LỜI MỞ ĐẦU 1.
CHƯƠNG 1. Tìm hiểu nội dung, vai trò của lãi suất và chính sách lãi suất đối với nền kinh tế. 3.
1. Những vấn đề cơ bản về lãi suất. 4.
1.1. Lãi suất là gì. 4.
1.2. Phân loại lãi suất. 4.
1.2.1. Căn cứ vào mối quan hệ với lạm phát. 4.
1.2.2. Căn cứ vào nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. 5.
1.2.3. Căn cứ vào mức độ chỉ đạo đối với thị trường. 5.
1.2.4. Căn cứ vào phạm vi quốc gia và quốc tế. 6.
1.3. Các nhân tố tác động tới lãi suất. 7.
1.3.1. Mối quan hệ giữa lãi suất và cung cầu quỹ cho vay. 7.
1.3.2. Các nhân tố tác động tới lãi suất. 10.
1.4. Vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế. 16.
1.4.1. Vai trò của lãi suất đối với các nền kinh tế nói chung. 16.
1.4.2. Vai trò của lãi suất đối với từng nền tài chính nói riêng. 20.
2. Chính sách lãi suất. 26.
2.1. Chính sách lãi suất là gì. 26.
2.2. Các công cụ thực hiện chính sách lãi suất. 27.
2.2.1. Chính sách dự trữ bắt buộc. 28.
2.2.2. Chính sách tái chiết khấu. 29.
2.2.3.Nghiệp vụ thị trường mở. 30.
2.3. Xây dựng chính sách lãi suất hiệu quả. 32.
CHƯƠNG 2. Quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất VN từ khi cải
cách kinh tế cho tới nay 35.
1. Diễn biến quá trình chuyển đổi chính sách lãi suất của Việt Nam . 36.
1.1. Giai đoạn 1986-1988. 36.
1.2. Giai đoạn 1989-1991. 38.
32 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 888 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách lãi suất tiến tới hội nhập kinh tế của ngân hàng trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lãi suất.
Bắt đầu từ những năm 90 Việt Nam đã đổi mới toàn diện khu vực ngân hàng. Nội dung và mục tiêu quan trọng trong chương trình cải cách ở khu vực ngân hàng theo định hướng thị trường đối với Việt Nam gồm 2 mục tiêu chính đó là: cải cách NHNN về công cụ chính sách, mô hình tổ chức nhằm nâng cao điều hành chính sách tiền tệ và kiểm soát thị trường tài chính trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển và hội nhập quốc tế; cơ cấu lại hệ thống NHTM (quốc doanh và cổ phần) nhằm đảm bảo tính an toàn lành mạnh và hiệu quả trong hoat động.
Thứ nhất, cải cách NHNN và chính sách tiền tệ. Từ năm 1990 đến nay, NHNN đã từng bước đưa ra các công cụ gián tiếp thay thế dần các công cụ trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ, vai trò quản lí nhà nước được tăng cường nhưng NHNN vẫn còn gián tiếp hoặc trực tiếp can thiệp vào công việc kinh doanh của các NHTM như chỉ đạo cho vay, khống chế lãi suất hoạt động... Như vậy, xét trên phương diện điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian qua, Việt Nam đã đặt mục tiêu trung gian bao gồm cả mục tiêu lãi suất và mục tiêu cung tiền. Trong điều kiện hiện nay cũng như trong tương lai, NHNN không thể duy trì khống chế lãi (mục tiêu lãi suất) đồng thời với mục tiêu cung tiền (MS) bởi sự mâu thuẫn giữa hai mục tiêu này như đã phân tích ở chương II. Do vậy, việc chuyển đổi cơ chế lãi suất sang lãi suất thị trường tức là không theo đuổi mục tiêu lãi suất là hợp lí.
