MỤC LỤC
Lời nói đầu.1
PHẦN NỘI DUNG:
PHẦN I: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
I.Khái niệm về hình thái kinh tế .2
II.Tính cấp thiết của đề tài 2
III.Mục đích,ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài .3
1.Mục đích 3
2.ý nghĩa .3
PHẦN II: NỘI DUNG CHÍNH
I. Học thuyết về Hình thái Kinh tế - Xã hội. 4
1. Những cơ sở xuất phát để phân tích đời sống xã hội.4
2.Hình thái Kinh tế - Xã hội.5
3. Sự phát triển của các Hình thái Kinh tế - Xã hội.10
II. Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội - Con đường phát triển tất yếu của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.11
1.Hình thái Kinh tế - Xã hội của Mác trong cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.12
2.Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội và thời kỳ quá độ.
3.Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta.15
a.Mục tiêu.15
b.Phương hướng 16
PHẦN III
Kết luận . 18
Tài liệu tham khảo.19
21 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1128 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hình thái kinh tế với sự nghiệp cách mạng Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng quan niệm duy vật về lịch sử Mác và F.Ăngen đã xuất phát từ những tiêu đề sau đây :
" Tiên đè đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân, con người sống ”. Xã hội dưới bất kì một hình thức nào cũng là sự liên hệ và tác động qua lại giữa người với người. Ngay từ khi mới ra đời, con người đã có nhu cầu tìm hiểu về chính mình và về Thế giới xung quanh. Các nhà tư tưởng đã từng tiếp cận vấn đề con người dưới nhiều hình thức, nhiều góc độ khác nhau và có nhiều đóng góp quý báu : Phát hiện ra nhiều thuộc tính, phẩm chất, năng lực phong phú, kì diệu của con người về mọi mặt sinh học, xã hội cũng như tâm lý, ý thức. Trên cơ sở đó, họ có đề xuất những con đường, biện pháp hướng con người đến cuộc sống tốt đẹp.. Để khắc phục điều này triết học Mác đã có những phát hiện mới, những đóng góp mới. Lần đầu tiên Mác vạch ra phương thức tồn tại của con người, xuất phát từ cuộc sống của con người hiện thực. Mác đưa ra một trong những luận điểm được coi là quan trọng nhất trong quan điểm duy vật về lịch sử của ông : ”Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội ”. Theo C.Mác con người tồn tại trong xã hội với tư cách là sản phẩm của xã hội, hơn nữa con người không phải là sản phẩm của xã hội nói chung mà bao giờ cũng là sản phẩm của một hình thái xã hội nhất định.
Mặt khác, Mác nhận thấy phương thức tồn tại của con người chính là hoạt động của họ. Các quy định hành vi lịch sử đầu tiên và cũng là động lực thúc đẩy con người hoạt động trong suốt lịch sử của mình là nhu cầu và lợi ích. F.Ăngen đã viết: ”... đã phát hiện ra quy luật phát triển của lịch sử loài người nghĩa là tìm ra sự thực đơn giản... là trước hết con người cần phải ăn mặc, ở uống trước khi có thể lo đến chuyện làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo... ”. Như vậy, nhu cầu tồn tại của con người hình thành một cách khách quan và có nhiều thang bậc mà trước đó là nhu cầu sống (ăn, uống, mặc, ở...) sau đó mới đến nhu cầu khác như giao tiếp và tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng, nhu cầu phát triển tâm hồn và trí tuệ,... Vì vậy mà hoạt động lịch sử đầu tiên của con người là sản xuất ra những tư liệu cần thiết để thoả mãn những nhu cầu của mình. Với quan niệm đó C.Mác đã đi dến kết luận rằng : Phương thức sản xuất là cái quyết định toàn bộ đời sống xã hội và nhưng mặt cơ bản của hoạt động xã hội thể hiện ra với tư cách là những hình thức khác của sản xuất vật chất.Sản xuất vật chất chính là yếu tố nền tảng vì nó tạo ra những điều kiện vật chất cho xã hội tồn tại, là động lực phát triển của xã hội, chi phối những yếu tố khác trong cấu trúc xã hội, là cơ sở của lịch sử loài người, tạo ra những tư liệu sinh hoạt, mà những tư liệu sinh hoạt này đáp ứng nhu cầu sống của con người, tạo ra những tư liệu sản xuất mà những tư liệu sản xuất này tạo ra những thời đại lịch sử của loài người. Cũng như trong quá trình sản xuất vật chất thì con người tự tạo ra và hoàn thiện chính bản thân mình.
