có người đã dùng từ "mẹo" để diễn đạt khái niệm "ngữ pháp". Mặc dù từ "mẹo" ngắn gọn, lại rất Việt Nam nhưng không chính xác, dễ gây hiểu lầm nên không thể coi là từ hợp chuẩn. Khi dùng từ này, người ta dễ liên tưởng đến nghĩa gốc của nó là "cách khôn ngoan, thông minh được nghĩ ra trong một hoàn cảnh nhất định để giải quyết việc khó", trong khi ngữ pháp lại là quy luật khách quan, không phải con người tự nghĩ ra. Mặt khác, khi cần diễn đạt khái niệm "ý nghĩa ngữ pháp" thì nếu nói "ý nghĩa mẹo" thì thật khó mà hiểu được. Ví dụ: để diễn đạt khái niệm "performative" nếu dùng thuật ngữ "ngữ vi" cũng dễ nhầm là phạm vi ngôn ngữ. Theo chúng tôi, thuật ngữ "ngôn hành" là thích hợp hơn. Khi tiếp nhận, tiếng Việt có thể thể không tiếp nhận tất cả các ý nghĩa của từ trong ngôn ngữ khác hoặc mang một ý nghĩa hoàn toàn mới. Ví dụ: từ "balle" trong tiếng Pháp có các nghĩa là "quả bóng" và "đầu đạn", nhưng tiếng Việt chỉ tiếp nhận từ này với ý nghĩa "quả bóng".
Trong việc chuẩn hoá từ vựng tiếng Việt, cần lưu ý ba mảng khác nhau: các từ thông thường, các tên riêng, và các thuật ngữ khoa học, kĩ thuật.
Hiện tượng chêm xem ngôn ngữ
Khái niệm và thực trạng về việc chêm xem ngôn ngữ ở nước ta hiện nay
Trong quá trình hội nhập và phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, trong đó có ngôn ngữ. Đây cũng là hiện tượng mang tính phổ biến mà Việt Nam chúng ta cũng không phải và không thể là trường hợp ngoại lệ. Mặt tích cực là đã góp phần làm phong phú thêm cho kho từ vựng của ngôn ngữ dân tộc, đặc biệt là những thuật ngữ mới trong các lĩnh vực khoa học và kỹ thuật; làm đa dạng hơn các hình thức giao tiếp, và về phương diện nào đó, nó giúp chúng ta có điều kiện tiếp cận nhanh với những nền văn hóa và văn minh phát triển hơn. Bên cạnh đó, về văn hóa nói chung, nó cũng có thể gây nên những tác động tiêu cực, đó là sự xô bồ, lai căng, thậm chí chủ nhân văn hóa còn quay lưng lại với văn hóa truyền thống nếu chủ thể tiếp nhận chưa có được sự chuẩn bị đầy đủ khả năng lựa chọn; về ngôn ngữ nói riêng, những biểu hiện trong cách nói, cách viết “khác lạ” đã làm mất đi bản sắc vốn có của tiếng Việt. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để những giá trị của văn hóa truyền thống, mà cụ thể là văn hóa ngôn ngữ không bị phủ định bởi sự phát triển của văn minh và ngược lại, nó không trở thành lực cản cho sự phát triển ấy; chúng phải trở thành điểm tựa và thúc đẩy lẫn nhau trên con đường phát triển của xã hội.
Trong lời ăn tiếng nói, trong văn bản tiếng Việt hiện nay rất phổ biến hiện tượng chêm xen từ ngữ ngoại (chủ yếu là tiếng Anh).
