MỤC LỤC
Lời nói đầu 4
Chương I: Lý luận chung về DNVVN và sự cần thiết hỗ trợ DNVVN 6
I. Lý luận chung về DNVVN: 6
1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ: 6
2. Tiêu thức xác định DNVVN: 7
2.1. Tiêu thức xác định DNVVN ở một số nước trên thế giới: 7
2.2. Tiêu thức xác định DNVVN ở Việt Nam: 8
3. Tiêu chí đánh giá doanh nghiệp phát triển bền vững 10
4. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân: 15
4.1. Mức độ đóng góp của DNVVN Việt Nam trong nền kinh tế 15
4.2. DNVVN giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm 16
4.3. DNVVN làm cho nền kinh tế năng động và có hiệu quả hơn 16
4.4. DNVVN góp phần tích cực trong việc lưu thông hàng hoá và XK 16
4.5. Các DNVVN dễ dàng duy trì sự tự do cạnh tranh 17
4.6. Các DNVVN có khả năng ứng biến nhanh nhạy 17
4.7. Các DNVVN là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp 18
II. Sự cần thiết phải hỗ trợ các DNVVN: 19
III. Kinh nghiệm hỗ trợ xuất nhập khẩu cho DNVVN của một số nước: 20
1. Các biện pháp hỗ trợ của Đài Loan 21
1.1. Về chiến lược kinh doanh 21
1.2. Về chính sách thuế 21
1.3. Về ngoại thương 22
2. Các biện pháp hỗ trợ của Malaysia. 24
3. Các biện pháp hỗ trợ của Hàn Quốc 25
3.1. Về chiến lược kinh doanh 26
3.2. Về chính sách tín dụng 26
3.3. Các biện pháp hỗ trợ khác 26
Chương II: Thực trạng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội 28
1. Quá trình hình thành và phát triển các DNVVN: 28
2. Thực trạng và những tồn tại: 29
2.1. Vốn của các DNVVN. 29
2.2. Tình hình thiết bị công nghệ 30
2.3. Trình độ nhân lực, lao động và quản lý. 32
2.4. Tình hình và khả năng cạnh tranh của các DNVVN về sản phẩm, thị trường. 35
3. Các chính sách hỗ trợ hiện nay 42
3.1. Cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện gia nhập thị trường 42
3.2. Chính sách đất đai và quy hoạch 44
3.3. Chính sách thuế 46
3.4. Chính sách tín dụng và cấp vốn cho kinh tế tư nhân 50
3.5. Chính sách lao động, tiền lương, đào tạo và khoa học và công nghệ 53
3.6. Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh 56
3.7. Chính sách hỗ trợ thông tin 58
4. Đánh giá chung 58
4.1. Những chính sách thành công 59
4.2. Các chính sách kém hiệu quả 60
Chương III: Một số giải pháp hỗ trợ 61
1. Đổi mới quan điểm , phương thức hỗ trợ 61
1.1. Đổi mới quan điểm hỗ trợ 61
1.2. Đổi mới phương thức hỗ trợ: 63
2. Các giải pháp hỗ trợ DNNVV 65
2.1. Chính sách hỗ trợ gia nhập thị trường 66
2.2. Chính sách thuế 66
2.3. Chính sách tín dụng 67
2.4. Chính sách đất đai 68
2.5. Chính sách hỗ trợ phát triển kinh doanh 69
2.6. Chính sách hỗ trợ công nghệ 70
Kết luận 74
Tài liệu tham khảo 75
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3663 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng cạnh tranh của các DNVVN về sản phẩm, thị trường.
Hạn chế về sản phẩm và chất lượng sản phẩm: Một trong những hạn chế lớn nhất của DNVVN Việt nam là trên con đường đi tìm đầu ra cho sản phẩm của mình, rất nhiều DNVVN vẫn đang duy trì những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, chất lượng không cao và chủ yếu dựa trên lợi thế chi phí nhân công rẻ.
Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Các doanh nghiệp hiện nay chưa tìm được lợi thế so sánh bằng những sản phẩm “độc đáo” riêng, hầu như DNVVN mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh thì tập trung vào kinh doanh và đem ra chào bán, nếu không thì cũng là sản xuất theo kiểu làm nhái lại các sản phẩm uy tín nước ngoài. Ngay cả trong ngành dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu…- những lĩnh vực ưu thế của Việt Nam, việc đa dạng chủng loại, mẫu mã vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp DNVVN chỉ làm theo catalogue, hoặc là cóp nhặt, nhái kiểu sản phẩm cạnh tranh, kết cục vừa làm mình rơi vào thế bị động, vừa ảnh hưởng xấu đến diễn biến thị trường. Sản phẩm có quá nhiều sự trùng lắp, cả về mẫu mã lẫn chủng loại mặt hàng, dịch vụ giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau, giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn, nên thị phần bị thu hẹp và lợi thế cạnh tranh tương đối lại càng mờ nhạt. Đó là nguyên nhân từ hai phía: trước hết, DNVVN yếu kém cả về năng lực sản xuất lẫn công nghệ và kiến thức thương trường và thậm chí chưa thực sự quan tâm đúng mức đến cải tiến sản phẩm; sau đến, Nhà nước thiếu một cơ chế kích thích tốt, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về ngành nghề và thị trường đối với loại hình doanh nghiệp này.
Hơn nữa, trong xuất khẩu, phần lớn các doanh nghiệp đang sản xuất các loại sản phẩm có mức lợi nhuận thấp, dễ gia nhập thị trường. Sản phẩm dưới dạng thô, sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (70%) trong khi lao động ở các DNVVN nói chung dư thừa rất nhiều. Về lâu dài không chỉ các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt mà cả lợi ích do giá cả thấp cũng thuộc về khách hang nước nhập khẩu. Trong mấy năm gần đây, việc đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến cũng như vào mặt hàng xuất khẩu giá trị gia tăng cao đã có những cố gắng đáng kể, nhưng kết quả vẫn chưa tương xứng. ở đây lại xuất hiện một nghịch lý là, nếu sản xuất và xuất khẩu hàng thô thì vốn ít, dễ tìm thị trường, nhưng giá trị thấp. Còn nếu đầu tư vào hàng chế biến thì cần vốn lớn và khó tìm thị trường, mà vốn và thị trường là hai khó khăn lớn hạn chế hoạt động của các DNVVN hiện nay. Thực tế là nhiều sản phẩm xuất khẩu thô thì lãi nhưng chế biến sâu khi bán ra lại lỗ.
Chất lượng sản phẩm của Việt Nam còn kém, lại không ổn định, rất khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay trên thị trường nội địa chứ không nói đến thị trường nước ngoài. Nhiều mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam luôn đứng ở thế yếu trước hàng nhập khẩu tiểu ngạch, chất lượng trung bình từ Trung Quốc, Thái Lan… ngay tại thị trường nội địa bởi chất lượng, giá cả, mẫu mã. Điều đáng lo ngại đối với DNVVN Việt Nam là nhiều hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam và trên thị trường quốc tế liên tục thay đổi mẫu mã và giảm giá mà chất lượng không giảm. Vô hình chung, doanh nghiệp Việt Nam tự rơi vào "cái bẫy của chí phí lao động thấp": bị qui luật cạnh tranh dồn ép vào những ngành có lợi nhuận cận biên thấp và bị cạnh tranh gay gắt về chi phí.
Qua điều tra trên 146 doanh nghiệp, các chuyên gia Viện chiến lược phát triển và Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc đã rút ra nhận xét: "Trong phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, người ta chưa thấy rõ những nỗ lực hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp dường như phó mặc hoặc ít quan tâm tới việc cải thiện không ngừng hoạt động của mình, điều tất yếu để có thể đạt được chuẩn mực quốc tế. Các công ty xuất khẩu Việt Nam thường có ít hoặc không có nhãn hiệu quốc tế riêng, thường phải dựa nhiều vào khách hang và các đối tác chính để có đầu vào thiết kế, quy trình công nghệ, tiếp thị và phân phối. Nhiều doanh nghiệp coi Chính phủ như một tác nhân quan trọng đến kết quả kinh doanh của họ và nỗ lực tìm kiếm càng nhiều ưu tiên, hạn ngạch, trợ cấp và bảo hộ càng tốt"( Trích “Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia 6/1999.)