Như vậy, sản xuất vật chất là điều kiện không thể thiếu trong bất kì một xã hội nào. Tuy nhiên sản xuất chỉ là yếu tố nền tảng của hoạt động sản xuất. Trên cơ sở vật chất và sản xuất vật chất hay trên cơ sở tồn tại xã hội thì con người đã sản sinh ra ý thức mà đặc trưng là hệ tư tưởng đạo đức, tôn giáo. Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đặt ra và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội này. C.Mác xác lập nguyên lý có tính chất phương pháp luận để giải quyết vấn đề này là : ” không phải ý thức con người quyết định tồn tại của họ, trái lại, chính sự tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ ”.
Xã hội là bộ phận đặc thù của thế giới vật chất,vận động và phát triển theo quy luật khách quan. Quy luật xã hội là những mối liên hệ bản chất, tất yếu, lắp đi lắp lại của các quá trình,hiện tượng của đời sống xã hội, đặc trưng cho khuynh hướng cơ bản phát triển của xã hội từ thấp đến cao.
2.Hình thái Kinh tế - Xã hội
a) Hình thái Kinh tế - Xã hội là một phạm trù của Chủ nghĩa duy vật lịch sử dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên những quan hệ ấy.
Hình thái Kinh tế - Xã hội đặt nguyên tắc phương pháp luận khoa học để nghiên cứu tất cả các mặt của xã hội. Chẳng những nó đã đưa ra bản chất của một xã hội cụ thể, phân biệt chế đọ xã hội này với chế độ xã hội khác, mà còn thấy được tính lặp lại, tính liên tục của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất và sinh hoạt ở những xã hội khác nhau. Nói cách khác, phạm trù Hình thái Kinh tế - Xã hội cho phép nghiên cứu xã hội cả về mặt loại hình và về mặt lịch sử. Xem xét đời sống xã hội ở một giai đoạn phát triển lịch sử nhất định, coi như một cấu trúc thống nhất tương đối ổn định đang vận động trong khuôn khổ của chính hình thái ấy.
Kết cấu và chức năng của các yếu tố cấu thành Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Xã hội không phải là tổng số những hiện tượng, sự kiện rời rạc, những cái nhìn riêng lẻ, xã hội là một chỉnh thể toàn diện có cơ cấu phức tạp. Trong đó có những mặt cơ bản nhất là Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất và Kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt đó có vai trò nhất định và tác động lên những mặt khác tạo nên sự vận động của cơ thể xã hội. Chính tính toàn vẹn đó được phản ánh bằng khái niệm Hình thái Kinh tế - Xã hội.
Hình thái kinh tế - xã hội có tính lịch sử , có sự ra đời phát triển và diệt vong. Chế độ xã hội lạc hậu sẽ mất đi , chế độ xã hội mới cao hơn sẽ thay thế . Đó là khi phương thức sản cũ đã nên lỗi thời , hoặc khủng hoảng do mâu thuẫn của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất quá lớn không thể phù hợp thì phương thức sản xuất này sẽ bị diệt vong và xuất hiện một phương thức sản xuất mới hoàn thiện hơn , có quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất . Như vậy bản chất của sự thay thế trên là phụ thuộc vào mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất .
+/ Lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất, kỹ thuật mà mỗi Hình thái Kinh tế - Xã hội. Sự hình thành và phát triển của mỗi Hình thái Kinh tế - Xã hội xét đến cùng là do Lực lượng sản xuất quyết định. Lực lượng sản xuất phát triển qua các Hình thái Kinh tế - Xã hội nối tiếp nhau từ thấp đến cao thể hiện tính liên tục trong sự phát triển của xã hội loài người. Lực lượng sản xuất bao gồm :
- Người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động, biết sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra của cải vật chất.
- Tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra bao gồm Tư liệu lao động và Đối tượng lao động. Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên được đưa vào trong sản xuất như là đất canh tác, nước...ngoài ra, còn có đối tượng không có sẵn trong tự nhiên mà con người sáng tạo ra. Tư liệu lao động là những vật thể mà con người dùng để tác động vào đối tượng lao động nhằm tạo ra những tư liệu sinh hoạt nhằm phục vụ cho nhu cầu của con người. Tư liệu lao động chỉ trở thành lực lượng tích cực cải biến đối tượng lao động khi chúng kết hợp vơí lao động sống. Chính con người với trí tuệ và kinh nghiệm của mình đã chế tạo ra tư liệu lao động và sử dụng nó để thực hiện sản xuất. Tư liệu lao động dù có ý nghĩa lớn lao đến đâu nhưng nếu tách khỏi người lao động thì cũng không phát huy được tác dụng, không thể trở thành lực lượng sản xuất của xã hội. LêNin viết : ” Lực lượng sản xuất hấp dẫn của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Giữa các yếu tố của Lực lượng sản xuất có sự tác động biện chứng. Sự tác động của tư liêu lao động phụ thuộc vào trí thông minh, sự hiểu biết, kinh nghiệm của con người. Đồng thời bản thân những phẩm chất của con người, những kinh nghiệm và thói quen của họ đều phụ thuộc vào Tư liệu sản xuất hiện có, phụ thuộc vào chỗ họ sử dụng những tư liệu lao động nào.
+/ Quan hệ sản xuất .
Quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất là những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định mọi quan hệ xã hội khác, không có những mối quan hệ đó thì không thành xã hội và không có quy luật xã hội. Mỗi hình thái Kinh tế - Xã hội lại có một kiểu quan hệ sản xuất của nó tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất đó là tiêu chuẩn khách quan để nhận biết xã hội cụ thể này với xã hội cụ thể khác đồng thời tiêu biểu cho một giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử.
Quan hệ sản xuất bao gồm những mặt sau đây :
Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Quan hệ tổ chức quản lý.
Quan hệ phân phối sản phẩm lao động
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả những quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ mối quan hệ sản xuất nào cũng phụ thuộc vào vấn đề những Tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Có hai hình thức sở hữu cơ bản về Tư liệu sản xuất : Sở hữu tư nhân và Sở hữu xã hội. Những hình thức sở hữu đó là những quan hệ kinh tế thực hiện giữa người với người trong xã hội.
+/ Kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng:
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng xã hội, những thiết chế tương ứng và những quan hệ nội tại của thượng tầng hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định.
Mỗi yếu tố của Kiến trúc thượng tầng có đặc thù riêng, có quy luật riêng nhưng không tồn tại tách rời nhau mà liên hệ tác động qua lại lẫn nhau và đều nảy sinh trên cơ sở hạ tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Song không phải tất cả các yếu tố của Kiến trúc thượng tầng đều liên hệ như nhau trên cơ sở hạ tầng của nó.
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của Hình thái Kinh tế - Xã hội nhất định. Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm những Quan hệ sản xuất thống trị, Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội trước là mầm mống của xã hội sau. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, tính chất giai cấp của Cơ sở hạ tầng là do kiểu Quan hệ sản xuất thống trị quy định. Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn ngay từ trong cơ sở hạ tầng.