Ví dụ “Mày fair play quá”, “Download xong chưa?”, “Nhiều fan hâm mộ ghê”, “Open tour này dành cho nhóm khách teen”, “Lập trình viên là một hot-job nhất bây giờ” thậm chí có thể gồm cả cách nói có từ viết tắt như: “Khu công nghiệp này xây bằng vốn ODA”, “Mức độ tăng trưởng GDP là 8,5%”
Đáng chú ý là có những từ gốc ngoại đã được Việt hoá từ lâu, nay trong không khí cởi mở thời mở cửa, hội nhập, lại “vô tư” phục hồi nguyên dạng: xe bus (so sánh: xe buýt), vải line (lanh), tole Hoa Sen (tôn lợp mái), bếp gas (ga), may complete (com lê), gatau sinh nhật (bánh ga tô).
Hậu quả của hiện tượng chêm xem ngôn ngữ
Việc sử dụng ngôn ngữ này trong một thời gian dài, liên tục, không có sự tự giác và kiểm soát sẽ hình thành một thói quen vào trong tiềm thức của mọi người khiến cho họ sử dụng nó trong vô thức. Làm cho đa số các bạn trẻ hiện nay đều gặp không ít rắc rối với việc viết sao cho đúng chính tả, đặt câu sao cho đúng ngữ pháp hay sử dụng từ ngữ như thế nào cho đúng với ngữ nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh.
Những giải pháp thiết thực nhằm đẩy lùi hiện tượng chêm ngôn ngữ
Nhà nước cần có các văn bản quy định cụ thể về cách sử dụng tiếng nước ngoài trong các loại hình văn bản, trên các hình thức truyền thông, quảng cáo. Các cơ quan báo chí, truyền thông, bên cạnh việc tuyên truyền, khuyến cáo, họ phải trở thành những người mẫu mực trong việc sử dụng ngôn từ.
Ở nhà trường, bên cạnh việc giáo dục cho học sinh thấy rõ được cái đẹp, cái tinh tế, bản sắc và tiềm năng của tiếng Việt chúng ta, với phương châm: có hiểu mới yêu, có yêu mới trân trọng, mới làm tốt việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, các thầy cô giáo phải là tấm gương trong việc thực hiện nhiệm vụ đó. Ngôn ngữ của các thầy cô giáo phải trong sáng, chuẩn mực, phù hợp với quy tắc và phong cách tiếng Việt. Giao lưu, tiếp xúc ngôn ngữ là hiện tượng xã hội. Để hạn chế những tiêu cực trong tiếp nhận, sử dụng cần có sự tham gia của toàn xã hội, trong đó gia đình và các tổ chức đoàn thể xã hội đóng vai trò quan trọng. Gia đình cần thường xuyên nhắc nhở và giáo dục con em mình trong việc sử dụng ngôn ngữ đúng chuẩn mực; cần thận trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ khi giao tiếp với nhau giữa các thành viên gia đình, tập thể; không để những hiện tượng xấu trong giao tiếp ngôn ngữ ảnh hưởng tiêu cực đến con em mình. Các tổ chức đoàn thể mà hạt nhân là đoàn thanh niên, tổ chức các diễn đàn, bên cạnh tìm hiểu kiến thức về tiếng Việt còn hướng tới việc tạo môi trường thực hành ngôn ngữ, đồng thời cần kịp thời điều chỉnh những sai lạc trong tiếp nhận, sử dụng các ngôn ngữ ngoại lai.
CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI TỪ VAY MƯỢN THEO NGUỒN GỐC
Từ mượn tiếng Hán
Từ mượn Hán-Việt
Sau 1000 năm Bắc thuộc, văn hóa Hán xâm nhập và chi phối sinh hoạt xã hội người Việt khá sâu đậm. Ðặc biệt là chữ Hán đã được dùng làm chữ viết chính thức của ta trong hàng thế kỷ, chính vì thế, tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán là điều không thể tránh khỏi. Về mặt ngôn ngữ, tuy người Việt vẫn nói tiếng Việt nhưng tiếng Hán, nhất là trong những phạm vi triết học, chính trị và kỹ thuật được người Việt vay mượn rất nhiều. Hiện nay, số lượng từ Hán Việt chiếm hơn 60% trong vốn từ vựng tiếng Việt. Ða số từ Hán Việt là từ đa âm tiết.Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được Việt hóa về cách đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Đó gọi là cách đọc Hán-Việt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ khoảng thế kỉ X- XI và được sử dụng ổn định cho đến nay. Điều đó có nghĩa là các từ vay mượn của tiếng Hán được người Việt đọc theo âm cổ – âm tiếng Hán đời Đường – có sự Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt. Không những thế, tiếng Việt còn dùng các yếu tố gốc Hán để tạo ra từ mới chỉ dùng trong tiếng Việt, ví dụ: tiểu đoàn, đại đội, hoặc kết hợp một yếu tố gốc Hán với một yếu tố thuần Việt để tạo ra từ mới, ví dụ: binh lính, tàu hỏa, đói khổ. Ngày nay, khi muốn sử dụng một thuật ngữ mới, người ta đều có xu hướng dùng từ Hán-Việt như: "lập trình", "vi mạch", "cộng hòa",Ngoài ra, còn có các từ gốc Hán được tiếp nhận bằng con đường khẩu ngữ với phát âm của một phương ngữ nào đó của tiếng Hán hiện đại: ca la thầu, mì chính, quẩy, hủ tiếu,... Những từ này là từ mượn và thường không được xem là từ Hán–Việt.
Mục đích vay mượn từ Hán-Việt
Nhìn chung, tiếng Việt vay mượn các từ tiếng Hán nhằm hai mục đích như sau:
Thứ nhất: bổ sung những từ còn thiếu:
Trong thời kì đầu, tiếng Việt còn thiếu rất nhiều từ cần bổ sung, người Việt một mặt đã tạo ra một số từ mới trên cơ sở các nguyên tắc cấu tạo từ tiếng Việt, song mặt khác cũng đã vay mượn một số lượng lớn từ ngữ tiếng Hán. Những từ ngữ vay mượn từ xa xưa của tiếng Hán đã bị thay đổi nhiều trong tiếng Việt và chúng hoạt động giống như từ thuần Việt nên nhiều người vẫn nghĩ rằng đó là từ thuần Việt, ví dụ: buồn, mây, chè Vì vậy, khi nói đến từ ngữ gốc Hán trong tiếng Việt, người ta thường nghĩ đến những từ được vay mượn trong thời kì tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ độc lập và được đọc theo một nguyên tắc chung giống nhau: đọc theo âm Hán-Việt. Ví dụ:
Các từ trong lĩnh vực văn hóa: lễ nghi, lễ hội, văn minh.
Các từ trong lĩnh vực văn học-nghệ thuật: tiểu thuyết, hội họa, điêu khắc.
Các từ trong lĩnh vực luật pháp: hiến pháp, luật sư, tòa án, quy định.
Các từ trong lĩnh vực chính trị: chính phủ, độc lập, phụ thuộc, dân chủ.
Các từ trong lĩnh vực kinh tế: công nghiệp, tư bản, tỷ giá, chứng khoán.
Có thể thấy rằng, đây chủ yếu là những thuật ngữ khoa học-chuyên môn.
Thứ hai: Tạo ra một lớp từ có sắc thái nghĩa khác với từ đã có trong tiếng Việt:
Trong giao tiếp hàng ngày, tiếng Việt được sử dụng nhiều nên mất đi sắc thái trang trọng hay khái quát. Do đó, ta đã vay mượn một số từ ngữ tiếng Hán có nghĩa cơ bản giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung thêm một sắc thái nghĩa khác. Điều này làm xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa, trong đó từ thuần Việt và từ Hán-Việt chỉ có sắc thái nghĩa khác nhau. Ví dụ:
Về sắc thái ý nghĩa: có sắc thái ý nghĩa trừu tượng, khái quát nên mang tính chất tĩnh tại, không gợi hình.
