Đề tài Hiệu quả nuôi tôm thẻ chân trắng của các nông hộ ở vùng cát ven biển huyện Bố trạch, tỉnh Quảng Bình

Lời cam đoan.i

Lời cảm ơn .ii

Tóm lược luận văn.iii

Danh mục các từ viết tắt.iv

Danh mục các bảng, biểu.v

Danh mục các hình, đồ thị, biểu đồ.vi

Mục lục .vii

Phần I.1

Đặt vấn đề. 1

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu.1

2. Mục tiêu nghiên cứu.2

2.1. Mục tiêu chung.2

2.2. Mục tiêu cụ thể.3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.3

3.1. Đối tượng nghiên cứu .3

3.2. Phạm vi nghiên cứu.3

4. Phương pháp và hệ thống các phạm vi nghiên cứu.3

4.1. Phương pháp nghiên cứu.3

4.1.1. Phương pháp thu thập thông tin .3

4.1.2. Phương pháp phân tích.4

4.1.3.1. Phương pháp hạch toán kinh tế .4

4.1.3.2. Phương pháp chuyên gia .4

4.1.3.3. Phương pháp phân tổ thống kê.5

4.1.3.4. Phương pháp so sánh.5

4.1.3.5. Phương pháp ước lượng hàm sản xuất tối đa ngẫu nhiên SFPF .5

4.2. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả nuôi tôm trên cát.7

4.2.1. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả nuôi tôm trên cát .7

4.2.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả nuôi tôm .8

5. Hạn chế của đề tài nghiên cứu.9

6. Cấu trúc luận văn.9

Phần II .10

Nội dung nghiên cứu .10

 

