Lời mở đầu. 1
PHẦN I - CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH. 3
I-/ NHỮNG QUAN NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH
TRONG DOANH NGHIỆP. 3
1-/ Những quan điểm 3
2-/ Vai trò của hiệu quả sản xuất kinh doanh. 4
II-/ HỆ THÔNG CHỈ TIÊU HIỆU QUẢ KINH DOANH TRONG DOANH NGHIỆP. 4
1-/ Tiêu chuẩn đánh giá và phương pháp xác định hiệu quả kinh doanh 4
2-/ Các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thông chỉ tiêu. 6
3-/ Hệ thống chỉ tiêu 7
PHẦN II - HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI XÍ NGHIỆP MAY XUẤT KHẨU
THANH TRÌ. 13
I-/ QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA XÍ NGHIỆP 13
1-/ Quá trình hình thành 13
2-/ Cơ cấu tổ chức bộ máy 14
3-/ Đặc điểm về lao động của xí nghiệp. 16
II-/ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI XÍ NGHIỆP MAY XUẤT
KHẨU THANH TRÌ. 18
1-/ Quy trình sản xuất của xí nghiệp. 18
2-/ Thị trường kinh doanh. 20
3-/ Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. 23
III-/ THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH TẠI XÍ NGHIỆP. 25
1-/ Phân tích hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh 25
2-/ Hiệu quả sử dụng các yếu tố kinh doanh 27
3-/ Các yếu tố đầu vào. 32
PHẦN III - CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
SẢN XUẤT KINH DOANH Ở XÍ NGHIỆP. 35
I-/ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG. 35
1-/ Nhân tố khách quan. 35
2-/ Nhân tố chủ quan. 36
II-/ MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH. 37
1-/ Xây dựng và lựa chọn phương án kinh doanh hợp lý. 37
2-/ Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. 38
3-/ Chất lượng và giá cả sản phẩm. 39
4-/ Chính sách khuyến khích vật chất với ứng dụng khoa học kỹ thuật. 39
5-/ Chiến lược Marketing 40
6-/ Mở rộng liên doanh, liên kết với nước ngoài 40
Kết luận 41
Tài liệu tham khảo 42
Mục lục 43
43 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hiệu quả sản xuất điều kiện tại xí nghiệp may xuất khẩu Thanh Trì, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm tra các nghiệp vụ đó.
- Phòng lao động - Tiền lương: phụ trách về lao động, tính toán phân phối lương, thưởng cho công nhân viên theo quy định của xí nghiệp và thực hiện thu nộp các khoản trích từ lương.
Giám đốc
phó Giám đốc
p. tổ chức hành chính
p. xuất nhập khẩu
p. tài vụ
p. kế hoạch
p. lao động tiền lương
p. kỹ thuật máy
p. cơ điện
Phân xưởng I
phân xưởng II
phân xưởng III
phân xưởng thêu
- Phòng kỹ thuật may: Nghiên cứu thiết kế các mẫu mã cho từng loại sản phẩm phục vụ cho sản xuất.
- Phòng cơ điện: chế tạo khuôn mẫu, gia công và sửa chữa các thiết bị của xí nghiệp.
Khối sản xuất
- Phân xưởng 1 & 2: là hai phân xưởng chuyên trực tiếp may hàng trong nước và phục vụ nước ngoài.
- Phân xưởng 3: chuyên may hàng gia công cho NB
- Phân xưởng thêu: có nhiệm vụ thêu hình lên sản phẩm
Qua hoạt động thực tiễn đã chứng minh mô hình quản lý mà xí nghiệp đã chọn là hợp lý và có hiệu quả. Một số ưu điểm mà cơ cấu quản lý này đem lại là:
+ Thông tin hai chiều từ người đứng đầu là giám đốc xuống tới từng công nhân được truyền nhanh và chính xác, mọi sai xót và vướng mắc trong sản xuất được thông tin kịp thời tới ban lãnh đạo để có phương án giải quyết kịp thời.
+ Các phòng ban bộ phận được phân công nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng theo đúng chuyên môn nghiệp vụ, cũng như mọi người không quá thụ động trong sản xuất vẫn có thể phát huy được khả năng và tính chủ động sáng tạo của mình.
+ Với quy mô sản xuất như xí nghiệp thì cơ cấu tổ chức bộ máy như vậy là phù hợp: gọn nhẹ, linh hoạt, có sự phân công chuyên môn hoá cao và không có sự chồng chéo lên nhau về trách nhiệm, lợi ích của các bộ phận.