Tiếp đó là về vấn đề thương hiệu sản phẩm, có thể thấy hiện đây đang là một vấn đề nhận được nhiều sự lưu tâm nhất hiện nay. Các DNVVN Việt nam hiện nay chưa tạo được một thương hiệu riêng cho mình- và cũng phải thừa nhận đó là một vấn để chẳng dễ dàng gì. Điển hình là sản phẩm gốm sứ Bát tràng, người ta biết đến Bát tràng là nơi sản xuất uy tín về gốm sứ, đến Bát tràng người ta có thể thấy nhan nhản các cửa hàng cửa hiệu với tên rất rõ ràng với địa chỉ và số điện thoại liên hệ, nhưng vấn đề là ở chỗ, không có tên, không có biểu tượng-tức là không có thương hiệu sản phẩm gốm sứ bát tràng để phân biệt với các sản phẩm gốm sứ khác trong khi gốm sứ Bát tràng hiện nay lại được xuất khẩu với số lượng rất lớn sang Nhật bản và Châu Âu.
Để giải quyết vấn đề thương hiệu của mình, một trong những giải pháp đưa ra là các DNVVN có thể sử dụng thương hiệu của các doanh nghiệp lớn cho đến khi có thương hiệu riêng, nhất là trong hoạt động xuất khẩu, các DNVVN cũng có thể hợp tác với các doanh nghiệp lớn nhằm sử dụng các thương hiệu của các doanh nghiệp đó. Thêm nữa, các DNVVN có thể mua lại các thương hiệu của các doanh nghiệp lớn bằng giao dịch nhượng quyền thương hiệu. Nếu DNVVN xây dựng thương hiệu của chính mình thì nên xây dựng thương hiệu ở cấp công ty thay vì xây dựng thương hiệu sản phẩm vì như vậy quá tốn kém. Theo nghiên cứu của các chuyên gia thì để phát triển một thương hiệu thì chi phí đầu tư không nhỏ và cần ít nhất vài năm để xây dựng thương hiệu quốc gia, cần khoảng 10 năm để xây dựng thương hiệu quốc tế, điều này là rất khó khăn với các DNVVN Việt nam với đa phần quy mô rất nhỏ, năng lực tài chính hạn chế, mục tiêu bán được hàng, có lợi nhuận, tạo công ăn việc làm là vấn đề cấp bách trước mắt.
Hạn chế về khai thác và mở rộng thị trường đầu ra nội địa: Thị trường nội địa của các DNVVN còn kém phát triển và thiếu đồng bộ. Các DNVVN chưa vượt ra được thị trường địa phương và khu vực. Thị trường đầu ra nội địa còn bị chèn ép vì độc quyền, vì hàng nhập lậu tràn lan, vì doanh nghiệp thiếu thông tin thị trường và thiếu sự hỗ trợ, tư vấn của các cấp vĩ mô. Thực tế ở thị trường nội địa Việt Nam hiện nay, việc xác lập các kênh lưu thông từ sản xuất đến tiêu thụ chưa thực hiện hiệu quả, chủ yếu do DNVVN khu vực kinh tế tư nhân đảm nhận. Doanh nghiệp tư nhân tuy đông nhưng vốn quá nhỏ, phạm vi kinh doanh rộng nhưng lại thiếu nghiệp vụ, kinh nghiệm nên DNVVN tư nhân thường chờ thời cơ, buôn bán nhỏ qua nhiều khâu trung gian. Điều đó dẫn đến tình trạng lộn xộn ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra, hay đội giá và gây ra hiện tượng khan hiếm hoặc dư thừa hàng hóa trên thị trường. Phần lớn doanh nghiệp hoạt động còn mang tính tự phát, năng lực nghiên cứu, dự báo cung cầu thị trường còn yếu. Nhiều khi, thấy có một mặt hàng đang bán chạy, các DNVVN đổ xô vào đầu tư sản xuất. Thực tế này dẫn tới đẩy giá nguyên liệu lên cao, làm giá thành sản phẩm tăng, đồng thời lượng cung hàng hóa cũng tăng. Do đó, dẫn tới thua lỗ, phá sản trong hàng loạt doanh nghiệp. Nhà nước chưa có biện pháp hỗ trợ DNVVN trong những trường hợp kinh doanh rủi ro cho nên chưa khuyến khích được doanh nghiệp đầu tư vào những lĩnh vực mới hay tại những địa bàn kém lợi thế.
