=
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 3
1. Khái niệm Thị trường tài chính 3
2. Cấu trúc Thị trường tài chính 4
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 6
1. Thị trường chứng khoán 6
2. Cơ cấu, mục tiêu, nguyên tắc hoạt động của Thị trường chứng khoán 8
3. Các đối tượng tham gia trên Thị trường chứng khoán 9
III. VAI TRÒ CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 11
1. Vai trò của Thị trường chứng khoán 11
2. Chức năng của Thị trường chứng khoán 13
IV. KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
14
1. Thị trường chứng khoán ở một số nước châu Âu 14
1.1. Thị trường chứng khoán Luân Đôn (Anh) 14
1.2. Thị trường chứng khoán Pari (Pháp) 16
1.3. Thị trường chứng khoán Franfurt (Đức) 17
1.4. Thị trường chứng khoán Italia 18
1.5. Thị trường chứng khoán Ba lan 20
2. Thị trường chứng khoán ở một số nước châu Mỹ 22
2.1. Thị trường chứng khoán Hoa Kỳ 22
2.2. Thị trường chứng khoán Canada 24
3. Thị trường chứng khoán ở một số nước châu Á 27
3.1. Thị trường chứng khoán Trung Quốc 27
3.2. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc 29
3.3. Thị trường chứng khoán Tokyo (Nhật Bản) 31
3.4. Thị trường chứng khoán Malayxia 33
3.5. Thị trường chứng khoán Indonesia 34
3.6. Thị trường chứng khoán Thái Lan 35
Chương II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
I. SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Ở VIỆT NAM
37
II. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
41
1. Những thuận lợi 41
2. Những khó khăn 44
III. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
46
1. Điều kiện về kinh tế tài chính 47
2. Điều kiện về hàng hoá cho Thị trường chứng khoán 49
3. Điều kiện về pháp lý 50
4. Điều kiện về kỹ thuật và tổ chức 52
IV. QUÁ TRÌNH CHUẨN BỊ CHO PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
54
1. Về khuôn khổ pháp lý 57
2. Về hàng hoá cho Thị trường chứng khoán 58
3. Về đào tạo nhân lực và quy định về đạo đức nghề nghiệp trong công ty chứng khoán
61
3.1. Về đào tạo nhân lực 61
3.2. Về quy định đạo đức nghề nghiệp trong công ty chứng khoán 63
4. Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật 66
Chương III: GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. GIẢI PHÁP VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ VÀ YẾU TỐ PHÁP LÝ 68
1. Cơ chế quản lý 68
2. Về yếu tố pháp lý 70
II. GIẢI PHÁP VỀ HÀNG HOÁ CHO THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 74
III. GIẢI PHÁP VỀ NGUỒN NHÂN LỰC 75
IV. GIẢI PHÁP VỀ CƠ SỞ HẠ TẦNG KỸ THUẬT 76
KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79
84 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1141 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện các điều kiện cần thiết để phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển một TTCK hoạt động có trật tự, kỷ cương.
3.5. TTCK Indonesia:
TTCK Indonesia thành lập năm 1952. Nhưng hoạt động của thị trường này đã bị đình chỉ từ những năm 60. Để phục hồi thị trường này, cuối năm 1967 Chính phủ đã thành lập cơ quan điều hành thị trường vốn, một tổ chức được giao nhiệm vụ quản lý TTCK.
Bộ tài chính Indonesia có trách nhiệm đề ra các chính sách điều chỉnh thị trường vốn. Sở điều hành thị trường vốn do Bộ tài chính thành lập để thực hiện các nhiệm vụ:
+ Đánh giá các công ty xin đăng ký và quản lý chúng sau khi đã đăng ký.
+ Quản lý TTCK.
+ Theo dõi các công ty đã đăng ký trong việc giao dịch CK.
ở TTCK Indonesia, tất cả các loại trái phiếu phát hành hiện nay ở SGDCK là trái phiếu trực tiếp. ở đây chưa có trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu bảo lãnh.