3-/ Đặc điểm về lao động của xí nghiệp.
Lao động của xí nghiệp được chia làm hai loại là: lao động trực tiếp và lao động gián tiếp.
- Lao động trực tiếp.
May là một công việc đòi hỏi sự chăm chỉ và tỷ mỷ, do đó mà lực lượng lao động của xí nghiệp có tỷ lệ lao động nữ chiếm 90% tổng số lao động. Lực lượng lao động này còn rất trẻ (trung bình là 23 tuổi). ở độ tuổi này người lao động dễ tiếp thu trình độ công nghệ và có khả năng và nâng cao tay nghề. Tuy nhiên do lực lượng lao động nữ, chiếm một tỷ trọng lớn, lại đang trong độ tuổi sinh đẻ, thường phải nghỉ làm việc trong thời gian dài gây khó khăn cho xí nghiệp trong công tác sắp xếp và tổ chức lao động cho sản xuất.
Bảng 1 - Báo cáo sử dụng thời gian lao động năm 1998.
STT
Nội dung
ĐV tính
Kế hoạch
Thực hiện
1
Thời gian làm việc trong năm
ngày
365
365
2
Thời gian nghỉ lễ
ngày
7
7
3
Thời gian chủ nhật
ngày
54
54
4
Thời gian ngưng việc
ngày
31
27
Trong đó: + Phép năm
ngày
12
12
+ Nghỉ ốm
ngày
5
5
+ Con ốm
ngày
1
1
+ KHHGĐ
ngày
7
4
+ Công ích
ngày
7
5
5
Thời gian theo chế độ
ngày
304
304
6
Thời gian làm việc có hiệu quả
ngày
273
277
giờ
2184
2216
Qua bảng số liệu trên do phòng LĐ - TL cung cấp cho thấy các chỉ tiêu sử dụng thời gian lao động đều hoàn thành vượt mức kế hoạch.
Để hoàn thành kế hoạch thời gian lao động xí nghiệp đã luôn duy trì một lực lượng lao động có thể thay thế cho những lao động phải nghỉ làm vì lý do: Thai sản, ốm, chăm sóc con ốm hoặc thực hiện KHHGĐ. Nguồn lao động thay thế này là những thợ phụ, tổ trưởng sản xuất, tổ phó sản xuất, các công nhân sửa chữa bán thành phẩm và cán bộ kiểm tra, khi cần thiết thì họ có thể thay thế vào vị trí của người nghỉ.
Bằng cách này mà việc tổ chức lao động sản xuất không bị gián đoạn. Thực tế đã chứng minh kế hoạch sử dụng thời gian lao động của xí nghiệp đều hoàn thành vượt mức kế hoạch.
- Lao động gián tiếp.
Là lực lượng lao động nằm trong các bộ phận phòng ban quản lý của xí nghiệp gồm 120 người trong tổng số 1036 cán bộ công nhân viên (chiếm khoảng 16%). Đây là lực lượng lao động chịu trách nhiệm quản lý và tổ chức sản xuất nên đòi hỏi họ phải có trình độ quản lý, nắm vững chuyên môn nghiệp vụ để đảm nhận các nhiệm vụ như: tổ chức, lên kế hoạch sản xuất, thực hiện ghi chép sổ sách chứng từ, nghiệp vụ kế toán, đề ra các chiến lược phát triển kinh doanh, xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp...
Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao, không chỉ lực lượng lao động trực tiếp có tay nghề cao mà đòi hỏi lao động gián tiếp cũng phải có trình độ học vấn cao. Số liệu của Bảng 2 cho thấy, mỗi phòng ban của xí nghiệp trung bình có hai người tốt nghiệp đại học, giám đốc và phó giám đốc đều tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế. Số còn lại đều tốt nghiệp trung cấp hoặc kỹ thuật phổ thông.
Bảng 2 - Lao động và trình độ lao động năm 1998.