Thứ hai là chương trình cải cách NHTM gắn với cải cách doanh nghiệp theo định hướng thị trường. Cải cách lãi suất cùng với cải cách quan hệ tín dụng giữa NHTM và DN là cần thiết nhằm đảm bảo tính hiệu quả của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế mà thị trường chứng khoán chưa phát triển (đặc biệt là các nước đang chuyển đổi như Việt Nam), NHTM và các DN có quan hệ mật thiết, đặc biệt là quan hệ tín dụng. NHTM là người cung ứng vốn theo cách thức và điều kiện nhất định (ví dụ như đánh giá tình hình hoạt động của DN, tính khả thi của dự án), các DN là người sử dụng vốn tín dụng và là người tạo ra của cải vật chất thực sự cho nền kinh tế. Khi các NH không duy trì được sự độc lập trong việc ra các quyết định cho vay hay trong điều kiện thiếu thông tin thì sự phân bổ tín dụng trong một nền kinh tế sẽ không hiệu quả và danh mục tín dụng của các NHTM sẽ chứa đựng nhiều rủi ro. Tại Việt Nam, chương trình cải cách ngân hàng và DN cũng chứa đựng nội dung cải cách quan hệ tín dụng, bao gồm điều kiện tín dụng, chế độ lãi suất theo định hướng thị trường.
* Về điều kiện tín dụng: từ trước tới nay, các NHTMQD dường như chỉ cấp tín dụng cho các DNNN- nơi mà đằng sau là sự bảo lãnh ngầm của chính phủ. Bản thân các NHTM vẫn chưa đủ năng lực hay tỏ ra chưa chủ động trong kinh doanh, chưa phát huy cao độ tính độc lập, tự quyết trong cho vay như hạn mức cho vay, lãi suất cho vay trên cơ sở phân tích đánh giá các DN hay các dự án. Các hình thức hỗ trợ, bao cấp cho các DNNN qua tín dụng ngân hàng (như cho vay chỉ định, giảm lãi suất, điều kiện tín dụng dễ dàng) vẫn tồn tại trong các NHTM. Điều đó cũng có nghĩa là quan hệ tín dụng giữa các NH và DN chưa thực sự là quan hệ tín dụng thương mại. Thực hiện cải cách quan hệ tín dụng trong thời gian tới cần phải tiến tới bình đẳng giữa các NHTM trong việc cấp tín dụng cho các DN, không phân biệt nghành nghề, loại hình DN
* Về chế độ lãi suất: Chế độ lãi suất theo hướng thị trường sẽ tăng cường khả năng hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả nguồn vốn xã hội. Trong những năm qua, các NHTMQD đóng một vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ cho các thành phần kinh tế nhà nước. Sự hỗ trợ này là cần thiết để đảm bảo một số lĩnh vực kinh tế cần được khuyến khích do các DNNN thực hiện. Tuy nhiên, trong khi các DNNN đang được cải cách theo hướng thị trường và thực hiện hạch toán kinh tế thực sự hơn nữa thì sự bao cấp thông qua hình thức tín dụng ngân hàng sẽ dẫn đến bóp méo kết quả kinh doanh của các DN. Thực tế cho thấy trong những năm qua, có rất nhiều DNNN Việt Nam đang làm ăn thua lỗ nhưng lại là nơi nhận được phần lớn vốn tín dụng ngân hàng với lãi suất ưu đãi hoặc các điều kiện ưu đãi khác như không phải thế chấp.
Rõ ràng, quan hệ tín dụng giữa NH và DN được chuyển đổi theo hướng thị trường cũng đòi hỏi cơ chế lãi suất theo hướng thị trường. Các NHTM với chức năng của nó là huy động vốn từ các thành phần kinh tế và thực hiện cho vay trên cơ sở phân tích, đánh giá doanh nghiệp. Các DN hoạt động trong điều kiện nhất định( lĩnh vực, môi trường, độ rủi ro ) và do đó họ sẵn sàng chấp nhận vay vốn với những mức lãi suất nhất định. Trong khi đó, NHTM cũng có trong tay hoặc có khả năng huy động một lượng vốn với những chi phí nhất định và do đó, tại các điều kiện rủi ro nhất định, họ cũng sẵn sàng cho các DN vay với mức lãi suất nhất định để có lãi và đủ bù đắp chi phí và các rủi ro khác.