Từ năm 1987 Chính phủ Indonesia thực hiện hàng loạt các biện pháp cải cách, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng cuả TTCK nội địa như giảm bớt các yêu cầu đăng ký ban đầu và cải tiến các thủ tục phát hành mới. Trước đây các hãng xin đăng ký ở SGDCK phải có bình quân tỷ suất lợi nhuận ít nhất 10% trong hai năm cuối. Cải cách đã quy định chỉ cần có lợi nhuận là đủ, và thời gian từ khi xin giấy phép cho tới khi đăng ký cũng rút ngắn còn 30 ngày.
Các nhà đầu tư nước ngoài có quyền sở hữu tới 49% tổng số cổ phiếu được phát hành của một công ty Indonesia và 49% tổng số cổ phiếu đăng ký.
Do chương trình cải cách kinh tế của chính phủ ít hiệu quả và nhu cầu ngoại tệ của các doanh nghiệp tăng cao để thanh toán các khoản nợ nước ngoài, đã làm đồng Rupiah của Indonesia giảm giá trong thời gian gần đây.
3.6. TTCK ở Thái lan:
Năm 1962, SGDCK Băng Cốc được thành lập. Đến đầu những năm 70 SGD này bị đóng cửa. Năm 1974, Chính phủ Thái lan thành lập SGDCK Thái lan theo đạo luật về SGDCK Thái lan bắt đầu hoạt động từ 30/ 4/ 1975.
Các công ty CK muốn trở thành thành viên của SGDCK Thái lan phải được Bộ tài chính đồng ý. Theo luật của SGDCK Thái lan, các thành viên phải có khả năng về tài chính mạnh, có khả năng thực hiện các giao dịch CK và có kinh nghiệm trong công việc đó.
TTCK Thái lan chịu sự giám sát của một UBWD (Uỷ ban giám sát TTCK) do Bộ trưởng Bộ tài chính làm chủ tịch với các uỷ viên là các thống đốc Ngân hàng quốc gia, chánh văn phòng Bộ tài chính, Bộ thương mại và 4 - 6 chuyên gia luật pháp về tài chính - tiền tệ. Uỷ ban này có một tổng thư ký, uỷ ban sẽ giám hoạt động của TTCK thông qua việc ban hàng các luật lệ, đồng thời chỉ định 5 thành viên tham gia điều hành TTCK.
Các công ty muốn niêm yết CK ở các SGDCK Thái lan phải đăng ký những công ty công. Các công ty có thể tăng vốn của mình thông qua phát hành cổ phiếu mới hoặc các công cụ vay nợ khác.
Việc chào bán CK phải được chấp thuận của Uỷ ban CK và SGDCK (SEC); và chịu sự giám sát bởi “chế độ chấp thuận và điều hành”:
- Các công ty muốn chào bán CK phải gửi đơn xin phép phát hành.
- Đối với các công ty muốn chào bán cả cổ phiếu mới và các cổ phiếu hiện hành thì phải đệ đơn cho biết lý do xin phát hành ra công chúng đúng như yêu cầu của SEC. Nếu như SEC xem xét không có vấn đề gì trong vòng 45 ngày sau khi gửi đơn, các công ty có thể chào bán CK ra công chúng.
- Quảng cáo rất cần cho công tác phát hành.
- SEC có quyền cho phép miễn trừ những nguyên tắc cần thiết, chẳng hạn như yêu cầu đối với việc quảng cáo phát hành ở thị trường dành riêng cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc các nhà đầu tư không vượt quá 35 người hoặc miễn quảng cáo phát hành.
Trong năm 2000 Thái Lan sẽ mở thêm một TTCK thứ hai chuyên về các CK liên quan đến máy tính.
*
* *
Quá trình thực hiện chương I bản luận văn này, theo chỉ dẫn của Ts. Hoàng Hải, em đã tham khảo về TTCK ở: Mỹ La Tinh (đọc tại thư viện Trung tâm hợp tác nghiên cứu châu Mỹ), úc (đọc tại thư viện Trung tâm nghiên cứu Nam Thái Bình Dương) và châu Phi (đọc tại thư viện Trung tâm hợp tác nghiên cứu châu Phi)... Nhìn chung tư liệu về TTCK trên thế giới khá phong phú song khuôn khổ luận văn có hạn, về độ dày và tính chất chuyên sâu nên em chỉ lựa chọn TTCK ở một số nước để trình bày. Ngay đối với những TTCK được lựa chọn để nghiên cứu cũng chỉ đề cập đến một số khía cạnh. Mặc dù vậy, những gì đã nêu ở trên là một cố gắng để phục vụ cho việc so sánh, đề xuất vận dụng vào Việt Nam ở chương III.