TT
Phòng ban xuất nhập khẩu
Lao động
Bậc thợ
Tổng số
ĐH
TC
KTPT
Bậc 1
Bậc 2
Bậc 3
Bậc 4
Bậc 5
1
Ban giám đốc
2
2
2
Phòng xuất nhập khẩu
7
6
1
3
Phòng lao động - tiền lương
6
3
1
2
4
Phòng kế hoạch
9
2
3
4
5
Phòng tài vụ
5
2
3
6
Phòng bảo vệ
15
15
7
Phòng hành chính
22
6
1
15
8
Phân xưởng 1 (quản lý)
7
1
6
9
Phân xưởng 2 (quản lý)
7
1
6
10
Phòng kỹ thuật
23
23
11
Phân xưởng thêu
11
2
9
12
Kho chính
8
2
3
3
13
Công nhân trực tiếp
916
70
679
140
20
7
14
Tổng cộng
1038
23
16
83
70
679
140
20
7
Với một đội ngũ cán bộ quản lý hiện nay sẽ giúp cho xí nghiệp tổ chức và quản lý tốt hoạt động sản xuất, mang lại hiệu quả cao, vì họ có đủ khả năng tiếp thu những cái mới, tiên tiến, vận dụng sáng tạo vào hoạt động sản xuất kinh doanh, lãnh đạo xí nghiệp không ngừng phát triển.
II-/ Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp may xuất khẩu Thanh trì.
1-/ Quy trình sản xuất của xí nghiệp.
Quản lý và tổ chức sản xuất một cách hợp lý và khoa học sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và nâng cao được năng suất lao động. Vì vậy xí nghiệp đã đầu tư vốn, trang bị một hệ thống công nghệ máy móc hiện đại và khép kín của Hàn Quốc cùng với đội ngũ cán bộ công nhân viên được phân công lao động chuyên môn hoá cao. Quy trình sản xuất của xí nghiệp được chia thành 8 công đoạn chính sau:
(1) Nguyên vật liệu
(2) Tạo mẫu
(3) Cắt
(4) ép
(5) May
(6) Kiểm tra chất lượng
(7) Đóng gói
(8) Nhập kho
Chi tiết từng công đoạn
- Công đoạn 1: Sau khi có kế hoạch sản xuất do phòng kế hoạch lập, nguyên vật liệu sẽ được lấy từ kho đưa tới các phân xưởng sản xuất. Tại đây nguyên vật liệu được phân loại cho phù hợp với từng mã hàng.
- Công đoạn 2: Công đoạn này được tiến hành cùng thời điểm với khâu chuẩn bị nguyên vật liệu. Mẫu sẽ được phòng kỹ thuật thiết kế theo tiêu chuẩn của mã hàng.
- Công đoạn 3: Vải được trải phẳng lên bàn cắt, sau đó áp mẫu lên, vạch phấn để lấy dấu. Máy cắt sẽ cắt vải thành các chi tiết của sản phẩm.
- Công đoạn 4: Các chi tiết của sản phẩm như tay áo, cổ áo... sẽ được đưa vào máy để ép cho cứng, một số chi tiết khác có lót bông cũng được ép để tạo dáng.
- Công đoạn 5: được tiến hành sau khi đã hoàn thành công đoạn 4 và chia thành hai giai đoạn sau:
+ Một số nguyên vật liệu phụ được may vào các chi tiết của sản phẩm như: khuy áo, khoá, nhãn mác... Nếu chi tiết nào cần thêu thì chuyển sang phân xưởng thêu.
+ May ghép các chi tiết thành các sản phẩm hoàn chỉnh.
- Công đoạn 6: Xí nghiệp gọi đây là bộ phận OTK. Bộ phận này sẽ kiểm tra chất lượng sản phẩm một cách nghiêm ngặt theo đúng yêu cầu của mã hàng về: chất lượng (loại) vải, màu sắc vải, đường may các nguyên vật liệu phụ,... Nếu sản phẩm nào không đủ tiêu chuẩn sẽ bị loại ra để đem sửa chữa.
- Công đoạn 7: Tại đây sản phẩm được là phẳng, do máy là thực hiện, sau đó được gấp lại theo đúng qui định kỹ thuật, cho vào túi nilon rồi đóng hộp.
- Công đoạn 8: Sản phẩm được kiểm tra lại một lần nữa rồi mới nhập kho.
Đây là một dây truyền sản xuất khép kín đòi hỏi mỗi khâu của dây truyền phải làm việc theo đúng tiến độ đã đề ra. Nếu một khâu nào đó không hoàn thành theo kế hoạch sẽ làm các khâu sản xuất sau đó bị ngừng sản xuất. Mặt khác việc phân công lao động sẽ nâng cao năng suất lao động, dễ dàng giám sát và kiểm tra.
2-/ Thị trường kinh doanh.
a-/ Khách hàng:
Trong nền kinh tế hiện đại, vai trò của khách hàng và nhu cầu của họ có ý nghĩa quyết định tới mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Chìa khoá để đạt được thành công là phải thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng và thực hiện các dịch vụ tốt hơn đối thủ cạnh tranh.