Tính chất đối kháng giai cấp và sự xung đột giai cấp bắt nguồn ngay từ cơ sở hạ tầng. Trong xã hội có đối kháng giai cấp, cơ sở hạ tầng tồn tại những quan hệ đối kháng thì kiến trúc thượng tầng cũng mang tính đối kháng phản ánh tính đối kháng của cơ sở hạ tầng. Chính nhờ nhà nước mà tư tưởng giai cấp thống trị được toàn bộ của đời sống xã hội. Nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng của toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất đậc trưng cơ bản của kiến trúc thượng tầng xã hội
Phạm trù Hình thái Kinh tế - Xã hội là mô hình lý luận về xã hội và như mọi mô hình, nó không bao quát tất cả tính đa dạng của các hiện tượng đời sống xã hội. Vì vậy, hiện thực xã hội và sơ đồ lý thuyết về xã hội không đồng nhất với nhau.. Hình thái Kinh tế - Xã hội chỉ phản ánh mặt bản chất những mối liên hệ bên trong, tất yếu, lặp lại của các hiện tượng ấy; Từ tính đa dạng cụ thể, lịch sử bỏ qua nhũng chi tiết cá biệt, dựng lại cấu trúc ổn định và lôgic phát triển của qúa trình lịch sử. Bất kì trong giới tự nhiên hay trong xã hội đều không có và không thể có hiện tượng ” thuần tuý ”.Đó chính là điều mà phép biện chứng của C.Mác đã nêu lên.
Hình thái Kinh tế - Xã hôị đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất phát để nghiên cứu xã hôị, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, không đi vào cái chi tiết, vượt qua khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc xã hội học mô tả, đi sâu vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cai lôgic bên trong của tính nhiều vẻ của lịch sử. .
3. Sự phát triển của các Hình thái Kinh tế - Xã hội
Lịch sử phát triển của xã hội đã trải qua nhiều quá trình nối tiếp nhau từ thấp đến cao. Tương ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái Kinh tế - Xã hội. Sự vận động thay thế nối tiếp nhau của các Hình thái Kinh tế - Xã hội trong lịch sử đều do tác động của các quy luật khách quan. Đó là quá trình lịch sử tự nhiên của xã hội. C.Mác viết : ” Tôi coi sự phát triển của những Hình thái Kinh tế - Xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên ”. Quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của xã hội có nguồn gốc sâu xa ở sự phát triển của Lực lượng sản xuất. Chính tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất đã quy định một cách khách quan của Quan hệ sản xuất, và như vậy quyết định qúa trình vận động và phát triển của Hình thái Kinh tế - Xã hội như một quá trình tư nhiên. Trong các quy luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của các Hình thái kinh tế - xã hội thì quy luật về sự phù hợp về Quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định. Một mặt của những Phương thức sản xuất, Lực lượng sản xuất là yếu tố đảm bảo tính kế thừa trong sự phát triển, tiến lên của xã hội, quy định khuynh hướng phát triển từ thấp đến cao. Những Quan hệ sản xuất lỗi thời đã được xoá bỏ và thay thế bằng những kiểu Quan hệ sản xuất mới cao hơn và dẫn đến Hình thái Kinh tế - Xã hội mới cao hơn giai đoạn đầu. Như vậy, sự xuất hiện và phát triển của Hình thái Kinh tế được giải thích trước hết bằng sự tác động của các quy luật. Trong quá trình tiến triển của các Hình thái Kinh tế - Xã hội, hình thái mới không xoá bỏ mọi yếu tố của hình thái cũ mà trong khi phá vỡ cấu trúc của hệ thống cũ lại bảo tồn và kế thừa và đổi mới những yếu tố của nó vừa đảm bảo tính liên tục, vừa tạo ra bước phát triển. Do đó tạo ra tình trạng chồng chất đan xen những yếu tố của Hình thái Kinh tế - Xã hội khác, của nhiều thời kỳ lịch sử khác. LêNin đã chỉ rõ : “Trên thế giới không có và cũng không thể có thứ Chủ nghĩa Tư bản nào là thuần tuý cả vì Chủ nghĩa Tư bản luôn luôn có lẫn những yếu tố phong kiến, tiểu thị dân và cả những cái khác nữa ”.