pdf133 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 597 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu quả nuôi tôm thẻ chân trắng của các nông hộ ở vùng cát ven biển huyện Bố trạch, tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sau: Nhìn vào bảng ta thấy, nuôi trồng thuỷ sản của huyện Bố Trạch trong những năm qua đã có những bước phát triển tương đối khá. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản năm 2011 là 2.176,90 tấn, tăng 78,70 tấn so với năm 2010, tương ứng tăng gần 3,75 %. Đến năm 2012, sản lượng nuôi trồng thủy sản của huyện đạt 2.325,40 tấn, tăng 6,82 % so với năm 2011. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 49 Bảng 2.4: Tình hình sản xuất thủy sản huyện Bố Trạch giai đoạn 2010-2012 Chỉ tiêu 2010 2011 2012 So sánh 2011/2010 2012/2011 +/- % +/- % 1. Sản lượng NTTS (tấn) 3.724,19 4.270,61 4.137,40 546,42 14,67 -133,20 -3,12 - Cá các loại 910,40 961,80 1.038,70 51,40 5,65 76,90 8,00 - Tôm các loại 2.813,79 3.308,81 3.098,70 495,02 17,59 -210,10 -6,35 Trong đó: Tôm TCT 2.059,79 2.474,81 2.330,70 415,02 20,15 -144,10 -5,82 - Thuỷ sản khác 145,50 152,90 161,30 7,40 5,09 8,40 5,49 - Nuôi, ươm giống TS - - - - - - - 2. Diện tích NTTS (ha) 1.008,00 1.026,80 1.029,60 18,80 1,87 2,80 0,27 - Cá các loại 533,00 562,00 565,50 29,00 5,44 3,50 0,62 - Tôm các loại 359,00 378,30 371,00 19,30 5,38 -7,30 -1,93 Trong đó: Tôm TCT 128,04 128,04 128,04 0,00 0,00 0,00 0,00 - Thuỷ sản khác 112,20 84,50 91,90 -27,70 -24,69 7,40 8,76 - Nuôi, ươm giống TS 3,80 2,00 1,20 -1,80 -47,37 -0,80 -40,00 (Nguồn: NGTK huyện Bố Trạch, 2012) Thủy sản được nuôi trồng trên địa bàn chủ yếu là tôm, cá và một số loại thủy sản khác. Trong số đó, tôm các loại được đầu tư phát triển mạnh mẽ, chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng nuôi trồng thủy sản toàn huyện, và có sự tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm. Năm 2011, sản lượng tôm các loại là 3.308,81 tấn, tăng 17,59% so với năm 2010. Đến năm 2012 giảm xuống 3.098,70 tấn, giảm -6,35% so với sản lượng năm 2011. Đặc biệt, tôm thẻ chân trắng có chiều hướng tăng qua các năm, năm 2011, sản lượng là 2.474,81 tấn, tăng 20,15% so với năm 2010. Tuy nhiên, đến năm 2012 giảm xuống 2.330,70 tấn, tương ứng giảm 5,82% so với sản lượng năm 2011. Điều này cho thấy tôm thẻ chân trắng là loại thủy sản được các hộ nông dân chú trọng đầu tư sản xuất, và luôn có sự phát triển nhanh qua các năm. Không chỉ phát triển về sản lượng mà diện tích nuôi trồng thuỷ sản của huyện Bố Trạch cũng không ngừng được mở rộng. Từ năm 2010 đến năm 2011, diện tích nuôi trồng thủy sản tăng từ 1.008,00 ha đến 1.026,80 ha, đến năm 2012 thì tăng lên đến 1.029,60 ha. Trong đó đáng chú ý là sự thay đổi trong diện tích nuôi tôm, tuy nhiên diện tích tôm thẻ chân trắng tại các vùng ven biển, vùng đầm phá ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 50 không có sự thay đổi. Điều này được lý giải là do trong những năm gần đây, nuôi trồng thủy sản trên địa bàn gặp một số khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, thiên tai bão lũ, đặc biệt là dịch bệnh xuất hiện ở các loài thủy sản, nhất là dịch bệnh ở tôm. Điều này khiến cho các hộ nông dân gặp nhiều khó khăn trong sản xuất, phần lớn là các hộ nuôi trồng theo hình thức quảng canh và quảng canh cải tiến. Nhiều hộ không còn đủ điều kiện nuôi thủy sản mà phải chuyển qua sản xuất các ngành nghề khác, làm cho diện tích nuôi tôm nước lợ nói chung giảm xuống. Tuy nhiên, bên cạnh đó, nhiều hộ nông dân không ngại khó đã áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất nuôi trồng, nâng cao trình độ thâm canh, làm tăng diện tích nuôi trồng theo hình thức thâm canh qua các