Chương II
Thực trạng phát triển
thị trường chứng khoán ở việt nam
I. sự cần thiết phát triển TTCK ở việt nam:
Từ năm 1986, Đảng và nhà nước ta thực hiện chính sách đổi mới nhằm chuyển nền kinh tế từ hệ thống quản lý tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Công cuộc đổi mới đã kéo theo hàng loạt những biến đổi tích cực trong đất nước và đem lại một kết quả quan trọng bước đầu.
Nhờ đa dạng hoá các hình thức sở hữu và thiết lập một cơ chế kinh tế hỗn hợp bao gồm: Thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân. Trong nước đã hình thành thị trường vàng và ngoại tệ, nhà nước đã thi hành một loạt các chính sách về đầu tư nước ngoài đã đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, từng bước chuyển sang kinh tế thị trường.
Đặc biệt trong những năm gần đây, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân - diễn ra nhanh chóng. Cổ phần hoá một bộ phận khu vực Doanh nghiệp Nhà nước có liên quan mật thiết đến sở hữu công cộng thuộc phạm trù quan hệ sản xuất, yếu tố có tính động lực rất mạnh thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội và củng cố vai trò chủ đạo của khu vực Doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá sẽ là đòn bẩy thúc đẩy quá trình phát triển thị trường vốn, nhất là TTCK. Cổ phần hoá là khâu then chốt, mũi nhọn của công cuộc đổi mới. Việc cổ phần hoá phải tìm ra được những nguyên nhân thành công hay thất bại để rút ra được những kinh nghiệm cần thiết nhằm tiến tới xây dựng và hoàn thiện cơ chế thích hợp với điều kiện đất nước.
Bảng 2: Một số công ty cổ phần và cơ cấu vốn của nó:
TT
Tên công ty
Ngày
chuyển
hình thức
Vốn điều lệ
(Triệu đồng)
Cơ cấu vốn
Nhà nước
(%)
CBCNV (%)
Cổ
đông ngoài (%)
1
Cty cáp và vật liệu BCVT (TCTBCVT)
1.1.98
120.000
49
10
41
2
Cty bao bì Bỉm Sơn
(TCT Xi măng)
8.1.99
38.000
50
8
42
3
Cty cơ khí xăng dầu
(Bộ thương mại)
31.12.99
32.000
35
10
55
4
Cty Kinh doanh nhà Gia Định
(Tp HCM)
23.4.99
26.545
40
20
40
5
Cty điện cơ
(TCT Điện Lực)
31,12.98
25.000
40
70
10
6
CTCP bánh kẹo Biên Hoà
(Bộ NNPTNT)
1.11.98
25.000
10
60
30
7
CTCP quốc tế ASEAN
(HN)
30.12.98
20.000
5,46
10,91
83,63
8
CTCP Bình Minh
(TCTmay)
7.12.98
18.000
25
45
30
9
CTCP đồ hộp Hạ Long
(Bộ thuỷ sản)
30.12.98
18.000
40,8
18
41,2
10
CTCP in và bao bì Mỹ Châu
(Bộ NNPTNT)
10.12.98
17.000
45
20
35
11
CTCP Thành Công
(thuộc CTXD số 3 HN)
1.7.98
15.059
37,95
62,05
0
12
CTCP bê tông Biên Hoà
(Bộ Xây dựng)
20.11.98
15.000
70
20
10
13
CTCP thương mại Thốt Nốt
(Cần Thơ)
1.7.98
15.312
49
21
30
14
CTCP gạch ngói Long Bình (TpHCM)
28.12.98
15.000
35,83
10
51,17
15
CTCP Văn hoá Tân Bình (TpHCM)
1.7.98
14.625
40
50
10
16
CTCP Hữu Nghị
(Nghệ An)
30.12.98
14.500
58
19
23
17
Cty xuất nhập khẩu
Nam Hà Nội.