Tiến trình lịch sử của một dân tộc của một quốc gia cụ thể thường xuyên bị yếu tố bên trong và bên ngoài khác chi phối như hoàn cảnh địa lý, truyền thống văn hoá, tâm lý dân tộc, quan hệ giao lưu với các dân tộc khác. Tất cả các yếu tố đó đều có thể góp phần kìm hãm hoặc thúc đẩy sự phát triển của một dân tộc nhất định. Tính trọng chiến tranh hay hoà bình của một dân tộc cũng có thể làm gián đoạn,phá vỡ tiến trình phát triển tự nhiên hoặc tạo tiền đề phát triển của lịch sử một dân tộc.
II. Quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội - Con đường phát triển tất yếu của cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
1. Hình thái Kinh tế - Xã hội của Mác trong cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội không qua giai đoạn phát triển Tư bản Chủ nghĩa không có nghĩa là gạt bỏ tất cả những quan hệ sở hữu cá thể, tư nhân, chỉ còn lại chế độ công hữu và tập thể, trái lại, tất cả những gì thuộc về sở hữu tư nhân góp phần vào sản xuất kinh doanh thì chấp nhận nó như một bộ phận tự nhiên của quá trình kinh tế xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, khuyến khích mọi hình thức kinh tế để phát triển sản xuất và nâng cao cuộc sống của nhân dân. Trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành Quan hệ sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối có vai trò quan trọng. Những quan hệ này có thể góp phần củng cố Quan hệ sản xuất , cũng có thể làm biến dạng Quan hệ sở hữu. Trong cải tạo Xã hội Chủ nghĩa những năm qua do không hạn chế đầy đủ vấn đề này chúng ta đã mắc phải khuyết điểm là tuyệt đối hoá quan hệ sở hữu, coi nhẹ các quan hệ khác dẫn đến việc cải tạo Quan hệ sản xuất không đồng bộ nên quan hệ sản xuất ”mới” chỉ là hình thức.
Đảng ta khẳng định lấy Chủ nghĩa Mac - LêNin là kim chỉ nam cho hành động và nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung cốt lõi của Chủ nghĩa Mac- LêNin là ở tư tưởng giải phóng con người khỏi chế độ làm thuê, khỏi chế độ tư hữu dựa trên cơ sở người bóc lột người. Vì vậy, trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội của nhân dân ta đương nhiên lấy Chủ nghĩa Mac - LêNin là kim chỉ nam cho hành động. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mac - LêNin vào hoàn cảnh nước ta mà cốt lõi là sự kết hợp Chủ nghĩa Mac - LêNin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân ta. Tư tưởng đó đã trở thành một di sản tinh thần quý báu của Đảng, của nhân dân ta.
Xây dựng hệ thống chính trị Xã hội Chủ nghĩa, bản chất giai cấp công nhân do đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo đảm bảo cho nhân dân là người chủ thực sự của xã hội.toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về nhân dân, thực hiện nền dân chủ Xã hội Chủ nghĩa,đmả bảo phát huy mọi khả năng sáng tạo tích cực, chủ động của mọi các nhân,mọi tầng lớp xã hội trong công cuộc phát triển kinh tế và văn hoá, phục vụ ngày càng tốt hơn cuộc sống của nhân dân.
Các tổ chức, bộ máy tạo thành hệ thống chính trị xã hội không tồn tại như một ục đích tự thân mà vì phục vụ con người thực hiện cho được lợi ích và quyền lực của nhân dân lao động.
Nhận thức về Chủ nghĩa Xã hội và thời kỳ quá độ
a. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội.
“Chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra, không phải là một ý tưởng mà hiện thực phải tuôn theo. Chúng ta gọi Chủ nghĩa Cộng sản là một phong trào hiện thực, nó xoá bỏ trạng thái hiện nay, những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang tồn tại”. Dựa vào sự phát triển những mâu thuẫn của xã hội Tư sản trong giai đoạn đầu phát triển của nó, dựa vào triển vọng của phong trào công nhân, C.Mác và F.Ăngen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương lai tất yếu phải tiến đến Hình thái Kinh tế - Xã hội Cộng sản Chủ nghĩa mà Chủ nghĩa Xã hôi là giai đoạn đầu của hình thái ấy.