2.1.3. Hội nhập quốc tế và yêu cầu cải cách mạnh mẽ về lãi suất.
Trước những cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế đối với hệ thống tài chính Việt Nam thì việc chuyển đổi lãi suất sang cơ chế lãi suất thị trường là một đòi hỏi tất yếu. Những hạn chế về chu chuyển vốn quốc tế đang ngày một thu hẹp. Sự chêch lệch quá lớn về lãi suất trong nước (do áp dụng hạn chế hoặc kiểm soát lãi suất) sẽ dẫn đến sự chu chuyển không hiệu quả các nguồn lực tài chính. Việc khống chế lãi suất nội tệ ở mức cố định trong khi lãi suất ngoại tệ lại biến động theo lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế sẽ dẫn đến hiện tượng điều chỉnh danh mục tài sản trong công chúng do hiệu ứng thu nhập. Giả sử lãi suất ngoại tệ tăng lên do diễn biến kinh tế trong nước và quốc tế sẽ dẫn đến sự “chạy trốn” khỏi đồng nội tệ để tìm đến đồng ngoại tệ. Hơn nữa, trong nền kinh tế hội nhập, lãi suất và tỷ giá hối đoái có sự liên hệ với nhau. Sự thay đổi lãi suất trong nước làm cho các tài sản được định giá bằng đồng bản tệ trở nên hấp dẫn hơn so với các tài sản được định giá bằng đồng tiền của các nước khác. Điều này làm thay đổi mức cầu về tài sản và dẫn đến việc tăng chu chuyển vốn vào nước này từ các nước khác. Sự thay đổi này sẽ làm tăng giá đồng bản tệ. Trên thực tế, một yếu tố quan trọng nhất quyết định các thay đổi tỷ giá hối đoái ngắn hạn là thay đổi chênh lệch lãi suất thực tế giữa các nước. Ví dụ như ở Mĩ, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tăng lên 1% lãi suất dài hạn (10 năm) trong điều kiện không có sự thay đổi lãi suất nước ngoài sẽ đưa đến 10% sự tăng lên của tỷ giá hối đoái thực. Sau khi đồng USD tăng giá lên sẽ có kỳ vọng đông USD giảm giá khoảng 1% trong vòng 10 năm tiếp theo. Kết quả của sự tăng giá đồng USD và kỳ vọng giảm giá ngược trở lại là khái niệm được gọi là cân bằng lãi suất quốc tế. Như vậy, mức lợi tức của việc nắm giữ tài sản của Mĩ và của nước ngoài bằng các đồng bản tệ tương ứng được cân bằng, xóa bỏ sự thay đổi mức cầu tài sản hay chu chuyển vốn. Điều đó có nghĩa là mức lợi tức cao hơn của tài sản Mĩ
(tính bằng USD) được bù trừ bởi sự giảm giá kỳ vọng giá trị của tài sản được tính bằng đồng tiền nước ngoài. Đây là cơ chế làm cho các mức lợi tức được cân bằng giữa các quốc gia thông qua chu chuyển vốn quốc tế. Thực tế cho thấy, sự thay đổi của tỷ giá hối đoái do thay đổi của lãi suất ở Mĩ (tương quan với lãi suất nước ngoài) ngày càng tăng lên. Điều này có thể thể hiện việc xóa bỏ các hạn chế kiểm soát vốn của nhiều nước công nghiệp lớn trong những năm 70 và đầu những năm 80 thế kỷ 20 đã góp phần vào sự tăng lên mạnh của chu chuyển vốn quốc tế. Như vậy, sự hợp nhất tăng lên của các thị trường tài chính giữa các quốc gia đã có một tác động quan trọng hơn đến việc làm tăng mức độ nhạy cảm của tỷ giá hối đoái đối với các thay đổi lãi suất so với việc nó liên kết trực tiếp với lãi suất của quốc gia. Do vậy, hội nhập vào nền tài chính quốc tế, chính sách lãi suất của Việt Nam cần được cải cách theo cơ chế thị trường, phù hợp với các nước khác bởi nếu không được điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu thị trường thì bất kì sự biến động nào của lãi suất các nước cũng có thể tác động tới lãi suất trong nước, tới chu chuyển vốn quốc tế và tỷ giá hối đoái, từ đó tác động tới nhiều khía cạnh khác của nền kinh tế.