Hơn nữa, việc quản lý thị trường của Nhà nước Việt Nam còn nhiều kẽ hở, hàng lậu tràn lan, hàng giả gia tăng gây ảnh hưởng tiêu cực tới sản xuất của doanh nghiệp. Tất cả những thực tế này khiến các doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ có khuynh hướng tập trung các nguồn lực dự trữ và tiêu thụ hàng ngoại hơn là tổ chức lưu chuyển hàng hóa trong nước. Vì vậy, phần lớn hàng tiêu dùng bị nước ngoài chiếm lĩnh, thị trường nội địa không phát triển đúng mức, càng tạo ra thêm nhiều cản trở cho sự gia nhập thị trường và vươn lên của nhiều DNVVN khác.
Hạn chế về khai thác và mở rộng thị trường đầu ra nước ngoài: Ngày càng có nhiều DNVVN tham gia đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nhưng, ở mặt trận này doanh nghiệp cũng bộc lộ rất nhiều hạn chế, từ chính bản thân và từ môi trường kinh doanh. Cơ cấu thị trường xuất khẩu không đa dạng, nhiều doanh nghiệp gặp không ít bất lợi khi các nước châu á - bạn hàng chính lâm vào khủng hoảng, cắt giảm tiêu thụ, nợ nần dây dưa. Nhìn chung, doanh nghiệp Việt Nam chưa xây dựng được chiến lược thị trường của riêng mình. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay mới chỉ có "chiến lược để cố gắng tồn tại trong ngắn hạn" hoặc là "chưa có chiến lược riêng phát triển doanh nghiệp" ( Trích “ Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”-NXB Chính trị quốc gia, tháng 6/1999). “Các DNVVN thụ động trong xuất khẩu”, đó cũng là nhận định được đưa ra tại hội thảo “Tăng cường năng lực hợp tác quốc tế của DNVVN Việt nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế” tổ chức vào 6/6/2001. Một khảo sáo của một nhóm nghiên cứu về DNVVN của trường đại học Kinh tế quốc dân, Đại học ngoại thương cùng với Đại học Copenhagen của Đan mạch cho thấy:36,7% số DNVVN có được đơn hàng xuất khẩu qua việc khách hàng nước ngoài trực tiếp đến thăm doanh nghiệp, 10,2% từ việc tham gia hội chợ triển lãm và 14,3% từ các đại lý bán hàng nước ngoài của doanh nghiệp và 20,4% là qua Bộ Thương mại và VCCI. Qua đó thấy rằng các DNVVN còn rất thụ động trong việc tìm thị trường, khách hàng, còn phụ thuộc nhiều vào khách hàng và hầu như hoàn toàn thụ động trong việc tiếp cận với thị trường và định hướng khách hàng, hiếm khi chủ động tìm kiếm khách hàng mới, nắm bắt và tham gia vào các hoạt động tiếp thị năng động trong nước hay quốc tế, hoặc thử nghiệm các mẫu sản phẩm mới. Điều này có nghĩa là nhiều doanh nghiệp tiếp tục sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, phạm vi cải tiến bó hẹp - những sản phẩm mà đến lượt nó lại phải chịu ảnh hưởng của những người bán hàng quốc tế hùng mạnh, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay theo sự phá giá tiền tệ ở một số nước đối thủ cạnh tranh.
Do thiếu thông tin và kèm theo những yếu điểm về công nghệ, trình độ quản lý, nên doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro khi xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp chỉ có thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh… một cách chắp vá, vì vậy rơi vào tình trạng hoặc chịu thua thiệt về giá hoặc khó định hướng được đầu tư. Hầu hết DNVVN Việt Nam chỉ biết dựa vào chi phí sản xuất và giá chào hàng của doanh nghiệp khác, dễ dàng đánh mất nhiều cơ hội kinh doanh quí báu. Sức cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp Việt Nam trên thương trường quốc tế rất non yếu.
Trên thực tế, các DNVVN nước ta chủ yếu gia công cho các tổ chức thương mại trong và ngoài nước, hoặc xuất khẩu uỷ thác qua các doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn. Do khoảng trống thông tin tồn tại giữa thị trường Việt Nam và thế giới bên ngoài, doanh nghiệp phải phụ thuộc sâu sắc vào các tổ chức trung gian, bị ép giá và phải chia sẻ một khoản đáng kể trong lợi nhuận thu được. Nhà xuất khẩu không hề biết hiệu quả của công việc như thế nào, một khi sản phẩm rời nhà máy doanh nghiệp không biết điều gì sẽ xảy ra với sản phẩm của mình.