Do xí nghiệp chuyên may hàng gia công cho nước ngoài nên khách hàng chính của xí nghiệp là người nước ngoài chiếm từ 93 - 95% tổng doanh thu của xí nghiệp. Đối tượng phục vụ của xí nghiệp là người tiêu dùng (chủ yếu là thuộc các nước có nền kinh tế phát triển) nên yêu cầu của họ về sản phẩm rất cao, không những chất lượng phải đảm bảo mà mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm cũng phải đẹp với từng loại khách hàng ở các nước khác nhau. Ví dụ: sản phẩm gia công cho Nhật Bản phải nhỏ hơn và nhiều màu sắc hơn so với các nước Châu Âu, do thời tiết ở các nước EU, Canada rất lạnh,cho nên áo Jacket phải dày và lớp bông lót phải nhiều hơn, áo sơ mi thì loại vải cần có độ giữ nhiệt tốt, màu sắc sản phẩm nhã nhặn hơn.
Do vậy, để giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài và mở rộng thêm những khách hàng mới, xí nghiệp phải luôn thu thập các thông tin về thị hiếu và sở thích của khách hàng trên cơ sở đó đáp ứng tốt hơn nhu cầu của họ.
b-/ Thị trường trong nước
So với doanh thu xuất khẩu thì doanh thu đạt được từ thị trường trong nước rất nhỏ. Năm 1997 doanh thu trong nước đạt khoảng 691 triệu đồng (chiếm 5,4%) trong khi đó doanh thu xuất khẩu là 13 tỷ 128 đồng (94,6%). Tuy rằng sang năm 98 doanh thu trong nước có tăng lên nhưng vẫn còn rất hạn chế, do nhờ được mạng lưới cửa hàng bán lẻ trên khắp cả nước với nhãn mác sản phẩm là tên của Công ty HAPROSIMEX.
Trong chiến lược phát triển lâu dài, xí nghiệp nhận định: thị trường trong nước là một thị trường tiềm năng, dựa trên các cơ sở sau:
- Nước ta có dân số đông (83 triệu người), nhu cầu về may mặc rất lớn.
- Nếu kinh tế đất nước đang trên đà phát triển do đó mức sống nhân dân ngày một nâng cao.
- Hàng may mặc trong nước đang có một uy tín lớn đối với người tiêu dùng. Trong đó sản phẩm của xí nghiệp mang tên HAPROSIMEX cũng đang chiếm được lòng tin của người tiêu dụng.
Trong tương lai, thị trường trong nước đối với xí nghiệp sẽ rất quan trọng, sản phẩm làm ra được tiêu thụ trong nước không những mang lại lợi nhuận cho xí nghiệp mà còn mang lại lợi ích cho cả nền kinh tế đất nước. Do vậy, một chiến lược Marketing đã và đang được xí nghiệp xây dựng, nhằm mở rộng thị trường trong nước.
c-/ Thị trường nước ngoài
Thị trường xuất khẩu sẽ vẫn là thị trường chính của xí nghiệp trong hiện tại và cả tương lai, sản phẩm của xí nghiệp chủ yếu được xuất khẩu sang các nước EU (78%), Nhật (6,3%) và một số nước khác như: Mỹ, Canada... chiếm 15,7%.
Các sản phẩm chính xuất khẩu chính là: áo Jackets, áo sơ mi, quần âu và một số sản phẩm phụ khác là váy các loại, bộ đồ trượt tuyết, bộ đồ thể thao... Như vậy, thị trường chính của xí nghiệp là các nước EU và Nhật Bản để giữ được mối quan hệ làm ăn lâu dài với hai khách hàng lớn này, xí nghiệp đã có những chính sách giá ưu đãi và một số dịch vụ khác co hai thị trường lớn này. (Xí nghiệp đã có hẳn một phân xưởng chuyên may hàng gia công cho Nhật Bản ).