2.2. Những thách thức trong chính sách lãi suất mới.
Trước hết có thể khẳng định lãi suất thảo thuận về bản chất kinh tế cũng chính là lãi suất thị trường. Do vậy nó chỉ hoạt động và phát huy tác dụng trong điều kiện thị trường tài chính phát triển. Những điều kiện cơ bản đó bao gồm:
Thứ nhất, môi trường kinh tế vĩ mô ổn định: Đây là yếu tố cơ bản giúp cho việc tự do hóa lãi suất thành công. Vì nếu môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định nó sẽ làm áp lực tăng lãi suất sau khi thực hiện tự do hoá lãi suất. Sự ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo cho nền kinh tế chịu được những tác động của các cú sốc ở bên trong và bên ngoài có thể xảy ra đối với nền kinh tế khi tự do hoá lãi suất hoàn toàn.
Thứ hai, hệ thống tài chính lành mạnh an toàn: Đây là yếu tố quyết định tới khả năng thanh toán của các NHTM đảm bảo hoạt hộng an toàn và bền vững trước sự cạnh tranh trên thị trường tiền tệ khi tự do hoá lãi suất. Tự do hoá lãi suất làm chi phí vốn tăng lên, sự cạnh tranh giữa các NHTM trở nên gay gắt hơn, làm giảm khả năng sinh lời của NHTM, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ. Do vậy, các NHTM phải có sự chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đủ sức tham gia kinh doanh trên thị trường tiền tệ và đủ sức chịu đựng những cú sốc do thả nổi lãi suất.
Thứ ba, NHTƯ có khả năng giám sát và điều hành thị trường tiền tệ. NHTƯ cần có cơ chế giám sát và can thiệp đủ mạnh bằng quỹ dự phòng và các công cụ của chính sách tiền tệ để phản ứng kịp thời trước biến động bất thường của thị trường tiền tệ từ việc tự do hoá lãi suất.
Ngoài các yếu tố cơ bản trên thì cũng cần phải kể đến một số điều kiện khác như: các DN sản xuất kinh doanh có hiệu quả và có khả năng tài chính, tài chính công mạnh, chính sách tỷ giá điều chỉnh linh hoạtĐối chiếu các điều kiện đó ở Việt Nam hiện nay thì ta thấy việc thực hiện lãi suất thoả thuận cũng đặt ra không ít thách thức cho cả những người lập chính sách cũng như cho cả hệ thống ngân hàng.
2.2.1. Khả năng điều tiết lãi suất thị trường của NHNN qua các công cụ gián tiếp trong thời gian qua là chưa thật hiệu quả.
Chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp sang chính sách tiền tệ gián tiếp trong điều kiện khả năng điều tiết lãi suất qua các công cụ gián tiếp còn hạn chế sẽ là thách thức lớn cho NHNN.