25.5.98
12.800
57
43
0
18
Cty Kỹ nghệ lạnh
(Bộ thuỷ sản)
9.4.99
12.000
20
50
30
19
CTCP xe khách
(Nghệ An)
1.1.99
10.292
50
45
5
20
Cty XNK Tân Định
(tpHCM)
30.1.99
10.000
25
35
40
Nguồn: Tạp chí Tài chính số 1+8/99 (Tư liệu chương trình nghiên cứu doanh nghiệp do CVSC quản lý)
Đối với Việt Nam, phát triển TTCK sẽ tạo ra một số thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội... Vì TTCK có một số ưu điểm phù hợp với điều kiện Việt Nam.
TTCK là công cụ khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết kiệm vào công cuộc đầu tư. Một trong những phương pháp đầu tư phát triển của bất kỳ một doanh nghiệp nào gọi là vốn từ bên ngoài được thực hiện qua việc phát hành cổ phiếu hoặc vay tín dụng trung và dài hạn - phương pháp này thực hiện khi dân chúng có tiền tiết kiệm.
Hiện tại các Ngân hàng thương mại, kho bạc Nhà nước đã thực hiện huy động tiết kiệm trong dân chúng, tức là đã có mục đích tiết kiệm, nhưng tiết kiệm ở đây chưa gắn với đầu tư, chưa tạo nên nguồn vốn dài cho đầu tư phát triển. TTCK phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các cơ sở tài chính, tín dụng huy động dài hạn nguồn vốn tiết kiệm và để dành trong dân chúng vào quá trình đầu tư. Vì TTCK, một định chế giải quyết được các ưu điểm của các tổ chức tài chính, tín dụng. Người có CK khi cần tiền có thể đưa CK ra thị trường bán lại.
TTCK giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển xã hội. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải có ngân sách để thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã hội. Để có vốn cho chi tiêu, Nhà nước phải áp dụng thu thuế, thu thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo ra vốn cho ngân sách. Nhưng thông thường nguồn thu về thuế không đủ chi tiêu. Do đó phải có một nguồn thu khác là kỳ phiếu - một hình thức Nhà nước vay tiền của dân chúng đã trở nên thông dụng và là một nguồn thu thường xuyên. Nhà nước vay tiền của dân thông qua phát hành kỳ phiếu tại TTCK. Sự phát triển TTCK sẽ giúp Nhà nước bán kỳ phiếu một cách dễ dàng. Vì kỳ phiếu của Nhà nước cũng là một loại CK chuyển nhượng được, khi cần tiền chủ sở hữu có thể đưa kỳ phiếu ra bán tại TTCK.
TTCK là công cụ giảm áp lực lạm phát. Ngân hàng Nhà nước với vai trò điều hoà lưu thông tiền tệ, khi xuất hiện hiện tượng lạm phát. Ngân hàng sẽ đưa ra bán các loại kỳ phiếu trên TTCK với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về. Với chính sách khuyến khích bằng lãi suất và đảm bảo chi trả dân chúng sẽ sẵn sàng mua kỳ phiếu Ngân hàng và từ đó giảm áp lực lạm phát.
TTCK tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Đầu tư vốn vào đâu để không bị mất vốn và có lợi cao nhất là vấn đề các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm. Chính TTCK sẽ là nơi các nhà đầu tư nước ngoài theo dõi và nhận định hoạt động của các ngành, các doanh nghiệp trong nước. TTCK còn tạo ra môi trường thích hợp để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư một cách dễ dàng. Họ chỉ cần bỏ vốn vào TTCK để mua cổ phiếu, hoặc hợp tác với các doanh nghiệp trong nước thành lập công ty cổ phần, rồi đem bán cổ phần trên TTCK.