Do các nước mà sản phẩm của xí nghiệp xuất khẩu sang đều có nền kinh tế phát triển, giá nhân công cao và chi phí cho sản xuất cũng cao hơn nước ta. Chính vì vậy, cùng một loại sản phẩm nếu sản xuất ở nước ta thì giá thành sản xuất rẻ hơn nên sản phẩm của xí nghiệp có sức cạnh tranh về giá cao hơn. Tuy nhiên, xí nghiệp có những khó khăn lớn trong việc tiếp cận, mở rộng thị trường nước ngoài đó là sự thiếu thông tin về khách hàng như sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng... Các thông tin này xí nghiệp có được chủ yếu lấy từ báo cáo phân tích của cán bộ, các cố vấn kinh doanh, báo cáo xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp cùng ngành. Các căn cứ rút ra từ sách báo, tạp chí chuyên ngành, thông tin từ các tổ chức thương mại quốc tế có uy tín... qua đó chọn lọc đánh giá và dự đoán những nhu cầu đã và sẽ phát sinh ở thị trường kinh doanh của xí nghiệp và những biến động của toàn bộ thị trường, để đề ra các quyết định kinh doanh đúng đắn nhằm thoả mãn nhu cầu đó.
Một khó khăn nữa trong việc xuất khẩu hàng hoá là sự cạnh tranh của Hàn Quốc và Trung Quốc. Đây là hai đối thủ cạnh tranh lớn nhất của xí nghiệp.
d-/ Phương thức thanh toán.
Phương thức thanh toán được hai bên thoả thuận ghi trong hợp đồng trong đó giá nguyên vật liệu được nhập theo giá chi phí, giá bán hàng theo giá FOB. Đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam thì đây là phương thức thanh toán có lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam vì chúng ta chưa có đội tàu biển chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu mà phương thức thanh toán này thì phía nước ngoài phải chịu trách nhiệm thuê tàu:
- Nếu chi phí gia công được thanh toán ngay sau khi ký hợp đồng: thường áp dụng với những hợp đồng có giá trị nhỏ, thời gian thực hiện ngắn và đối tác là các bạn hàng truyền thống. Sau khi ký hợp đồng, đối tác thanh toán toàn bộ chi phí gia công, khi xí nghiệp sản xuất đủ khối lượng hợp đồng, hàng hoá được vận chuyển đến cảng xuất. Tại đây, xí nghiệp phải làm thủ tục xuất khẩu và giao hàng cho đối tác.
- Chi phí gia công được thanh toán khi khách hàng đã nhận được hàng. áp dụng cho những hợp đồng có giá trị lớn, thời gian vận chuyển dài. Khi xí nghiệp đã sản xuất đủ khối lượng hợp đồng, hàng hoá được chuyển đến cảng xuất và bốc lên tàu. Sau khi nhận vận đơn (B/L) Xí nghiệp có trách nhiệm thông báo cho người mua, hàng đã được xếp lên tàu nào, thời gian khởi hành và cập cảng đích. Người mua có trách nhiệm mở một thư tín dụng (L/C) mà người hưởng là xí nghiệp, khi đã nhận đủ hàng thì phải thông báo cho xí nghiệp biết để cùng vói B/L và một số hoá đơn chứng từ khác xí nghiệp lập thành một bộ chứng từ thanh toán gửi cho ngân hàng đã mở L/C để được thanh toán tiền hàng theo đúng thời hạn.
3-/ Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
Bảng 3 - Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp (giai đoạn 97 - 98)
Đơn vị: 1000
STT
Chỉ tiêu
ĐV tính
1997
1998
Chênh lệch
Trị giá
%
1
Tổng doanh thu
đồng
13.820.000
16.572.000
2.752.000
10,9
2.
Tổng sản lượng
Chiếc
738
703
(- 35)
4,8
- áo Jacket
Chiếc
309
294
- áo sơ mi
Chiếc
257
242
- các sản phẩm khác
Chiếc
172
167
3
Tổng giá trị sản lượng
đồng
11.840.000
13.299.000
1.459.000
12,4
4
Tổng chi phí
đồng
15.942.000
16.473.000
531.000
3,3
- Giá vốn hàng bán
đồng
11.840.000
13.299.000
- Thuế các loại
đồng
2.432.000
2.816.000
- Các chi phí khác
đồng
1.670.000
328.000
5
Lợi nhuận
đồng
(- 2.112.000)
99.000
6
Nguồn vốn
đồng
22.036.000
22.136.000
100.000
4,1%
Xí nghiệp may Thanh Trì mới đi vào hoạt động được hơn hai năm nên gặp rất nhiều khó khăn, nhất là vấn đề tổ chức sản xuất, đảm bảo kinh doanh có hiệu quả. Tuy nhiên, xí nghiệp đã từng bước khắc phụ, chịu khó học hỏi các doanh nghiệp bạn, hoàn thiện dần cơ cấu sản xuất nên xí nghiệp đã duy trì và từng bước phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Xí nghiệp luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, tạo việc làm ổn định cho người lao động, có tích luỹ và tạo uy tín với khách hàng.