năm. Đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng trên địa bàn huyện nhà. Hiện nay, diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng theo hình thức thâm canh chủ yếu phân bố ở các xã ven biển như Trung Trạch, Đại Trạch, Nhân Trạch, Đồng Trạch... Như vậy, có thể thấy nuôi trồng thủy sản tăng trưởng đều cả về diện tích, năng suất và sản lượng, trong đó phải nói đến nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hình thức thâm canh ở vùng cát ven biển; đã đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá và đa dạng đối tượng, hình thức nuôi. Bên cạnh đó, kinh nghiệm, trình độ kỹ thuật của người nuôi đã tăng lên rõ rệt, công nghệ sinh học trong nuôi tôm được ứng dụng, nhiều đối tượng và phương thức nuôi mới đã được áp dụng đạt hiệu quả. Phong trào nuôi phát triển đã thúc đẩy phát triển dịch vụ con giống và cung ứng thức ăn, thuốc thú y thuỷ sản. Mặt khác, một số địa phương đã triển khai thực hiện phát triển nuôi cá - lúa có hiệu quả bằng hương thức nuôi xen canh, xen vụ, nuôi ghép đã được chú trọng với nhiều đối tượng nuôi mới có giá trị kinh tế. Nhất là, có nhiều hộ dân đã mạnh dạn đầu tư máy bơm nước, máy quạt nước, máy sục khí để nuôi tôm thẻ chân trắng theo hình thức thâm canh. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 51 Số cơ sở sản xuất tôm giống có xu hướng giảm qua các năm, hiện nay trên địa bàn huyện không còn cơ sở sản xuất giống thủy sản, chủ yếu các hộ dân nhập giống từ nhiều nguồn trong và ngoài tỉnh. Tình hình đầu tư nuôi tôm thẻ chân trắng xuất khẩu trên địa bàn huyện nhìn chung phát triển tốt, đem lại hiệu quả kinh tế khá. Điển hình các địa phương có phong trào nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá mạnh như các xã: Trung Trạch, Đại Trạch, Nhân Trạch, ... Nhờ vậy, giá trị sản xuất thủy sản của huyện Bố Trạch không ngừng tăng dần qua các năm, và đã trở thành ngành kinh tế quan trọng về xuất khẩu thủy sản của địa phương. Điều này được thể hiện qua Bảng 2.5 dưới đây: ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 52 Bảng 2.5: Cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản ở Bố Trạch giai đoạn 2010-2012 Chỉ tiêu Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 So sánh2011/2010 So sánh 2012/2011 Tốc độ PT BQ (%)Tr.đồng (%) Tr.đồng (%) Tr.đồng (%) (+/-) (%) (+/-) (%) Tổng giá trị sản xuất 482.304,00 100,00 517.740,20 100,00 519.957,10 100,00 35.436,20 7,35 2.216,90 0,43 103,83 I. Giá trị SL đánh bắt 344.937,00 71,52 379.166,70 73,23 380.218,50 73,12 34.229,70 9,92 1.051,80 0,28 104,99 1. Khai thác nước mặn 332.888,80 69,02 368.430,10 71,16 369.874,70 71,14 35.541,30 10,68 1.444,60 0,39 105,41 - Cá 180.417,63 37,41 220.302,82 42,55 233.210,75 44,85 39.885,19 22,11 12.907,93 5,86 113,69 - Tôm 5.305,60 1,10 5.126,06 0,99 4.876,86 0,94 -179,53 -3,38 -249,21 -4,86 95,87 - Thủy sản khác 147.165,57 30,51 143.001,22 27,62 131.787,09 25,35 -4.164,36 -2,83 -11.214,13 -7,84 94,63 2. Khai thác nước ngọt, lợ 12.048,20 2,50 10.736,60 2,07 10.343,80 1,99 -1.311,60 -10,89 -392,80 -3,66 92,66 - Cá 7.894,24 1,64 7.237,07 1,40 7.195,76 1,38 -657,17 -8,32 -41,31 -0,57 95,47 - Tôm 2.869,42 0,59 2.615,20 0,51 2.385,21 0,46 -254,22 -8,86 -229,99 -8,79 91,17 - Thủy sản khác 1.284,54 0,27 884,33 0,17 762,83 0,15 -400,21 -31,16 -121,50 -13,74 77,06 II. Giá trị SL nuôi trồng 136.058,00 28,21 138.355,60 26,72 139.666,50 26,86 2.297,60 1,69 1.310,90 0,95 101,32 1. Nuôi nước lợ 30.953,6 6,42 113.637,3 21,95 115.531,2 22,22 82.683,70 267,12 1.893,90 1,67 193,19 - Cá 4.974,34 1,03 22.458,46 4,34 17.457,81 3,36 17.484,13 351,49 -5.000,65 -22,27 187,34 - Tôm 12.239,25 2,54 45.564,07 8,80 49.110,27 9,45 33.324,82 272,28 3.546,19 7,78 200,31 - Thủy sản khác 6.396,46 1,33 15.998,11 3,09 12.130,42 