Trong suốt thời gian qua, công cụ tái cấp vốn của NHNN vẫn còn mang nặng tính bao cấp, chỉ định, xin cho dẫn đến hiệu quả của công cụ này không cao. NHNN mới chỉ tái cấp vốn cho một số NHTMQD còn các NHTM ngoài quốc doanh thì hầu như không được hưởng qui chế này. Hơn nữa, lãi suất tái cấp vốn của Việt Nam trong thời gian qua không có tác động và mối liên hệ nhiều với lãi suất thị trường. Do vậy, chuyển sang tự do hoá lãi suất, NHNN chỉ can thiệp thông qua công cụ gián tiếp là tái cấp vốn thì sẽ gặp nhiều khó khăn khi xảy ra những biến động về lãi suất thị trường.
Bên cạnh đó, một công cụ gián tiếp khác có tác động rất hữu hiệu đến lãi suất thị trường trong điều kiện tự do hoá lãi suất là hoạt động thị trường mở cũng chưa có mấy tác dụng điều tiết thị trường, đặc biệt là đối với thị trường liên ngân hàng. Sở dĩ như vậy là do nghiệp vụ thị trường mở mới được đưa vào hoạt động từ tháng 7/2000, qui mô còn nhỏ, công cụ nghèo nàn, số lượng thành viên tham gia vào thị trường còn ít. (xem bảng sau)
Bảng 20: Tình hình hoạt động thị trường mở Việt Nam.
Đơn vị : tỷ đồng.
6 tháng cuối 2000
2001
6 tháng đầu 2002
Tổng cộng
Doanh số hoạt động
1903,5
3933,8
5521,5
11358,8
-NHNN mua
1353,5
3313,8
5321,5
9988,8
-NHNN bán
550
620
200
770
% M2
0,85
1,2
0,99
Nguồn:Tài liệu hội nghị tổng kết hoạt động đấu thầu tín phiếu kho bạc và thị trường mở T7/ 2002, NHNN
Hơn nữa, việc NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để cho các TCTD tham khảo sẽ không có hiệu quả trong việc điều tiết lãi suất thị trường khi thị trường tài chính xảy ra những bất ổn. Vì thế, công cụ gián tiếp chủ yếu để điều hành lãi suất là công cụ tái cấp vốn và nghiệp vụ thị trường mở. Nhưng khi mà những công cụ này vận hành chưa thật hiệu quả thì sẽ gây khó khăn cho hệ thống ngân hàng khi có những biến động về lãi suất trên thị trường tiền tệ.
2.2.2. Mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế VN không cao so với các nước trong khu vực gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng truyền tải của chính sách lãi suất.
Như chúng ta đã biết, lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ, qua đó để đạt được mục tiêu hoạt động, mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ. Mức độ hiệu quả của cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua kênh lãi suất phụ thuộc rất lớn vào mức độ tiền tệ hóa nền kinh tế, hoặc cơ cấu bảng cân đối tài sản của các chủ thể phi tài chính. Nếu trong cơ cấu tài sản của các chủ thể phi tài chính, tỷ lệ tài sản tài chính chiếm tỷ trọng lớn thì mức ảnh hưởng của chính sách lãi suất sẽ tăng cao thông qua các hiệu ứng của lãi suất. Đối với một quốc gia thì mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế được thể hiện thông qua chỉ số M2/ GDP. Một nền kinh tế mà mức độ tiền tệ hoá cao, các chủ thể kinh tế nắm giữ nhiều tài sản tài chính thì khả năng truyền tải chính sách lãi suất sẽ cao.