Một khảo sát do “Chương trình phát triển dự án Mekong về DNVVN (MPDF)” tiến hành về các doanh nghiệp xuất khẩu khu vực tư nhân xét theo 'Thành công" và "Không thành công" cho thấy rằng, 'Thành công" của một doanh nghiệp phụ thuộc vào một số yếu tố, trong đó có: tiếp cận thị trường trực tiếp thay vì sử dụng các trung gian thương mại; lựa chọn sản phẩm có giá trị gia tăng cao thay vì các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp; xác định được mảng thị trường có nhu cầu lớn trong nước (thực phẩm, hàng tiêu dung cơ bản) hoặc một mảng thị trường có lợi tức cao trên thị trường xuất khẩu (hạt điều, cà phê, hải sản và hàng may mặc) - thay vì không biết về thị trường tiêu thụ cuối cùng hoặc về người tiêu thụ cuối cùng; có những bạn hàng lâu dài và xây dựng chiến lược thị trường đa dạng, ổn định thay vì quá tập trung vào một số thị trường nào đó. Đáng tiếc là, hiện nay rất đông DNVVN Việt Nam có đặc điểm sản xuất kinh doanh rơi vào trường hợp "Không thành công". Trong khi kim ngạch xuất khẩu của các DNVVN chiếm tới 29% kim ngạch của cả nền kinh tế thì vấn đề đã trở nên không còn đơn giản nữa.
Các cơ chế để doanh nghiệp có thể hợp tác thường xuyên với nhau còn thiếu trầm trọng ở Việt Nam, một phần là do nhận thức yếu kém về lợi ích mà hợp tác mang lại và một phần khác là do Nhà nước thiếu biện pháp khuyến khích, tạo điều kiện. Sản xuất của DNVVN riêng rẽ, manh mún khó có hiệu quả kinh tế theo qui mô. Chưa xác lập được vai trò thầu phụ với doanh nghiệp lớn, liên kết sản xuất phân đoạn giữa các DNVVN chưa có. Mối quan hệ “Vệ tinh- trung tâm” với các doanh nghiệp lớn chưa tồn tại ở Việt nam trong khi đây là chìa khoá cho thành công của nhiều DNVVN của nhiều nền kinh tế trên thế giới- điển hình là Nhật bản. Tình hình liên doanh đầu tư với tư nhân trong nước còn rất ít, chủ yếu là liên doanh giữa tư bản nước ngoài với Doanh nghiệp nhà nước qui mô lớn. Giữa các DNVVN cùng ngành chưa có hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau nên chưa tạo nên sức mạnh để mở rộng thị trường.
Cũng do mang nặng các tính chất của một nền sản xuất nhỏ, phân tán cho nên khi tham gia vào thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp Việt Nam rơi vào tình trạng cạnh tranh lẫn nhau trên thương trường, trong số đó, không ít là cạnh tranh không lành mạnh : " ta lại đánh ta", "doanh nghiệp này phá doanh nghiệp kia, địa phương này phá địa phương kia" 1(Trích câu nói của Thủ tướng Phan Văn Khải tại cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp trong hai ngày 18-19/3/2000 tại TP Hồ Chí Minh). Các đối tác nước ngoài đã nhanh chóng nhận ra đặc điểm này, và kết quả là giá xuất khẩu hàng Việt Nam đã do chính các doanh nghiệp Việt Nam hạ xuống đến mức thấp không thể chấp nhận được, cả doanh nghiệp lẫn nền kinh tế quốc dân phải gánh chịu những thiệt hại lớn.
Các hiệp hội kinh doanh, các cơ quan xúc tiến của Nhà nước chưa thực sự hỗ trợ cho doanh nghiệp. Mặc dù thời gian qua quan hệ Chính phủ - doanh nghiệp đã có những bước cải thiện đáng kể thể nhưng nhìn chung quan hệ này mới thông nhưng còn chưa thoáng, Chính phủ đã tiếp thu kiến nghị của DN song mới chỉ ở những giải pháp tình thế, chưa có tính cơ bản và triệt để và mang tính lâu dài và đặc biệt chưa xoá bỏ sự phân biệt DNNN và doanh nghiệp tư nhân-tiêu biều cho các DNVVN, làm cơ sở cho sự phát triển các DNVVN. Qua đó, các DNVVN chưa có khả năng tự thiết lập hệ thống thông tin thị trường, xây dựng các hoạt động xúc tiến thương mại, thêm vào đó cũng không gặp thuận lợi khi tiếp cận với các kênh thong tin, các hiệp hội xúc tiến xuất khẩu. DNVVN chưa được hưởng các chính sách ưu đãi công bằng như các doanh nghiệp Nhà nước qui mô lớn. Chẳng hạn việc phân bổ quota, việc sử dụng thông tin của bộ chủ quản… các DNNN mặc dù hoạt động kém hiệu quả song được hưởng nhiều ưu đãi hơn các doanh nghiệp tư nhân.