2,33 9.601,65 150,11 -3.867,69 -24,18 137,71 2. Nuôi nước ngọt 105.104,4 21,79 24.718,3 4,77 24.135,3 4,64 -80.386,10 -76,48 -583,00 -2,36 47,92 III. Sản xuất con giống 1.309,00 0,27 217,90 0,04 72,10 0,01 -1.091,10 -83,35 -145,80 -66,91 23,47 (Nguồn: NGTK huyện Bố Trạch, 2012) ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 53 Ở Bảng 2.5 cho thấy, giá trị sản xuất của ngành thủy sản tăng liên tục qua 3 năm từ năm 2010 – 2012, đạt mức tăng trưởng bình quân 3,83%; trong đó, năm 2012 đạt 519.957,1 triệu đồng so với năm 2011 tăng 0,43%, đặc biệt năm 2011 tổng giá trị sản xuất của ngành thủy đạt tới 517.740,2 triệu đồng, tăng 35.436,2 triệu đồng, tương ứng tăng 7,35% so với năm 2010. Với tốc độ phát triển khá nhanh như vậy, ngành thủy sản của huyện đã góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế chung của toàn huyện. Đây được xem là ngành kinh tế mũi nhọn của địa phương trong nhiều năm qua, tạo điều kiện thúc đẩy cho các ngành nghề khác của huyện cùng phát triển. Để có được thành quả này, ngoài sự quan tâm, đầu tư của huyện, thì yếu tố chủ quan mang tính quyết định ở đây, đó chính là sự cố gắng vươn lên làm giàu của các ngư hộ trong vùng. Họ đã không ngần ngại vay vốn với số lượng lớn để mua sắm các trang thiết bị, máy móc và xây dựng ao, hồ kiên cố phục vụ cho việc khai thác, đánh bắt cũng như NTTS. Mặc khác, về cơ cấu giá trị sản xuất thủy sản qua 3 năm từ 2010 đến 2012, hoạt động khai thác thủy sản chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tổng GTSX, đạt mức tăng trưởng bình quân 4,99%, nhất là năm 2011 đạt 379.166,7 triệu đồng so với năm 2010 tăng 9,92%. Trong đó chủ yếu là khai thác nước mặn (biển), đặc biệt, năm 2011 so với năm 2010 tăng 10,68%, trong các loài thủy sản thì cá và các loài thủy sản khác chiếm đa số. Bên cạnh đó, tình hình NTTS cũng phát triển theo chiều hướng tốt, giá trị sản xuất không ngừng tăng lên qua các năm, đặc biệt, năm 2011 giá trị TSNT đạt 138.355,1 triệu đồng, tăng 1,69% so với năm 2010, chủ yếu là do hoạt động nuôi tôm mang lại là chính. Nhìn chung, tình hình sản xuất thủy sản trên địa bàn huyện Bố Trạch ngày càng phát triển, đạt được kết quả này là xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những chính sách can thiệp kịp thời và có hiệu quả của Nhà nước trong việc xây dựng và nâng cấp các cơ sở hạ tầng, hỗ trợ và cho vay vốn với mức lãi suất thấp thông qua Hội phụ nữ, Hội người nghèo, tuyên truyền, khuyến cáo, tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật cho người dân nuôi tôm, làm cho phong trào nuôi tôm ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn chất lượng, Mặt khác, có nhiều ngư dân đã biết áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, mạnh dạn đầu tư ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 54 đóng tàu thuyền lớn, có trang thiết bị máy móc, ngư lưới cụ hiện đại để đánh bắt xa bờ, dài ngày. Nhờ đó vai trò, vị trí của ngành sản xuất thủy sản ở địa phương không ngừng tăng lên qua các năm. Trong cơ cấu về giá trị TSNT, nuôi tôm luôn chiếm tỷ trọng cao hơn các đối tượng thủy sản khác. Điều đó đã khẳng định vị thế vững chắc từ nghề nuôi tôm thẻ chân trắng của các hộ nông dân ở vùng cát ven biển huyện Bố Trạch đang diễn ra theo chiều hướng tốt. 2.2.2. Khái quát tình hình sản xuất và tiêu thụ tôm thẻ chân trắng ở vùng cát ven biển huyện Bố Trạch 2.2.2.1. Khái quát tình hình sản xuất Bố Trạch là một huyện có rất nhiều tiềm năng và phát triển và nuôi trồng thủy sản nói chung, cũng như nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát nói riêng. Chính vì vậy, phong trào nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng cát ven biển trên địa bàn huyện đang phát triển mạnh mẽ. Cụ thể số hộ nuôi, hình