Lê nin đã chỉ rõ: “chúng ta không hề coi lý luận của Mác như một cái gì đó đã qua hẳn và bất khả xâm phạm trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt lên nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa phải phát triển hơn nữa về mọi mặt nếu họ không muốn trở thành lạc hậu với cuộc sống”. Cũng như các hình thái kinh tế xã hội khác, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa trải qua giai đoạn phát triển từ thấp đến cao trong đó có hai giai đoạn cơ bản : chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản . Đó là hai giai đoạn kết tiếp nhau trong cùng một hình thái kinh tế xã hội . Sự khác nhau cơ bản của hai giai đoạn nói trên là trình độ phát triển kinh tế xã hội và trước hết là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. C.Mác coi hai giai doạn đó là những nấc thang trưởng thành về kinh tế của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa . C.Mác và F.Ăngen đã đưa ra dự đoán về sự phát triển của xã hội loài người trong tương lai tất yếu phải tiến đến hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa mà chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu “chủ nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái cần phải sáng tạo ra , không phải ý tưởng mà hiện thực phải tuân theo. Chúng ta gọi chủ nghĩa cộng sản là một phong trào hiện thực nó xoá bỏ trạng thái hiện nay những điều kiện của phong trào ấy là kết quả của nhữnn tiền đề hiện nay đang tồn tại. Con đường phát triển tất yếu từ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại . Con đường mà nhân loại đang đi chính là con đường thắng lợi của hoà bình , độc lập dân tộc dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Lịch sử đã chứng minh không phải bất kỳ nước nào cũng phải tuần tự trải qua các hình thái kinh tế – xã hội đã từng có trong lịch sử. Việc bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội nào đó do những yếu tố bên trong quyết định xong đồng thời còn tuỳ thuộc vào sự cộng tác của nhân tố bên ngoài.
Về thời kỳ quá độ.
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là những nhân tố của xã hội mới và tân tiến của xã hội cũ đan xen lẫn nhau và đấu tranh với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống chính trị, văn hoá, xã hội, tư tưởng... trong xã hội. Cái biện chứng nhất của thời kỳ quá độ là sự quá độ về chính trị. ở đó nhà nước chuyên chính vô sản được thiết lập, củng cố và ngày càng hoàn thiện.
+ Về nền kinh tế : là nền kinh tế nhiều thành phần, bên cạnh những thành phần kinh tế của Xã hội Chủ nghĩa còn có những thành phần kinh tế khác, trong đó có cả thành phần kinh tế Tư bản.
+ Về mặt xã hội : trong thời kỳ này còn cơ sở khác biệt cơ bản, giữa thành thị và nông thôn, giữa các miền của đất nước, giữa lao động trí óc và lao động chân tay.
+ Về văn hoá, tư tưởng : bên cạnh nền văn hoá mới và hệ tư tưởng mới còn tồn tại rõ tàn tích của nền văn hoá cũ, hệ tư tưởng cũ, lạc hậu (thậm chí còn phản động), lối sống cũ...
Thực chất của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là thời kỳ đấu tranh quyết liệt về chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, giữa một bên là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và với các tầng lớp nhân dân lao động khác đã giành được chính quyền, nhà nước và ra sức phát động đưa đất nước quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa, với một bên là các giai cấp bóc lột, các thế lực phản động mới bị lật đổ nhưng chưa hoàn toàn bị xoá bỏ, vẫn còn nuôi hy vọng quay lại cái “Thiên đàng” đã mất.
Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội.
Đảng ta chỉ rõ : “ Nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ Tư bản, từ một xã hội vẫn là thuộc địa nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp”.
Điều cần chú ý là có thể bỏ qua chế độ Tư bản quá độ lên Xã hội Chủ nghĩa, nhưng không thể bỏ qua những việc chuẩn bị những tiêu đề cần thiết, nhất là tiêu đề kinh tế cho sự quá độ ấy. Nói cách khác, có thể bỏ qua chế độ Tư bản Chủ nghĩa nhưng phải tiến hành sao cho sự bỏ qua này không hề vi phạm đến tính lịch sử tự nhiên của sự phát triển. Do đó, cần có sự phát triển nhất định, coi nhân tố Tư bản Chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ là một yêu cầu khách quan.