Ví dụ: Thảo mộc = cây cỏ, viêm = loét, thổ huyết = hộc máu
Về sắc thái biểu cảm, cảm xúc: nhiều từ hán Việt mang sắc thái trang trọng, thanh nhã( trong khi đó nhiều từ thuần Việt mang sắc thái thân mật, trung hòa, khiếm nhã)
Ví dụ: Phu nhân = vợ, hi sinh = chết
Về sắc thái phong cách: từ Hán Việt có phong cách gọt giũa và thường được dùng trong phong cách khoa học, chính luận, hành chính( còn tiếng Việt nhìn chung có màu sắc đa phong cách: giọt giũa, cổ kính, sinh hoạt, thông dụng
Ví dụ: huynh đệ = anh em, bằng hữu = bạn bè, thiên thu = mãi mãi, khẩu phật tâm xà = miệng nam mô bụng bồ dao găm
Từ mượn tiếng Pháp
Việt Nam từng là thuộc địa của Pháp nên tiếng Pháp có điều kiện du nhập vào Việt Nam. Trong quá trình giao lưu văn hóa và ngôn ngữ đó người Việt đã vay mượn nhiều từ gốc Pháp để chỉ những khái niệm mà thường thì trong tiếng Việt không có. Phần lớn các từ đó đã bị thay đổi cả về cách đọc lẫn chữ viết để phù hợp với đặc trưng của tiếng Việt. Ví dụ: ban công (balcon), buýt (bus), áp phích (affiche), cà rốt (carotte),
Từ mượn tiếng Nga
Ngay từ thời xa xưa, Nga đã là một nước có mối quan hệ về văn hóa, thương mại, quân sự, chính trị với nhiều nước trên thế giới nên không thể tránh khỏi quá trình du nhập từ vay mượn vào ngôn ngữ của mình. Lịch sử cho thấy mối quan hệ của Việt Nam với Liên Xô trước đây, và với Liên Bang Nga ngày nay luôn nồng ấm, tin cậy, vượt qua mọi thử thách của thời gian và những biến động của lịch sử. trong những năm tháng cam go của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, Việt Nam luôn nhận được sự ủng chí tình của nhân dân Liên Xô không chỉ về tiền bạc, hiện vật mà các chuyên gia Liên Xô còn sang tận nơi giúp Việt Nam phát triển về kinh tế, văn hóa, xã hộiĐặc biệt là khi truyền bá chủ nghĩa Mác – Lenin, Hồ Chí Minh đã dịch và viết lại bằng tiếng Việt cho phù hợp với cách tiếp cận của người Việt lúc bấy giờ. Ngôn ngữ Nga cũng theo đó du nhập vào Việt Nam, và từ mượn tiếng Nga cũng theo đó ra đời. Ví dụ: Bôn-sê-vích (Большевик), Mác-xít (mарксист), xô viết (cовет)
Từ mượn tiếng Anh
Ở Việt Nam tiếng Anh là ngôn ngữ bắt buộc trong chương trình giáo dục phổ thông và cũng là ngoại ngữ được sử dụng rộng rãi. Không những thế hệ thuật ngữ quốc tế cũng chủ yếu dựa trên tiếng Anh nên việc vay mượn từ tiếng Anh trong thuật ngữ là điều không thể tránh khỏi. Ví dụ như trong lính vực lập trình khoa học máy tính, người ta thống nhất sử dụng những thuật ngữ đo lường bộ nhớ máy tính như bit (byte), kilobyte (KB), megabyte (MG) Ngay cả đối với các hệ thống đo lường cũng vậy. Ví dụ: gam (gram), lit (litre), met (metre) Và có rất nhiều từ mượn tiếng Anh chúng ta sử dụng tong đời sống hằng ngày rất quen thuộc. Ví dụ: cờ-líp (clip), in-tơ-nét (internet), pi-a (PR), tivi (TV), sô (show)
Từ mượn các ngôn ngữ khác
Ngoài những ảnh hưởng của tiếng Hán, tiếng Việt còn chịu ảnh hưởng của một số ngôn ngữ châu Á khác, đặc biệt là các ngôn ngữ Khơme (Khmer), ngôn ngữ Tày-Thái, ngôn ngữ Ấn Độ (tiếng Phạn, tiếng Pali).