thức nuôi và diện tích, năng suất, sản lượng từng năm được thể hiện ở Bảng 2.6 dưới đây: Bảng 2.6: Tình hình sản xuất tôm thẻ chân trắng trên cát ở Bố Trạch giai đoạn 2010-2012: Chỉ tiêu ĐVT Năm2010 Năm 2011 Năm 2012 So sánh 2012/2010 (+/-) (%) Tổng diên tích nuôi Ha 117,04 126,04 126,04 9,00 7,69 Tổng số hộ nuôi Hộ 101,00 101,00 101,00 0,00 0,00 Nuôi BTC 1. Số hộ nuôi Hộ 13,00 6,00 6,00 -7,00 -53,85 2. Diện tích Ha 2,20 2,20 2,20 0,00 0,00 3. Năng suất Tấn/ha/năm 11,81 13,17 12,40 0,59 5,03 4. Sản lượng Tấn 25,97 28,97 27,28 1,31 5,03 Nuôi TC 1. Số hộ nuôi Hộ 88,00 95,00 95,00 7,00 7,95 2. Diện tích Ha 114,84 123,84 123,84 9,00 7,84 3. Năng suất Tấn/ha/năm 17,71 19,75 18,60 0,89 5,03 4. Sản lượng Tấn 2.033,82 2.445,84 2.303,42 269,61 13,26 (Nguồn: Số liệu thu thập và tính toán của tác giả) ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 55 Ở Bảng 2.6 ta thấy: Tổng số hộ nuôi tôm thẻ chân trắng và tổng diện tích nuôi tôm không có sự thay đổi qua 3 năm. Tuy nhiên, so sánh giữa hai hình thức nuôi TC và BTC có sự thay đổi, trong đó, số hộ nuôi, diện tích, năng suất và sản lượng qua 3 năm ở hình thức nuôi thâm canh cao hơn so với hình thức nuôi bán thâm canh. Nhất là, năm 2012, hộ nuôi TC có 95 hộ cao hơn hộ nuôi BTC 6 hộ, các hộ nuôi tôm bằng hình thức thâm canh cho năng suất 18,6 tấn/ha/năm cao hơn so với các hộ nuôi tôm bằng hình thức bán thâm canh 12,4 tấn/ha/năm. Điều đó chứng tỏ rằng, số hộ nuôi theo hình thức thâm canh ngày càng nhiều và số hộ nuôi theo hình thức bán thâm canh ngày càng giảm xuống. Điều đó cho chúng ta nhận thấy, có nhiều hộ nông dân bắt đầu nhận thức được nuôi tôm theo hình thức thâm canh cho năng suất cao, đem lại thu nhập khá nên đã chủ động và mạnh dạn nuôi tôm bằng hình thức thâm canh và nhiều hộ đã chủ động chuyển từ nuôi theo hình thức bán thâm canh sang nuôi theo hình thức thâm canh. Đến năm 2013, qua điều tra các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng cát ven biển huyện Bố Trạch, hầu hết các hộ nuôi tôm theo hình thức bán thâm canh đã chuyển sang nuôi theo hình thức thâm canh nên trong đề tài nghiên cứu chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hình thức thâm canh. Thực tế cho thấy, so với các hình thức nuôi tôm khác, nuôi tôm thẻ chân trắng bằng hình thức thâm canh ở vùng ven biển huyện Bố Trạch có những đặc trưng cơ bản sau: - Hồ nuôi được xây dựng trên các bãi cát cao triều nên ít bị ảnh hưởng trực tiếp của lũ lụt, có thể nuôi được nhiều vụ trong năm, khai thác được tiềm năng diện tích đất cát ven biển rộng lớn để phát triển nuôi tôm có giá trị xuất khẩu cao, góp phần làm giảm sự căng thẳng trong việc chuyển đổi đất nông nghiệp sang nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, vùng nuôi tôm trên cát là vùng cát ven biển, thường dễ có biến động, dễ xảy ra các hiện tượng như cát bay cát nhảy, hiện tượng nước xâm thực, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất của người dân. - Chi phí đầu tư ban đầu cho ao nuôi cũng như chi phí cho cả quá trình nuôi tôm thâm canh trên cát thường cao hơn so với các hình thức khác, do hầu hết các hồ ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 56 nuôi đều phải bơm thay nước trong quá trình nuôi, và thời gian nuôi thường kéo dài hơn so với các loại hình nuôi khác từ 10 đến 15 ngày. - Sau thu hoạch, công tác vệ sinh đáy ao nuôi và diệt khuẩn rất dễ dàng, thường là bằng cách phơi nắng với chi phí nhân công và thời gian ít hơn nhiều so với ao đất, vì vậy thời gian một vụ nuôi ngắn hơn so với các hình thức khác, tăng số vụ nuôi lên 2-3 vụ/năm. Mặt khác do tính chất hồ cát hấp thụ nhiệt lớn nên trong quá trình phơi đáy cải tạp và quá trình nuôi, khả năng diệt mầm bệnh của hồ rất lớn, hạn chế được mầm