Qua bảng 3 ta thấy, năm 1997 là năm bắt đầu xí nghiệp đi vào hoạt động, mọi công tác đều đang ở bước làm quen với công việc: Công nhân sản xuất mơí vào việc, tay nghề chưa cao, cán bộ quản lý tuy có trình độ chuyên môn nhưng những vướng mắc ban đầu trong quản lý và điều hành sản xuất là không thể tránh khỏi nên hiệu quả sản xuất chưa cao, cụ thể là xí nghiệp đã bị lỗ hơn 2 tỷ đồng, một phần cũng là do xí nghiệp mới đi vào hoạt động, nên các khoản chi phí thành lập doanh nghiệp chi phí mua sắm trang thiết bị, văn phòng làm việc, làm cho tổng chi phí kinh doanh tăng. Việc chịu lỗ trong năm đầu thành lập không chỉ ở xí nghiệp mà là tình trạng chung ở hầu hết các doanh nghiệp mới thành lập. Do vậy, với doanh thu trên 13 tỷ đồng là kết quả đáng khích lệ, điều này cũng chứng tỏ, xí nghiệp đã tìm kiếm được khách hàng, sản phẩm đã có sức cạnh tranh trên thị trường. Điều cần quan tâm trong các năm tới là xí nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và mở rộng tiêu thụ.
Sang năm 1998, mức doanh thu tăng lên trên 16 tỷ đồng (tăng 19,9%) và xí nghiệp bắt đầu kinh doanh có lãi (99.000.000đ). Mặc dù lợi nhuận chỉ chiếm 0,6% doanh thu nhưng đây là sự cố gắng vượt bậc của xí nghiệp trong khi mới đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh được hơn hai năm. Theo số liệu năm 98 ta thấy, tổng sản lượng giảm 35.000 chiếc nhưng giá trị tổng sản lượng (giá vốn hàng bán) tăng hơn năm 97: 1.459.000.000 đồng (tăng 12,4%) là do xí nghiệp đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, nên nhu cầu về vốn tăng, nhiều khi xí nghiệp phải huy động vốn bằng việc vay ngân hàng với lãi suất cao. Hơn nữa, việc mở rộng quy mô sản xuất, kéo theo những chi phí khác như: chi phí mua sắm thiết bị, chi phí lắp đặt... đồng thời chi phí khấu hao cũng tăng lên. Mặc dù, tổng sản lượng giảm nhưng doanh thu năm 1998 lại tăng, doanh thu tăng là do giá bán hàng tăng (với một yếu tố về giá không thể đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh). Điều đáng nói là xí nghiệp đã chú trọng đến việc nâng cao chất lượng, đa dạng mẫu mã sản phẩm, nâng được giá bán, dần dần tạo uy tín với khách hàng. Đặc biệt là khách hàng truyền thống và từng bước mở rộng thị trường kinh doanh.
Với kết quả mà xí nghiệp đã đạt được thời gian qua chưa cao tuy đã xác định được hình thức kinh doanh. Nhưng xí nghiệp vẫn chưa cải tiến được mà chỉ là tổ chức sản xuất kinh doanh theo đơn đặt hàng với nguyên vật liệu của khách hàng. Điều này làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp bị thụ động, phụ thuộc vào khách hàng và chịu tác động lớn của nhu cầu thị trường. Hơn nữa, do mới đi vào hoạt động nên xí nghiệp thiếu nhạy bén trong kinh doanh, đã bỏ lỡ nhiều cơ hội có thể đem lại lợi nhuận cho xí nghiệp. Mặc dù, kết quả kinh doanh chưa cao, nhưng xí nghiệp đã đảm bảo đời sống của cán bộ công nhân viên, thu nhập bình quân tháng đều gia tăng hàng năm, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, có tích luỹ để tăng nguồn vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đó cũng là những kết quả khả quan.
III-/ Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp.