TTCK tự động hoá mọi nguồn vốn trong nước. Các cổ phiếu, trái phiếu, kỳ phiếu tượng trưng cho một số vốn được mua đi bán lại trên TTCK như một hàng hoá. Người có vốn không sợ vốn của mình bị bất động vì khi cần họ sẽ bán lại các cổ phiếu, trái phiếu này để thu tiền về chi tiêu hoặc đầu tư vào loại cổ phiếu, trái phiếu khác. Một khi đầu tư vào CK dễ dàng và có lợi đối với mọi tầng lớp dân chúng thì các món tiền tiết kiệm lớn nhỏ đều sẵn sàng từ bỏ lĩnh vực bất động hoá để tham gia vào quá trình đầu tư.
TTCK thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng hơn. Nhờ TTCK, các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các cổ phiếu, trái phiếu của họ. Ban quản lý TTCK chỉ chấp nhận những cổ phiếu, trái phiếu của các công ty đủ điều kiện: Số vốn điều lệ của Công ty là trên 10 tỷ đồng; Công ty có bảng cân đối tài sản chính xác; Hoạt động kinh doanh có lãi 2 năm liên tục gần nhất tính đến ngày lập hồ sơ xin phép phát hành; Có phương án khả thi về sử dụng nguồn vốn thu được từ cổ phần hoá. Với sự tự do lựa chọn của người mua cổ phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác hơn là những nhà quản lý các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàng hơn và có hiệu quả kinh tế. Hơn nữa luật lệ của TTCK bắt buộc các doanh nghiệp tham gia TTCK phải công bố công khai các báo cân đối tài chính. Kết quả kinh doanh hàng quý, hàng năm trước dân chúng. Qua đó dân chúng có cơ hội nhận đinh, đánh giá được công ty. Việc mua bán cổ phiếu của công ty một cách tự do khiến người có cổ phiếu trở thành sở hữu chủ công ty, họ có thể kiểm soát công ty một cách dễ dàng qua các cơ quan quản lý công ty và nhận biết khả năng hoạt động của công ty qua sự chấp nhận của TTCK. Từ đó thúc đẩy công ty làm ăn đàng hoàng hơn tốt hơn.
II. Những thuận lợi, khó khăn trong việc phát triển TTCK ở VIệT NAM:
1.Những thuận lợi:
Sự chuyển biến kinh tế ở của nước ta được đánh dấu bằng sự thay đổi căn bản vào năm 1986 trong đường lối của chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cuộc cải cách đó đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên một thị trường CK phát triển ở Việt Nam. Điều quan trọng là nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực cho công cuộc phát triển đất nước. Những thành tựu kinh tế đáng khích lệ trong mấy năm qua khá khả quan, lạm phát được giảm xuống còn 17.2% năm 1992 và 5.2% năm 1993 ổn định kinh tế đi đôi với tăng trưởng, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, những điều này cho thấy ý tưởng phát triển TTCK ở Việt Nam là khả thi. Trong lĩnh vực phân phối lưu thông một thị trường hàng hoá thống nhất trong phạm vi cả nước đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chính sách một giá với nới lỏng kiểm soát hối đoái đã tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các miền trong cả nước, lãi suất tín đụng và tiết kiệm đã được ấn định trên cở sở tương quan cung cầu về vốn trên thị trường và có tác dụng chống lạm phát. Quy luật cung cầu và quy luật giá trị được phát huy tác dụng vốn có của nó. Tiến trình cải cách đã cho ra đời hàng loạt các tổ chức kinh tế tài chính tín dụng, nhân hàng cổ phần bên cạnh hệ thống ngân hàng quốc doanh ngày càng hoàn thiện cùng với sự có mặt của các ngân hàng liên doanh. Yếu tố này hết sức quan trọng trong việc phát triển TTCK ở Việt Nam.
Trong quá trình phát triển TTCK ở Việt Nam, chúng ta có một số thuận lợi cơ bản sau:
- Chúng ta có hệ thống chính trị ổn định sau nhiều năm đổi mới, Việt Nam đã thu hút được những thành quả hết sức phấn khởi. Thu nhập và mức sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt,uy tín của Đảng cộng sản Việt Nam, người chỉ huy mọi thắng lợi ngày càng được củng cố, nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng vững tin hơn.