bệnh lưu giữ trong hồ và sự lây lan dịch bệnh trong các khu vực nuôi tôm trên cát. - Dễ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và quy trình nuôi tôm thâm canh, nếu đầu tư đúng các yêu cầu kỹ thuật, chăm sóc tốt thì cho năng suất bình quân và lợi nhuận cao. Thời gian đầu, giống tôm được bà con nông dân huyện Bố Trạch sử dụng nhiều nhất là giống tôm sú, cho năng suất khá lớn, giá bán tương đối cao, đem lại nguồn thu nhập chính cho một bộ phận các hộ nông dân nuôi trồng thủy sản trên địa bàn, góp phần giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ nghèo. Trong những năm 2005 - 2006, bệnh đốm trắng ở tôm sú nuôi trên cát đã lây lan mạnh khiến cho tôm chết hàng loạt. Nhiều hộ nuôi tôm rơi vào tình trạng thua lỗ, nợ nần chồng chất, nhiều hộ có nguy cơ tái nghèo. Chính vì vậy, phong trào nuôi tôm trên cát ở Bố Trạch trong giai đoạn này bị lắng lại, số hộ nuôi cũng như diện tích nuôi giảm xuống do nhiều hộ chuyển qua đầu tư sản xuất các sản phẩm nông nghiệp khác. Đến năm 2007, phong trào nuôi tôm thâm canh trên cát lại có xu hướng phát triển trở lại, do xuất hiện giống tôm thẻ chân trắng. Giống tôm này có lợi thế là ít dịch bệnh, thời gian nuôi ngắn, cho năng suất cao vì vậy được bà con đưa vào nuôi trồng. Nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát đã góp phần khai thác tiềm năng, giải quyết việc làm và tạo ra nguồn nguyên liệu cung cấp cho chế biến và xuất khẩu. Nhận thấy được lợi thế của giống tôm này, nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát đã được đầu tư phát triển. Với điều kiện về đất đai, thổ nhưỡng, chế độ thủy hóa... của vùng nuôi ẠI HO ̣C K INH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 57 tôm ở huyện Bố Trạch hoàn toàn có thể đáp ứng được việc nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh trên cát 2 vụ/năm. Theo lịch thời vụ cho thấy Vụ 1 (vụ Xuân Hè) tháng 2 dương lịch và thu hoạch trong tháng 5-6, Vụ 2 (Thu Đông) trong tháng 7 dương lịch và thu hoạch trong tháng 9-10. Đó là do đặc điểm của các hồ nuôi tôm trên cát là thường giữ nhiệt tốt nên có thể nuôi trong mùa đông, khi mà các loại hình nuôi tôm khác thường gặp khó khăn do nhiệt độ thấp. Tuy nhiên, thời gian thả vụ hai gần với thời gian mưa lũ, dễ bị ảnh hưởng bởi bão lũ, dẫn đến tâm lý sợ bị mất mùa của các hộ nuôi, khiến cho các hộ nuôi thường đầu tư ít hơn vụ thứ nhất, phần nào gây lãng phí về nguồn lực đất đai, mặt nước nuôi, chi phí khấu hao tài sản... 2.2.2.2. Tình hình tiêu thụ tôm thẻ chân trắng ở vùng cát ven biển huyện Bố Trạch Thị trường đầu ra là yếu tố hết sức quan trọng đối với mọi quá trình sản xuất kinh doanh, là nơi quyết định giá cả, có ảnh hưởng lớn đến thu nhập của người sản xuất. Thông qua thị trường, người sản xuất có thể điều chỉnh quy mô, cơ cấu, chất lượng sản phẩm, phù hợp với yêu cầu thị trường nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tôm thẻ chân trắng được đánh giá là loại tôm có giá trị dinh dưỡng cao hơn so với nhưng loại tôm khác, giá cả phải chăng phù hợp với mức thu nhập bình quân của người tiêu dùng nên thị trường tiêu thụ của nó cũng rất rộng lớn. Tại địa bàn huyện Bố Trạch, sản phẩm tôm thẻ chân trắng của các hộ có tỷ suất hàng hóa lớn, sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để bán. Năm 2014 vừa qua, giá bán tôm ở mức khá cao, dao động từ 80.000 – 190.000 đồng/kg, đặc biệt vụ 2 năm 2013 giá tôm tăng rất cao 250.000 đồng/kg do thời tiết không thuận lợi, có nhiều hộ nuôi bị mất trắng vì vậy đẩy giá lên cao. Giá mua của các tư thương cũng phù hợp với thị trường, rất kịp thời và phân loại kích cỡ tôm khá kỹ. Mặt khác, giá tôm tùy thuộc vào kích cỡ, thời điểm bán, đối tượng bán nên giá cả tôm thu hoạch của các hộ là hoàn toàn khác nhau. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 58 Hình 2.1: Biểu đồ các đối tượng mua tôm Qua điều tra khảo sát tình hình tiêu thụ tôm tại địa phương cho thấy: Đến vụ thu hoạch tôm các thu gom và một số xí nghiệp, nhà máy trên địa bàn tỉnh thường đến trực tiếp tại các hồ nuôi để thu mua thông qua các hợp đồng đã ký kết trước hoặc thông qua điện thoại để trao đổi và thỏa thuận giá với các hộ nuôi tôm. Trước khi tiến hành bắt tôm, người nuôi tôm cùng khách hàng đến thử mẫu để xem xét kích cỡ tôm của hồ nuôi là bao nhiêu để ra quyết định giá bán sản phẩm. - Đối với các xí nghiệp, nhà máy chế biến: Lượng tôm tiêu thụ của chủ hộ qua kênh này chiếm tỷ lệ thấp, chỉ có 4,35%. Việc giao dịch mua bán cho đối tượng này đã được thông qua các hợp đồng ký kết thỏa thuận ngay từ đầu vụ nuôi. Những hộ nuôi tôm trong vùng chọn đối tượng này để ký hợp đồng mua bán sản phẩm thường là những hộ sản xuất với quy mô lớn, sản lượng tôm nhiều, địa bàn giao thông thuận lợi cho việc thu hoạch và vận chuyển, được nhà máy ký kết hợp đồng về bảo hiểm sản phẩm và các thỏa thuận khác theo giá bán hợp đồng phân theo cỡ sản phẩm tại thời điểm ký kết. Phương thức thanh toán chuyển khoản ngay tại thời điểm thu hoạch. - Đối với thu gom nhỏ: Lượng tôm tiêu thụ của chủ hộ qua kênh này chiếm tỷ lệ 22,83%. Việc giao dịch bán tôm cho đối tượng này cũng khá nhanh chóng và thoải ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 59 mái, vì phần lớn họ quen biết nhau. Khi đến vụ thu hoạch các thu gom nhỏ thường tiếp cận trực tiếp với các hộ nuôi tôm để thỏa thuận mua bán. Những hộ nuôi tôm trong vùng chọn đối tượng này để bán sản phẩm thường là các những hộ sản xuất với quy mô nhỏ, sản lượng tôm ít, địa bàn giao thông không thuận lợi, đi lại khó khăn hoặc là các hồ thu vét, với những hồ sản lượng đạt trên 1 tấn, thu gom nhỏ có thể thu mua trong thời gian 3 – 4 ngày, do vậy mà chi phí thu hoạch khá tốn kém. - Đối với thu gom lớn: Lượng tôm tiêu thụ của các hộ qua kênh này theo số liệu điều tra chiếm tỷ lệ cao nhất, có tới 72,83%. Giao dịch mua bán của đối tượng này chủ yếu là qua điện thoại và trao đổi trực tiếp tại hồ nuôi, sau đó tiến hành lấy mẫu tôm, ngã giá nếu được chủ hộ chấp thuận là có thể thu hoạch. Thu gom lớn thường mua sản phẩm với số lượng lớn, thu hoạch nhanh chóng. Người nuôi phần lớn thích bán cho đối tượng này, bởi chi phí thu hoạch thấp và thanh toán bằng hình thức chuyển khoản ngay tại thời điểm bán. Tuy nhiên, không phải hộ nuôi nào cũng có thể bán cho đối tượng này, vì những thu gom lớn chỉ mua tôm ở những hồ có điều kiện đi lại thuận tiện và ô tô có thể vào tận hồ để vận chuyển sản phẩm dễ dàng. 2.3. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ NUÔI TÔM CỦA CÁC HỘ ĐIỀU TRA 2.3.1. Tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở vùng cát ven biển của các hộ điều tra Cũng như bất kỳ một hoạt động sản xuất nào, nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát bằng hình thức thâm canh cũng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố thuộc về năng lực của chủ hộ. Qua điều tra thực tế 92 hộ nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát bằng hình thức thâm canh ở 2 xã ven biển Trung Trạch và Đại Trạch ở Bảng 2.7 cho thấy: ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 60 Bảng 2.7: Một số đặc điểm của các hộ nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát Chỉ tiêu ĐVT TrungTrạch Đại Trạch Tổng số hoặc BQ Chung 1. Số hộ điều tra Hộ 42 50 92 2. Bình quân/hộ - Số nhân khẩu Người 4,50 4,44 4,47 Lao động nuôi tôm LĐ 2,60 2,74 2,67 - Tuổi chủ hộ Tuổi 45,83 46,10 45,98 - Trình độ chủ hộ Lớp 7,62 8,34 8,01 - Số năm kinh nghiệm NTTS của chủ hộ Năm 7,40 6,68 7,01 - DT mặt nước nuôi tôm ha 1,26 1,38 1,32 - Vốn vay bq/hộ Tr.