Phát triển mạnh DNVVN là một chiến lược trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt nam nhưng hiện tại ở Việt Nam DNVVN đang gặp rất nhiều khó khăn và tồn tại, chưa thể phát huy tiềm năng và những lợi thế kinh tế-xã hội to lớn của mình. Trong đó những hạn chế nổi bật là về vốn, công nghệ, nhân lực, thông tin, sản phẩm-thị trường.
Qua cuộc điều tra, các doanh nghiệp tiếp tục đề cập tới nhiều khó khăn đã được nhắc đến nhiều lần.
Cụ thể 66.95% doanh nghiệp cho biết thường gặp khó khăn về tài chính; 50.62% doanh nghiệp thường gặp khó khăn về mở rộng thị trường; 41.74% doanh nghiệp gặp khó khăn về đất đai và mặt bằng sản xuất; 25.22% doanh nghiệp gặp khó khăn về giảm chi phí sản xuất; 24.23% khó khăn về thiếu các ưu đãi về thuế; 19.47% khó khăn về thiếu thông tin; 17.56% doanh nghiệp khó khăn về đào tạo nguồn nhân lực...
Về khả năng tiếp cận các nguồn vốn của Nhà nước: chỉ có 32,38% số doanh nghiệp cho biết đã tiếp cận được các nguồn vốn của Nhà nước, chủ yếu là doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hoá; 35,24% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% số doanh nghiệp không tiếp cận được.
Trong khi đó, việc tiếp cận nguồn vốn khác cũng gặp khó khăn chỉ có 48,65% số doanh nghiệp khả năng tiếp cận, 30,43% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 20,92% số doanh nghiệp không tiếp cận được.
Bên cạnh đó, việc tham gia các chương trình xúc tiến thương mại của Nhà nước cũng rất khó khăn. Chỉ có 5,2% số doanh nghiệp đã được tham gia; 23,12% số doanh nghiệp khó được tham gia và 71,67% số doanh nghiệp không được tham gia.
Từ thực tế này, các chuyên gia thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng cần đẩy nhanh việc thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; đồng thời, Chính phủ cần sớm có Chương trình xúc tiến xuất khẩu dành riêng cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Qua cuộc điều tra, doanh nghiệp cũng bày tỏ nhu cầu về đào tạo trong rất nhiều lĩnh vực, trong đó có 33,64% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về tài chính, kế toán; 31,62% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về quản trị doanh nghiệp; 24,14% có nhu cầu đào tạo về phát triển thị trường; 20,17% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về lập kế hoạch, chiến lược kinh doanh; 12,89% có nhu cầu đào tạo về phát triển sản phẩm mới; 12,89% có nhu cầu đào tạo về kỹ năng đàm phán và ký kết hợp đồng kinh tế; 11,62% có nhu cầu đào tạo về quản lý nguồn nhân lực; 10,85% số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về ứng dung công nghệ thông tin trong doanh nghiệp...
Rõ ràng là các doanh nghiệp đã nhận thấy nhu cầu rất lớn về đào tạo nhưng chưa được đáp ứng. Đây là vấn đề mà các cơ quan chức năng cần tập trung hỗ trợ; đồng thời cũng là một thị trường đang cần rất nhiều dịch vụ đào đạo chất lượng cao, là cơ hội cho các đại học, các viện nghiên cứu...
Các chính sách hỗ trợ hiện nay
Cải cách thủ tục hành chính tạo điều kiện gia nhập thị trường
Nghị quyết số 38/CP của Chính phủ ngày 4/5/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức đã xác định ‘thành lập DN và đăng ký kinh doanh’ là một lĩnh vực ưu tiên cải cách. Đến năm 1998, một số cải cách đơn giản hóa thủ tục thành lập và đăng ký kinh doanh (ĐKKD) đã được thực hiện. KVKTTN, một khu vực còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác, đã được khuyến khích thêm một bước.