- Nền kinh tế nước ta đang phát triển với tốc độ cao bình quân 8-9% năm trong nhiều năm qua, theo dự báo mới nhất của ADB thì khả năng tăng trưởng kinh tế trong vài năm tới sẽ cao nhất ASEAN. Đây là tiền đề quan trọng để nẩy sinh ra nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đủ điều kiện để phát hành CK, tạo ra sức thu hút mạnh mẽ của TTCK.
- Nền kinh tế ổn định, lạm phát được khống chế. Lạm phát được kiểm soát ngày càng chặt chẽ từ hai con số đến một con số vào những năm gần đây. Đó là môi trường vĩ mô hết sức thuận lợi để phát triển TTCK.
- Đảng và chính phủ đã có tầm nhìn đúng đắn và quan tâm, thoả đáng về TTCK. Ngày 28-11-1996 Uỷ ban CK Nhà nước, đứa con của nền kinh tế thị trường Việt Nam đã được thành lập với quyết định 75/CP của Thủ tướng Chính phủ. Đây là hạt nhân quan trọng, cơ bản trong quá trình phát triển TTCK ở Việt Nam.
- Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất và thị trường vốn thu đó mà phát triển và là tiền đề cho TTCK.
- Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, cơ quan bảo hiểm và một số quỹ - như hệ thống ngân hàng cổ phần (hiện có 52 ngân hàng cổ phần, trong đó có 31 ngân hàng thành thị và 21 ngân hàng nông thôn), hợp tác xã tín dụng, hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, và sự có mặt của ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, tổ chức tín dụng đã làm cho hiệu quả kinh doanh trong khu vực này ngày càng cao, lãi suất cho vay ngày một giảm. Đây là chủ nhân và điều kiện quan trọng trong sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề quan trọng để phát triển TTCK nước ta.
-Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Quốc hội đề ra tăng GDP bình quân đầu người lên 2 lần vào thời kì 1990-2000, vốn đầu tư xã hội cho thời kỳ 1996-2000 là trên 42 tỷ USD. Đây là khối lượng vốn rất lớn và mâu thuẫn gay gắt với khả năng cung ứng. Đó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hình thành và phát triển TTCK nước ta.
-Nước ta có số lượng hàng hoá, công trái Chính phủ, tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu và cổ phiếu công ty. Đây là những tiền đề, những dấu hiệu đầu tiên quan trọng cho sự phát triển các công cụ tài chính thuộc TTCK.
-Đảng và chính phủ có quyết tâm rất cao trong việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện chính sách cổ phần hoá nói chung. Từ nghị quyết hội nghị TW II, ban chấp hành TW khoáVII; nghị quyết đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII; nghị quyết X của bộ chính trị; nghị quyết đại hội VIII của Đảng, nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khoá IX đều đã khẳng định điều đó Chính phủ cũng đã thành lập ban cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
-Chúng ta có nhiều bộ luật và chúng ngày càng được bổ sung hoàn thiện như: Luật dân sự, Luật công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật đầu tư nước ngoài, Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật ngân sách, Luật thương mại, Luật giải thể doanh nghiệp và hàng loạt các văn bản dưới luật như: Pháp lệnh kế toán thống kê, Pháp lệnh ngân hàng Đây là điều kiện, môi trường pháp lý quan trọng cho phát triển TTCK.
- Hệ thống thông tin cũng đang phát triển khá tốt. Hệ thống tin học cũng phát triển khá nhanh, hệ thống kiểm toán kể cả kiểm toán nhà nước và phi nhà nước, kiểm toán nước ngoài đã được hình thành và ngày càng phát triển. Đây cũng là đầu mối quan trọng để phát triển TTCK.
- Nước ta là nước phát triển sau nên có thể tận dụng được các kinh nghiệm của các nước đi trước.
- Con người Việt Nam sẵn sàng chấp nhận rủi ro, dám mạo hiểm, có đức tính cần cù, tiết kiệm và có ý chí làm giàu; chịu khó, thông minh, nhanh nhậy, ham học hỏi. Từ đó có thể xây dựng và đào tạo được đội ngũ cán bộ tốt, có đủ khả năng để hoạt động hữu hiệu.