Ảnh hưởng của ngôn ngữ Khơme
Có ảnh hưởng lớn nhất trong số các ngôn ngữ kể trên là tiếng Khơme. Do sự tiếp xúc khá thường xuyên với tiếng Khơme, một số lượng khá lớn từ tiếng Khơme đã đi vào tiếng Việt và giữ vai trò quan trọng trong lớp từ cơ bản của tiếng Việt. Trong thời gian gần đây (từ khoảng thế kỉ XIX), giữa tiếng Khơme và tiếng Việt đã có những mối quan hệ trực tiếp mà chủ yếu là qua phương ngữ Nam Bộ. Các mối quan hệ này đã để lại một số từ chỉ các loại cây cỏ đặc trưng cho vùng Nam Bộ như: xoài, thốt nốt, sầu riêng, hay từ biểu thị hoạt động, cách thức hoạt động của người và động vật như: nhậu (= ăn và uống), tùm lum (= lung tung), xài(ăn, dùng), cà lăm, cà nhắc, ba lăng nhăng.
Nói chung, các từ ngữ gốc Khơme được Việt hóa cao độ trong tiếng Việt nên nhiều người Việt vẫn coi đây là những từ thuần Việt.
Ảnh hưởng của ngôn ngữ Tày-Thái
Ngoài tiếng Khơme, các tiếng Tày-Thái cũng đã có ảnh hưởng nhất định đến tiếng Việt. Nhưng những ảnh hưởng của tiếng Tày-Thái đối với tiếng Việt thường liên quan đến giai đoạn phát triển sớm hơn của tiếng Việt, tức là giai đoạn Việt-Mường. Trong giai đoạn sớm đó, giữa các ngôn ngữ trong vùng đã có sự tiếp xúc thường xuyên và chúng đã ảnh hưởng lẫn nhau theo nhiều chiều, khá phức tạp. Trong tiếng Việt hiện đại có nhiều từ mà hình thức ngữ âm và ý nghĩa giống hoặc gần giống với các từ tương đương trong các tiếng Tày-Thái. Ví dụ, so sánh:
Tiếng Việt: bún, hái, chóc (chim), dứa, ớt, quế.
Tiếng Tày-Thái: pún, hải, chộc, dửa, ớt, quẻ.
Hơn nữa, trong tiếng Việt ngày nay có một số từ ghép được tạo ra bằng cách kết hợp một từ thuần Việt và một từ gốc Tày-Thái. Ví dụ: chó má (má = chó, gốc Tày-Thái), mặt nạ (nạ=mặt, gốc Tày-Thái), súng ống (ống=súng, gốc Tày-Thái), chim chóc (chóc=chim, gốc Tày Thái).
Chính vì vậy, biết được nguồn gốc Tày-Thái (và cả nguồn gốc Môn-Khơme) của một số từ tiếng Việt, ta có thể hiểu rõ hơn ý nghĩa của các từ ghép trong tiếng Việt.
Ảnh hưởng của ngôn ngữ Ấn Độ
Ấn Độ ảnh hưởng nhiều tới Việt Nam về mặt văn hóa, tôn giáo. Việc tiếp thu các tôn giáo và các phép tu luyện Ấn Độ (như Yoga) đã khiến cho một số lượng lớn từ ngữ Ấn Độ được du nhập vào tiếng Việt. Tuy nhiên, do các sách kinh được truyền vào Việt Nam qua tiếng Hán nên nhiều từ ngữ Ấn Độ đã được phiên âm qua tiếng Hán và vì thế không còn giữ được cấu trúc âm thanh tiếng Phạn hay Pali. Ví dụ: Phật/Bụt (buddha), Tiểu thừa (hīnayāna), /Đại thừa (mahāyāna), Niết bàn (nirvāṇa), luân hồi (saṃsāra), Bồ Tát (bodhisattva). Riêng ở miền Trung Việt Nam, người Chăm đã tiếp thu đạo Bà la môn của Ấn Độ không qua tiếng Hán nên các từ ngữ vay mượn của Ấn Độ (tiếng Phạn, tiếng Pali hoặc tiếng Hinđu) vẫn giữ được âm gốc. Ví dụ: Shiva, Linga.