Đáng tiếc trong nhiều năm qua chúng ta đã áp dụng một cách máy móc, có những quan niệm sai lầm về Chủ nghã xã hội.Điều này vi phạm nghiêm trọng về lý luận sự phát triển của Mác.Chúng ta đã phủ nhận Chủ nghĩa Tư bản một cách sạch trơn, không tiếp thu những yếu tố tích cực của nó vào sự phát triển của đất nước. Chúng ta vì nôn nóng muốn có nhay Chủ nghĩa Xã hội trong thời gian ngắn đã tiến hành cải tạo ồ ạt nhằm xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân Tư bản Chủ nghĩa, xoá bỏ thành phần kinh tế Tư bản Chủ nghĩa bằng bất cứ giá nào.
Đứng trước thực tế từ đầu những năm 80 trở lại đây, khủng hoảng Kinh tế - Xã hội nảy sinh và ngày càng trở nên trầm trọng. Để thực hiện tốt công cuộc đổi mới đất nước Đảng ta đã khẳng định rằng phải kiên trì nghiên cứu và vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý, lý luận của Chủ nghĩa Mac-LêNin mà trước hết là lý luận Hình thái Kinh tế - Xã hội vào việc đề ra các chủ trương, chính sách, các giải pháp xây dựng đất nước.Việc đề ra những giải pháp đúng đắn vào điều kiện cụ thể của nước ta là một vấn đề hết sức khó khăn.
3. Xây dựng Chủ nghĩa Xã hội ở nước ta.
a)Mục tiêu:
Do hoàn cảnh lịch sử của nước ta quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội trong tình trạng còn lạc hậu về kinh tế, những tàn dư của của chế độ xã hội cũ còn nhiều, trải qua mấy chục năm chiến tranh, cái quá độ lại còn nặng nề, Chủ nghĩa Xã hội thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, các thế lực thù địch luôn luôn tìm cách bao vây phá hoại sự nghiệp của Việt Nam. Đó là những khó khăn lớn nhưng cũng có những thuận lợi: Chính quyền nhà nước ngày càng được củng cố, đất nước đi vào giai đoạn hoà bình xã hội, nhân dân có lòng yêu nước truyền thống, cần cù trong lao động, sáng tạo, một số cơ sở vật chất kỹ thuật xây dựng hiện đại đang phát huy hiệu quả của nó, cuộc cách mạng. Khoa học Công nghệ cùng với xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới là một thơì cơ đẩy mạnh sự phát triển của đất nước.
Mục tiêu tổng quát phải đạt tới khi kết thúc thời kỳ quá độ là:“Xây dựng xã hội và cơ bản những cơ sở kinh tế của Chủ nghĩa Xã hội với Kiến trúc thượng tầng và chính trị, và tư tưởng văn hoá phù hợp là cho đất nước ta trở thành nước Xã hội Chủ nghãi phồn vinh ”.
Trong giai đoạn hiện nay, sau khi kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, chúng ta bắt đầu bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH với mục tiêu tổng quát là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh,xã hội công bằng, văn minh, từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp.
b)Phương hướng.
Coi trọng vai trò và bản chất của nhà nước, thể hiện đầy đủ quyền và nguyện vọng của nhân dân. Xây dựng nhà nước Xã hội Chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân,giữ nguyên kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân.
Thực hiện những biến đổi có tính công nghiệp hoá trên cả 3 lĩnh vực : Lực lượng sản xuất, Quan hệ sản xuất và Kiến trúc thượng tầng. Trong đó phát triển Lực lượng sản xuất là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu tạo tiền đề kinh tế vững chắc cho sự ra đời của phương thức sản xuất XHCN. Phát triển lực lướng sản xuất trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang diễn ra dồn dập, mạnh mẽ,đòi hỏi chúng ta phải có quan niệm mới về công nghiệp hoá.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8981.doc