- Người dân không còn tiết kiệm chủ yếu bằng vàng nữa( vì giá cả không ổn định) mà dùng tiền mặt để gửi tiết kiệm, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc, hay tham gia mua cổ phần.
- Nước ta là nước mới phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Nhờ chính sách sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, kinh tế đối ngoại đang thu được những thành quả rất đáng phấn khởi và là nhân tố cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của TTCK.
2. Những khó khăn:
Với nước ta nền kinh tế chưa thật ổn định, mặc dù trong những năm qua chúng ta đã gặt hái được một số thành công nhưng hiệu quả của nó còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn thấp. Do vậy, việc phát triển TTCK ở Việt Nam còn gặp một số khó khăn sau:
- Hàng hoá của TTCK Việt Nam hiện đang rất nghèo nàn cả về số lượng và chủng loại, CK thường là ký danh, tính thanh khoản kém.
- Công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, tuy nhà nước có quyết tâm cao nhưng thực tiễn lại bị ách tắc do nhận thức chưa đầy đủ về nó. Một cản trở khác rất quan trọng là: Mặc dầu việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước rất hợp ý của Đảng, vừa lòng dân, nhưng lại không vừa lòng ban lãnh đạo hiện tại và một bộ phận người lao động kém hiệu quả của doanh nghiệp .
- Số công ty hội đủ các điều kiện để phát hành CK chưa nhiều. Như làm ăn có hiệu quả, ổn định, chấp nhận phát hành CK ra công chúng rộng rãi, chấp nhận công khai hoá thông tin. Và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, Công ty Việt Nam trên thị trường quốc tế chưa cao.
- Hệ thống luật pháp của ta còn thiếu, chưa đồng bộ và đang trong quá trình phát triển và hoàn thiện dần. Bộ luật cho TTCK chưa có. Chưa có khung pháp lý và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ người đầu tư.
- Việc thực thi luật pháp ở nước ta nhiều khi không nghiêm chỉnh, và việc xử lý các hành vi, vi phạm chưa nghiêm minh, việc vận dụng pháp luật cũng hết sức tuỳ tiện. Ví dụ: Chúng ta đã có pháp lệnh kế toán và thống kê, nhưng trong thực tế không ít doanh nghiệp có đến 2-3 quyết toán, không báo cáo thống kê, hoặc báo cáo láo, sai thực tế.
- Hệ thống kiểm toán Việt Nam tuy đã được hình thành và tiến bộ, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của TTCK kể cả về số lượng và chất lượng nếu nó được mở ra.
- Hệ thống kế toán thống kê tuy đã có những cải tiến, tiến bộ nhưng nhìn chung còn chắp vá, chưa xây dựng được thành một hệ thống chuẩn mực quốc gia, phù hợp với thông lệ quốc tế. Chất lượng thông tin chưa cao, độ tin cậy còn thấp. Bên cạnh đó hệ thống thông tin đại chúng, báo chí đôi khi vì một lý do nào đó (có cả thiếu cẩn thận) đã đưa thông tin sai sự thật hoặc thiếu chính xác.
- Thu nhập của đại bộ phận nhân dân lao động thấp, nước ta là một trong những nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới bởi vậy khi cổ phần hoá doanh nghiệp ít người có tiền để mua cổ phiếu. Một số bộ phận, một số vùng có tập quán ăn tiêu xa hoa. Nhân dân vẫn chưa quen với CK, chưa hiểu luật chơi. Tình trạng lãng phí của công, tham ô, hối lộ, chiếm đoạt tài sản XHCN chưa được đẩy lùi.
- Tập quán thanh toán bằng tiền mặt vẫn phổ biến trong dân chúng và ngay đối với các doanh nghiệp. Hệ thống thanh toán qua ngân hàng còn yếu. Sự đổ vỡ của một số ngân hàng, quỹ tín dụng, tiết kiệm, làm mất lòng tin của nhân dân.
- Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành TTCK còn non trẻ, thiếu cả về số lượng và chất lượng, kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ, chưa được huấn luyện nhiều. Những thách thức lớn lao vẫn ở trước họ.