Ảnh hưởng của tiếng Nhật
Tiếng Nhật, nói chung, không có ảnh hưởng nhiều đến tiếng Việt ở giai đoạn phát triển sớm. Mãi đến thế kỉ XIX, tiếng Nhật mới có một ít ảnh hưởng đối với tiếng Việt, nhưng đó không phải là ảnh hưởng trực tiếp mà là ảnh hưởng gián tiếp thông qua tiếng Hán. Vào thời gian này, người Nhật đã tiếp xúc với châu Âu và làm quen với những khái niệm mới như: dân chủ, cộng hòa, kinh tế chính trị, xã hộiHọ đã dùng chữ Hán để dịch các khái niệm này. Về sau người Hán đọc các từ này theo âm Hán rồi người Việt lại mượn vào tiếng Việt và đọc theo âm Hán-Việt. Đây là lí do vì sao có những từ mượn của tiếng Hán nhưng người Việt không hiểu được cách cấu tạo, ví dụ: trường hợp, xã hội, kinh tế. Gần đây, một số từ ngữ tiếng Nhật đã được mượn thẳng vào tiếng Việt, ví dụ: kimônô, giuđô, karate, karaôkê.
CHƯƠNG 3: HIỆN TƯỢNG LẠM DỤNG TỪ MƯỢN TRONG TIẾNG VIỆT
Thực trạng
Quá trình hội nhập và phát triển tất yếu sẽ kéo theo sự tiếp xúc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa, trong đó có ngôn ngữ. Đây cũng là hiện tượng mang tính phổ biến mà Việt Nam chúng ta cũng không phải và không thể là trường hợp ngoại lệ. Có thể thấy rằng, một ngôn ngữ khó có thể nào đáp ứng đủ nhu cầu thể hiện mọi bản chất của sự vật, hiện tượng và sự vay mượn từ ngữ từ ngôn ngữ khác là điều tất yếu. Sự vay mượn từ ngữ và sử dụng những từ ngữ vay mượn đó đã trở thành một hiện tượng phổ biến, quen thuộc đối với tất cả mọi người. Điều đó được thể hiện qua cả văn nói và văn viết, chẳng hạn như trong các văn bản, bài báo hay cách giao tiếp bằng lời nói của chúng ta. Thực trạng sử dụng từ vay mượn trong xã hội hiện nay được thể hiện rõ nhất qua ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ giao tiếp (ngôn ngữ nói) và ngôn ngữ viết.
Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ mạng
Trong thời đại phát triển công nghệ như hiện nay, không quá khó để một trào lưu nào đó được lan truyền rộng rãi trong xã hội, đặc biệt là trong giới trẻ, trong đó, trào lưu “cải biến” tiếng Việt là một trào lưu đã và đang gây ra nhiều ý kiến trái chiều nhất trong xã hội. Bằng nhiều hình thức biến đổi từ ngữ mà với tiêu chí chung là ngắn gọn, dễ hiểu và sành điệu, một bộ phận giới trẻ đã tự cho mình cái quyền “cải biến” tiếng Việt và từ đó gọi ngôn ngữ đó là ngôn ngữ mạng.