đ/ha 866,12 467,04 649,23 - Vốn XDCB bq/hộ Tr.đ/ha 403,12 402,60 402,84 - Giá trị TSCĐ NTTS Tr.đ 755,51 711,64 731,66 (Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả) Diện tích nuôi tôm bình quân 1 hộ điều tra là 1,32 ha, trong đó Đại Trạch 1,38, Trung Trạch 1,26 ha. Bình quân 1 hộ nuôi tôm cần đầu tư cho TSCĐ là 731,66 triệu đồng, vốn XDCB là 402,84 triệu đồng và vốn vay mượn 649,23 triệu đồng. Tổng nguồn vốn đầu tư nuôi tôm bình quân 1 hộ cho TSCĐ, DXCB và vốn vay phục vụ cho hoạt động nuôi tôm cao nhất là Trung Trạch (2.024,75 triệu đồng), còn Đại Trạch (1.581,28 triệu đồng). Bình quân mỗi hộ nuôi tôm có 4,47 nhân khẩu; 2,67 lao động với số năm kinh nghiệm nuôi tôm của chủ hộ là 8,01 năm; tuổi đời bình quân của chủ hộ là 45,98 tuổi; trình độ văn hóa của chủ hộ là trên lớp 8. Hầu hết các hộ nuôi tôm trên cát đều tham gia đầy đủ các đợt huấn luyện chuyên môn, hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng cũng như cách phòng trị dịch bệnh cho tôm. Các đợt tập huấn này do trung tâm khuyến ngư của tỉnh kết hợp với phòng Nông nghiệp và các xã tổ chức, nhằm tăng cường kiến thức nuôi trồng và ý thức phòng trị bệnh cho người dân. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 61 Qua những thông tin trên cho thấy, chủ hộ có thể có khả năng tổ chức và quản lý hoạt động nuôi tôm. Do có kinh nghiệm lâu năm và có một trình độ học vấn nhất định cùng với việc tham gia đầy đủ các đợt tập huấn nên những người này thường mạnh dạn áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới nhất vào trong sản xuất, mạnh dạn đầu tư chi phí khá cao mặc dù rủi ro không phải thấp. Tuy nhiên, để nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát bằng hình thức thâm canh đạt năng suất cao và thật sự mang lại hiệu quả kinh tế như mong muốn là việc làm không dễ, vì vậy đòi hỏi người nuôi tôm cần phải có kinh nghiệm, có trình độ nhất định, cần được trang bị và bồi dưỡng các kỹ năng về công tác khuyến nông, khuyến ngư nhằm nâng cao nhận thức và hiểu biết về các quy trình và kỹ thuật nuôi tôm để đáp ứng yêu cầu của ngành NTTS và nhu cầu của thị trường tiêu thụ thủy sản hiện nay. Bảng 2.8: Diện tích, năng suất, sản lượng tôm thẻ chân trắng theo xã Chỉ tiêu ĐVT TrungTrạch Đại Trạch BQ chung 1. Diện tích bình quân Ha/hộ 1,26 1,38 1,32 2. Năng suất bình quân Tấn/ha 21,90 20,70 21,06 3. Sản lượng bình quân Tấn/hộ 27,59 28,57 27,80 (Nguồn: Số liệu điều tra và tính toán của tác giả) Ở Bảng 2.8 cho thấy: Qua điều tra 92 hộ tại 2 xã Trung Trạch và Đại Trạch, ta thấy diện tích nuôi tôm bình quân của hộ nuôi tôm xã Đại Trạch (1,38 ha/hộ) cao hơn so với xã Trung Trạch (1,26 ha/hộ), sản lượng bình quân đạt của hộ nuôi tôm xã Đại Trạch (28,57 tấn/hộ) cao hơn so với Trung Trạch (27,59 tấn/hộ). Tuy nhiên, kết quả năng suất bình quân của hộ nuôi tôm xã Trung Trạch (21,90 tấn/ha) cao hơn xã Đại Trạch (20,70 tấn/ha). Thực tế qua điều tra, trong 2 xã nghiên cứu, Đại Trạch là địa bàn có diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng lớn hơn Trung Trạch, trong đó: Đại Trạch có diện tích nuôi tôm là 68,84 ha, Trung Trạch có diện tích nuôi tôm là 52,85 ha. Mặc dù, Đại Trạch ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế ̣ ̣ ́ ́ 62 có diện tích nuôi lớn và đạt sản lượng cao hơn Trung Trạch, nhưng so sánh năng suất nuôi tôm thấp hơn Trung Trạch. Có được năng suất nuôi tôm thẻ chân trắng trên cát cao như vậy là do các hộ nuôi tôm đã thực hiện đúng các yêu cầu kỹ thuật của quy trình nuôi tôm thâm canh trên cát, làm theo đúng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhieu_qua_nuoi_tom_the_chan_trang_cua_cac_nong_ho_o_vung_cat_ven_bien_huyen_bo_trach_tinh_quang_binh.pdf
Tài liệu liên quan