1-/ Phân tích hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh
Bảng 4 - Tỷ suất doanh thu trên tổng chi phí sản xuất kinh doanh
Đơn vị: 1000 đồng
STT
Chỉ tiêu
1997
1998
Tỷ lệ
1
Doanh thu
13.820.000
16.572.000
19,9%
2
Tổng chi phí
15.942.000
16.473.000
3,3%
3
Hiệu quả (lần)
0,87
1,01
Bảng phân tích cho thấy năm 1998 cả doanh thu và chi phí đều tăng nhưng so với doanh thu thì tổng chi phí tăng chậm hơn (doanh thu tăng 19,9%; Tổng chi phí tăng 3,3%). Do vậy hiệu quả kinh tế năm 1998 tăng lên rõ rệt (năm 1997 là 0,87, năm 1998 là 1,01) một đồng chi phí năm 1997 bỏ ra chỉ thu được 0,87 đồng doanh thu; năm 1998 thu được 1,01 đồng.
Xét về mặt kinh tế, hiệu quả kinh tế thể hiện rõ nhất ở lợi nhuận thu được, đó là mục tiêu của hoạt động kinh doanh. Ta xem xét lợi nhuận dưới nhiều khía cạnh khác nhau.
* Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh
P1 =
Bảng 5 - Tỷ suất lợi nhuận của vốn sản xuất
STT
Chỉ tiêu
1997
1998
1
Lợi nhuận ròng
0
99.000
2
Tổng vốn sản xuất kinh doanh
22.036.000
22.136.000
3
Hiệu quả P1 =
0
0,0045
Tỷ suất lợi nhuận của vốn cho thấy: Năm 1998 hiệu quả sử dụng vốn là cứ 1000 đồng vốn bỏ ra thì tạo được 4,5 đồng lợi nhuận, năm 1997 xí nghiệp không thu được lợi nhuận là do xí nghiệp mới đi vào hoạt động, chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh rất lớn, giá bán đơn vị sản phẩm thấp dẫn đến thua lỗ (2.122.000.000 đồng)
* Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí.
Bảng 6 - Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí
Đơn vị: 1000 đồng
STT
Chỉ tiêu
1997
1998
1
Doanh thu
0
99.000
2
Tổng chi phí
15.942.000
16.473.000
3
Hiệu quả P2 (lần)
0
0,006
Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí cho biết xí nghiệp bỏ ra một đồng chi phí thì thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận, năm 1998 cứ 1000 đồng chi phí thì thu được 6 đồng lợi nhuận (chiếm 0,6%) mặc dù lợi nhuận chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng doanh thu nhưng đây là một cố gắng lớn của xí nghiệp.
Tổng chi phí năm 1998 tăng 3,3% so với năm 1997 làm giảm lợi nhận của xí nghiệp. Chi phí năm 98 tăng là do xí nghiệp mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu về vốn lớn phỉa vay vốn ngân hàng nên phải chịu chi phí về lãi suất . Ngoài ra việc mở rộng quy mô sản xuất kéo theo CF về lắp đặt,sửa chữa phân xưởng và chi phí khấu hao tăng .
* Giá trị gia tăng
Giá trị gia tăng được tính bằng:
+ Lương, thưởng
+ Các khoản thuế
+ BHXH, BHYT
+ Khấu hao TSCĐ
+ Lợi nhuận sau thuế
Bảng 7 - Tỷ suất giá trị gia tăng trên vốn sản xuất kinh doanh và doanh thu
STT
Chỉ tiêu
1997
1998
1
GTGT
9.991.000
13.182.000
2
Doanh thu
13.820.000
16.572.000
3
Tổng vốn
22.036.000
22.136.000
4
H1 =
0,45
0,595
5
H2 =
0,72
0,795
Tỷ suất giá trị gia tăng trên vốn sản xuất kinh doanh cho thấy một cách tổng quát kết quả hoạt động kinh doanh của xí nghiệp qua từng năm. Tỷ suất giá trị gia tăng cho biết sau một năm với 1000 đồng vốn xí nghiệp đã đóng góp cho Nhà nước, cho bản thân Công ty và cán bộ công nhân viên năm 1997 là 45 đồng năm 1998 là giá trị gia tăng chứng tỏ quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp tăng.
2-/ Hiệu quả sử dụng các yếu tố kinh doanh
2.1-/ Hiệu quả sử dụng lao động
2.1.1-/ Chỉ tiêu tiền lương
Đối với bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải trích một khoản từ tổng doanh thu để trả lương cho cán bộ công nhân viên. Lương là khoản thu nhập chính đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên, đồng thời lương là đòn bảy kinh tế lớn động viên cán bộ công nhân viên phấn khởi, tin tưởng vào khả năng kinh doanh của mình, của đồng nghiệp và của xí nghiệp. Qua đó tạo điều kiện cho mọi người đóng góp khả năng của họ vào sự phát triển của doanh nghiệp
- Đối với lao động trực tiếp.