- Yếu tố khác là niềm tin của nhà đầu tư. Niềm tin dó cần được tạo dựng, duy trì và phát triển bằng hàng loạt biện pháp. Cứ đổ vỡ như quỹ tín dụng, ngân hàng cổ phần trong thời gian qua thì niềm tin đó còn rất nhiều công sức mới khôi phục được. Đây là thách thức đáng kể đối với công tác xây dựng, phát triển TTCK nước ta.
III. Những điều kiện cần thiết để phát triển TTCK
ở Việt Nam:
Bất kỳ một thị trường nào không phải muốn có nó là có được ngay mà phải xác định và tạo ra những điều kiện cho sự ra đời và phát triển của nó. ở đây ta xem xét đến vấn đề: Điều kiện để TTCK phát triển ở Việt Nam là gì ?
Thói quen bao giờ cũng hình thành thông qua một quá trình. Quá trình đó ngắn hay dài, phần lớn phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội cùng với trình độ nhận thức của các bên tham gia thị trường. Thị trường chỉ ra đời và phát triển khi nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó đã trở thành thúc bách đối với nhiều người mua tiềm tàng trong xã hội, còn người bán thì đã nắm bắt được tín hiệu đó và đã có những “lô” hàng hoá sẵn sàng bán thăm dò.
Đối với TTCK Việt Nam ở một đất nước mà tư tưởng tiểu nông sản xuất nhỏ và ăn chắc đã từng ngự trị trong suốt chiều dài lịch sử. Việc mọi người bỏ tiền ra mua những chứng chỉ có giá, dù với hy vọng sau một thời gian sẽ thu được lợi nhuận hay lãi suất so với số tiền bỏ ra hôm nay không phải là vấn đề hấp dẫn ngay trong nay mai. Họ chỉ quan tâm tới những tấm gương giàu lên chỉ vì tham gia thị trường này là bao nhiêu so với những người gặp rủi ro chỉ vì dám đặt chân vào “vùng kinh tế” lạ lùng ấy.
Vì vậy, phát triển TTCK Việt Nam cần có các điều kiện:
1. Điều kiện về kinh tế tài chính:
Đây là nền tảng đảm bảo cho khả năng có các CK được đưa ra mua bán trên thị trường. Nó được quyết định bởi các chính sách kinh tế và các định chế kinh tế tài chính của Nhà nước.
Hiến pháp 1992, chúng ta đã xác định chế độ kinh tế của nhà nước là: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, tư nhân.”
Trên thực tế nước ta hiện nay có hàng chục nghìn doanh nghiệp quốc doanh đang hoạt động theo chế độ tự chủ là chính, có khoảng 700 doanh nghiệp đã được cổ phần hoá(kể cả những doanh nghiệp cổ phần hoá theo luật công ty) và rất nhiều doanh nghiệp tư bản tư nhân, Nhà nước. Trong đó có nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá có khả năng và được phép phát hành CK, tạo hàng hoá cho TTCK.
Về tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô. TTCK với tư cách là vốn dài hạn có thể phát triển trên cơ sở một nền kinh tế phát triển cao, hệ thống tiền tệ, tỷ giá ổn định và hệ thống các thị trường vốn ngắn hạn đã được thiết lập, hoạt động trôi chảy và có hiệu quả. Bởi vậy, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, khống chế lạm phát ở mức một con số, ổn định tỷ giá và triển khai hệ thống thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái là bước đi đầu tiên nhưng rất quan trọng trong việc phát triển TTCK Việt Nam. Hệ thống thị trường vốn ngắn hạn, đặc biệt là thị trường tín phiếu kho bạc là cơ sở để hình thành lãi suất ngắn hạn của thị trường. Lãi suất này là tiêu chuẩn cho lãi suất dài hạn đối với các loại trái phiếu cũng như giá cổ phiếu trên thị trường CK. Mặt khác phát triển thị trường vốn ngắn hạn sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho Chính phủ thực hiện và điều hành chính sách tiền tệ có hiệu quả, qua đó ổn định kinh tế và duy trì mức tăng trưởng cao.
Chính sự tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô là một trong những điều kiện cần thiết để phát triển TTCK. Mấy năm qua,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6717.doc