Luật DN (1999) đánh dấu một mốc quan trọng trong những nỗ lực của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho KVKTTN phát triển. Điều thay đổi cơ bản mang tính đột phá là xóa bỏ thủ tục xin phép thành lập DN kộo theo việc xúa bỏ hơn 150 giấy phép kinh doanh và đơn giản hóa tối đa thủ tục ĐKKD. Với thay đổi này Luật đó thể chế hóa và hiện thực hóa được quyền tự do kinh doanh bao gồm tự do lựa chọn loại hình DN, tự do thành lập DN, tự do tổ chức quản lý, tự do lựa chọn qui mô, địa bàn và ngành nghề trừ những ngành, nghề bị cấm theo qui định của pháp luật.
Thời gian phê duyệt hồ sơ ĐKKD được rút ngắn một cách đáng kể. Theo quy định của Luật DN là 15 ngày, nhưng nhiều địa phương chỉ thực hiện trong 3-7 ngày, thậm chí có nơi chỉ 1 ngày.
Luật DN (2005) tiếp tục củng cố thành quả và hoàn thiện thêm một bước Luật DN (1999) bằng việc xóa bỏ một cách cơ bản các phân biệt và khác biệt trong tổ chức quản lý giữa các DN, tạo lập một mặt bằng pháp lý bình đẳng cho các DN thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, bổ sung các qui định bảo vệ các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nhỏ, và, quan trọng hơn cả, là bổ sung các qui định về quản lý nhà nước đối với DN sau đăng ký kinh doanh.
3.1.1. Những thành công
Có thể nói rằng các chính sách về gia nhập thị trường, trong đó đặc biệt là khâu thành lập DN và ĐKKD, đã tạo ra bước đột phá cho sự phát triển của KVKTTN. Có thể nêu ra một số thành công của chính sách này như sau:
Thứ nhất, chính sách này đã tạo ra ‘một sân chơi’ bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với các loại hình DN, do vậy ngày càng có nhiều DN mới thành lập và hoạt động theo Luật DN. Việc xoá bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết và một loạt giấy phép con đó “mở rộng cửa” thị trường cho hoạt động kinh doanh của DN.
Thứ hai, chính sách này đã góp phần khơi dậy tinh thần kinh doanh của doanh nhân, góp phần huy động các nguồn lực trong nước nói chung và nguồn lực của KVKTTN nói riêng cho phát triển kinh tế.
Thứ ba, quyền tự do kinh doanh được thừa nhận và bảo đảm kết hợp với những thay đổi tích cực nói trên của hệ thống pháp luật về kinh doanh đã tạo điều kiện tích cực để DN hội nhập vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
Thứ tư, mức độ cạnh tranh, một nhân tố cơ bản không thể thiếu của nền kinh tế thị trường, đã và đang tăng lên đáng kể. Không những thế, thị trường sản phẩm, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường bất động sản cũng đang được thúc đẩy phát triển.
Cuối cùng, công cuộc cải cách hành chính và nâng cao năng lực bộ máy hành chính nhà nước được cải thiện một bước nhờ những thay đổi quan trọng nói trên.
3.1.2. Những khiếm khuyết và yếu kém
Mặc dù Luật DN thông thoáng và được thực hiện một cách tích cực ở nhiều địa phương, nhưng ở một số nơi việc thực thi Luật vẫn bị cản trở với những thủ tục phiền hà.
Một số địa phương đã có những yêu cầu vượt luật như: đối với ngành nghề không đòi hỏi quy định nhưng vẫn bắt phải chứng minh vốn khi ĐKKD; hay bắt phải chứng minh quyền sử dụng hợp pháp đối với trụ sở của DN ; đòi hỏi các loại chi phí ‘phụ’ phát sinh khi ĐKKD. Khắc dấu là một trong những khâu DN mất khá nhiều thời gian, công sức. Không ít DN đã phải thêm chi phí “bôi trơn” cho cơ sở khắc dấu để được lấy dấu sớm hơn quy định. Đăng ký mã số thuế là thủ tục tiếp theo mà DN phải làm, nhưng nhiều khi thời gian tiến hành đăng ký mã số thuế bị kéo dài đến cả tháng mới nhận được, trong khi quy định là 8 ngày làm việc, chỉ vì những lý do như : người có thẩm quyền ký đi công tác vắng, đường truyền mạng thông tin bị lỗi, người giữ hồ sơ đi vắng. Mua hóa đơn, một việc tưởng như dễ dàng, nhưng hoàn toàn không đơn giản.