Mỗi doanh nghiệp có hình thức trả lương riêng. Xí nghiệp may Thanh Trì đã chọn hình thức trả lương theo sản phẩm. Lương được trả cho mỗi công nhân theo sức lao động họ bỏ ra. Như vậy, người lao động sẽ cảm thấy được đối xử công bằng và được ý thức được rằng quyền lợi kinh tế gắn bó mật thiết với năng suất lao động của bản thân mỗi người.
Theo tính toán và kinh nghiệm thực tế trong sản xuất, xí nghiệp cho rằng khoảng 70% thời gian làm việc trong ngày là có ích còn lại 30% là sử dụng cho vào ca, đổi ca và một số việc phụ khác. Dựa vào mức lương trung bình của các xí nghiệp may trong nước, xí nghiệp áp dụng mức lương tối thiểu là 350.000đ/tháng và đưa ra các tính lương một giờ sản xuất như sau:
Cách tính lương cho một giờ sản xuất như sau:
Lương 1h sản xuất =
Tuỳ từng loại sản phẩm, bộ phận mà sản phẩm may phải mất một khoảng thời gian sản xuất là Y (giờ) để hoàn thành. Suy ra đơn giá cho một sản phẩm là A = X . Y
Dựa vào bảng chấm công, chứng tứ hoá đơn nghiệm thu sản phẩm hệ số bậc thợ, phòng kế toán sẽ tính lương trả cho công nhân để trình giám đốc ký, rồi giao cho phòng lao động - tiền lương để trả lương cho công nhân.
- Đối với lao động gián tiếp.
Xí nghiệp áp dụng hình thức trả lương theo hệ số lương. Hình thức này có ưu điểm là đơn giản, dễ tính nhưng nhiều khi không hợp lý và không công bằng. Vì hệ số lương được tính theo phòng ban như vậy là tính đồng đều cho cả trưởng phòng và nhân viên mặc dù trách nhiệm và khối lượng công việc của họ là khác nhau.
Bảng 8 - Tình hình phân bổ lương cho cán bộ công nhân viên năm 1997
Bộ phận
Cơ cấu lao động
Cơ cấu tiền lương
Hệ số trả lương
Mức lương
Số lượng
%
I
Lao động gián tiếp
64
6,24
38,515
600
1
Phòng LĐ - TL
06
0,6
3,980
2,57
663
2
Phòng kế hoạch
09
0,89
4,840
2,57
537
3
Phòng Tài vụ
05
0,46
3,325
2,86
665
4
Phòng XNK
07
0,67
7,300
2,86
620
5
Phòng bảo vệ
15
1,44
6,050
2,57
403
6
Phòng hành chính
22
2,18
13,020
2,57
591
II
Khối quản lý trực tiếp
52
5,0
27,420
2,0
548
7
Phân xưởng 1
07
0,67
4,200
2,0
600
8
Phân xưởng 2
07
0,67
4,320
2,0
617
Phòng cơ điện
05
0,46
3,100
2,0
620
Kỹ thuật may
23
2,1
12,150
2,0
528
III
Phân xưởng thuê
10
0,96
6,120
2,0
512
IV
Khối sản xuất
916
87,8
324,070
390
Qua bảng 8 ta thấy, so với quản lý thì lương của khối sản xuất trực tiếp có chênh lệch khá lớn. Như vậy là chưa hợp lý. Vì họ là lực lượng lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm, khả năng và ý thức làm việc của họ sẽ quyết định đến năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Vì vậy sang năm 1998 xí nghiệp đã điều chỉnh và nâng mức lương trung bình lên 438.000 đồng, tăng 48.000 (12,3%), dự kiến năm 1999 là 500.000 đồng. Sự điều chỉnh này thực sự đã khuyến khích công nhân nâng cao ý thức trách nhiệm, tăng năng suất lao động đồng thời đây cũng là mục tiêu từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống cho công nhân để họ yên tâm công tác và ngày càng gắn bó với xí nghiệp.
2.1.2-/ Hiệu quả sử dụng lao động.
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng nhất của quá trình sản xuất kinh doanh, còn những yếu tố khác chỉ là những yếu tố vật chất đơn thuần mà nếu không có sự tác động của yếu tố lao động thì những yếu tố vật chất không thể biến đổi để trở thành hàng hoá, một dạng vật chất khác có giá trị sử
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0363.doc