Ngôn ngữ mạng có tính đặc thù, là thứ ngôn ngữ phi chính thức và thể hiện sự tự do cá nhân. Hiện nay, ngôn ngữ mạng được dùng rất phổ biến và đối với một bộ phận xã hội nhất định thì sử dụng ngôn ngữ mạng mang lại nhiều điều thú vị. Ngôn ngữ mạng không chỉ được đơn giản hóa, từ cấu trúc ngữ pháp đến từ ngữ, để bảo đảm tính nhanh gọn mà còn sử dụng các ký hiệu, biểu tượng để biểu đạt thông tin, làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động. Có thể tóm tắt cách “tạo từ mới” của một bộ phận giới trẻ hiện nay như sau: thay chữ cái chuẩn thành 1 chữ cái khác có âm giống như: chữ b = p, chữ i = j, chữ c = k, tr = ch,..và ngược lại, chẳng hạn như: nhiều = nhiu; yêu = iu; biết = bit, thôi = thui.... Các nguyên âm còn được hoán đổi vị trí cho nhau như a, i, o, u, y... Ta có thể thấy ví dụ như rồi = roai. Cùng với đó, là việc thay các bán nguyên âm, như oa, oe, uy, các phụ âm ghép như gh, nh, ph, ngh... bằng các nguyên âm, phụ âm đơn có âm tiết "gần gận" như: nghe = nge, nhanh = nhah... Sự lạm dụng từ vay mượn trong ngôn ngữ mạng này đã gây ra khá nhiều những ý kiến, tranh cãi trong xã hội.
Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ giao tiếp (ngôn ngữ nói)
Qua các cuộc giao tiếp, không khó để bắt gặp hiện tượng lạm dụng từ vay mượn trong ngôn ngữ nói. Giao tiếp là hành động mà chúng ta thực hiện hằng ngày,vì thế ngôn ngữ giao tiếp rất dễ bị ảnh hưởng và sự ảnh hưởng đó có thể dễ dàng nhận ra được. Sự giao thoa văn hóa, xã hội đòi hỏi ngôn ngữ có những thay đổi để đáp ứng các nhu cầu giao tiếp mới. Những từ ngữ mới, cách diễn đạt mới được hình thành để thêm vào những khái niệm, thậm chí cả cấu trúc và phong cách mà trong vốn tiếng Việt trước đấy còn thiếu vắng, chẳng hạn trong lĩnh vực tin học, kỹ thuật số, sản xuất kinh doanh của nền kinh tế thị trường Bên cạnh đó còn xuất hiện những cách nói, cách viết khác lạ.
Trải qua các giai đoạn phát triển của xã hội, sự lạm dụng từ vay mượn trong giao tiếp có sự khác nhau và thay đổi. Trong cách chào hỏi hay tạm biệt, một bộ phận giới trẻ và cả người lớn thường xuyên sử dụng các từ ngữ bằng tiếng nước ngoài, chẳng hạn như tiếng Anh. Chúng ta còn có thể thấy được sự chêm xen các từ ngoại lai thay thế cho từ ngữ tiếng Việt vốn có trong vô số các cuộc trò chuyện hằng ngày. Chúng ta có thể xét qua một vài ví dụ như thay vì nói xin chào, rất nhiều người sẽ sử dụng chữ “hello” trong tiếng Anh hoặc thay vì gọi là thần tượng, nhiều người sẽ dùng chữ “idol”. Sự phổ biến ngày càng rộng rãi của hiện tượng lạm dụng từ vay mượn trong ngôn ngữ giao tiếp đã dẫn đến những biến đổi không nhỏ đối với sự giao tiếp của con người trong xã hội hiện nay.
Thực trạng sử dụng từ vay mượn thể hiện qua ngôn ngữ viết
So với ngôn ngữ nói và ngôn ngữ mạng, ngôn ngữ viết được xem như ít bị ảnh hưởng bởi sự lạm dụng từ ngoại lai hơn vì những yêu cầu đặc trưng của nó. Khác với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết được lựa chọn rất kĩ càng và chính xác. Trong khi đó, người đọc cũng có điều kiện đọc đi đọc lại, phân tích và nghiền ngẫm nội dung văn bản. Tuy nhiên, để giao tiếp được bằng ngôn ngữ viết thì cả người viết và người đọc đều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_hien_tuong_tu_vay_muon_trong_tieng_viet.docx