Để hoàn thành các thủ tục từ ĐKKD, bố cáo thành lập DN, xin cấp mã số thuế, hóa đơn thuế, xin cấp mã số hải quan, xin con dấu,...đến khi mở xong tài khoản ngân hàng, trung bình 1 DN ở Hà Nội mất 63 ngày và chi hết 170 USD cho các loại phí Theo khảo sát của Hiệp hội Công thương Hà Nội năm 2003
.
Tất cả những thực tế nêu trên không chỉ làm việc ĐKKD trở nên khó khăn hơn, thời gian đăng ký kéo dài, nhà đầu tư bỏ ra nhiều chi phí hơn, mà quan trọng hơn cả, nó đã làm nản lòng không ít nhà đầu tư và làm giảm chất lượng môi trường kinh doanh ở Việt Nam.
Chính sách đất đai và quy hoạch
Luật Đất đai đã được ban hành và sửa đổi ba lần. Gần đây nhất, Luật Đất đai sửa đổi (2003) đã có nhiều cải tiến lớn, mang tính bước ngoặt so với hai văn bản luật trước đó. Ngoài ra, các quy định về ưu đãi, hỗ trợ đất đai và cơ sở hạ tầng còn được quy định nhiều trong Luật KKĐTTN (1998).
Tuy nhiên, trong điều kiện cơ chế kinh tế thị trường đang từng bước hoàn thiện, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, Luật chưa lường hết được sự phức tạp trong nhu cầu sử dụng, các giao dịch, quan hệ trong lĩnh vực đất đai. Chưa có quy định đủ rõ về các đối tượng được Nhà nước giao đất không phải trả tiền sử dụng đất, giao đất phải trả tiền sử dụng đất và cho thuê đất; chưa có quy định cụ thể về quyền của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất vào các mục đích không phải là nông nghiệp, lâm nghiệp; nhiều vấn đề lịch sử còn chưa được xử lý thì các vấn đề mới lại nảy sinh.
Luật KKĐTTN (1998) quy định trách nhiệm và một số hình thức hỗ trợ của Nhà nước cho nhà đầu tư như: công bố công khai quy hoạch sử dụng đất; xây dựng các khu công nghiệp (KCN) với quy mô vừa và nhỏ ở các địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; xây dựng các công trình hạ tầng ngoài hàng rào KCN, khu chế xuất. Nhưng những quy định này đã không được thực hiện nghiêm chỉnh ở một số địa phương.
Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 đã có nhiều cải tiến lớn, mang tính bước ngoặt so với quy định pháp luật về đất đai trước đó, khẳng định quyền sử dụng đất là một loại hàng hóa đặc biệt có thể được mua, bán trao đổi trên thị trường. Tiếp theo Chính phủ ban hành Nghị định số 181/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai (2003); Nghị định số 188/2004/NĐ-CP quy định khung giá đất, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nghị định số 198/2004/NĐ-CP về việc thu tiền sử dụng đất, Nghị định số 17/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 và Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 về sửa đổi, bổ sung Nghị định số 181/2004/NĐ-CP.
Luật kinh doanh bất động sản được soạn thảo và trình Quốc hội thông qua vào tháng 6/2006, và được hướng dẫn thi hành bởi Nghị định số 153/2007/NĐ-CP, ngày 15 tháng 10 năm 2007. Qua đó, đã thiết lập hành lang pháp lý và điều kiện để thị trường bất động sản (bao gồm cả quyền sử dụng đất) phát triển mạnh lành mạnh.
Về quy hoạch, Nghị định số 92/2006/NĐ-CP ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Chính phủ về quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội (được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định số 04/2008/NĐ-CP) là một bước tiến trong việc thể chế hóa quy định về quy hoạch. Luật Quy hoạch phát triển đô thị số 30/2009/QH12 là cơ sở rất quan trọng trong việc luật hóa các quy hoạch và tiến tới thống nhất các quy hoạch trong một tổng thể (mà trước hết sẽ phả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25690.doc