Xét về độ sâu tài chính, mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế (M2/GDP), thị trường tài chính Việt Nam vẫn còn lạc hậu so với hầu hết các nước trong khu vực, tỷ lệ M2/GDP thấp hơn so với các nước trong khu vực.(xem bảng)
Bảng 21: Độ sâu tài chính của Việt Nam và một số nước trong khu vực (M2/GDP)(%)
91
92
93
94
95
96
97
98
VietNam
26,5
24,6
23,6
25,3
23,7
25,0
25,3
25,3
Trungquoc
83,0
92,1
101,3
110,7
107,1
-
-
-
Indonexia
43,3
43,7
45,8
45,6
49,1
54,3
27,0
-
Malaixia
66,2
69,2
78,3
89,9
89,1
96,0
105,0
-
Hanquoc
38,3
38,8
40,0
42,0
43,5
43,8
46,0
-
Singapore
91,1
92,3
93,5
87,1
86,8
84,5
86,0
-
Philippines
34,1
34,5
36,2
42,1
45,7
50,3
3,0
-
Thailand
69,8
72,7
72,7
79,2
78,7
79,5
90,0
-
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 8/2002
2.2.3. Cơ chế cung cấp thông tin của Việt Nam không minh bạch, không đáng tin cậy, đặc biệt là thông tin về tài chính, ngân hàng và những thông tin về doanh nghiệp
Tại điều 1 của Quyết định số 546/2002/QĐ -NHNN qui định: “Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam trên cơ sở cung –cầu vốn trên thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các tổ chức pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam”. Đó là một qui định rất hợp với cơ chế thị trường và nó đặt ra yêu cầu về chế độ thông tin phù hợp nhằm đảm bảo để các NHTM có thể ra quyết định cho vay một cách độc lập với mức lãi suất phù hợp theo từng đối tượng khách hàng ở các thời điểm nhất định. Cũng có thể nói cách khác là các DN cần được định mức tín nhiệm một cách tương ứng để tránh tình trạng “bằng đầu như vại”Việc xác định đâu là DN có nhu cầu vốn thực sự cho sản xuất kinh doanh cũng đòi hỏi một chế độ thông tin cập nhật, minh bạch như chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán theo chuẩn mực quốc tếDN yếu kém, làm ăn thua lỗđặc biệt là các trường hợp lừa đảo thường sẵn sàng chấp nhận vay với mọi giá. Tình trạng chấp nhận vay với mọi giá nhắc nhở các NH rằng lợi nhuận cao thường gắn với rủi ro cao, do đó hãy cảnh giác với những trường hợp sẵn sàng vay với lãi suất cao.
Xây dựng thể chế thị trường như việc tăng cường tính công khai về thông tin, điều kiện đảm bảo an toàn, giám sát tài chính là việc cần thiết phải tiến hành song song với quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế về tài chính tiền tệ nhằm tránh những thất bại của thị trường. Sự chậm trễ của các nước Đông Nam á trong việc củng cố thể chế thị trường là một bài học quí giá cho Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam chưa có một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng. Hệ thống kế toán theo tiêu chuẩn Việt Nam là một trở ngại lớn và làm lệch lạc việc đánh giá hiệu quả kinh doanh và kiểm tra giám sát đối với hoạt động của các NH và DN trong nước. Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng( credit information center) của NHNN đã đi vào hoạt động nhưng vẫn trong giai đoạn thí điểm, do đó chưa có cơ quan đánh giá tín nhiệm DN một cách độc lập. Điều này đưa đến khó khăn cho các NHTM trong việc đưa ra một mức lãi suất thoả thuận phù hợp với mức độ tín nhiệm của từng DN và diễn biến thị trường. Hơn nữa, đó cũng là thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng tín dụng ngân hàng hơn nữa theo cơ chế thương mại- lãi suất thị trường thực sự.
2.2.4. Mức độ cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam không cao, dẫn đến hoạt động của các qui luật thị trường không hiệu quả, dễ dẫn đến thất bại của thị trường tài chính.
Chỉ có hệ thống ngân hàng lành mạnh mới có thể đưa ra chính sách lãi suất phù hợp và hiệu quả. Điều này có thể được lí giải như sau: Khi NH hoạt động lành mạnh, có hiệu quả, có năng lực quản lí rủi ro, có khả năng đánh giá doanh nghiệp thì NH mới có khả năng đưa ra một mức lãi suất cho vay thấp nhất ứng với mức rủi ro nhất định. Ngược lại, khi các NH hoạt động kém hiệu quả (chi phí cao, khả năng quản lí rủi ro kém) thì NH sẽ thường xuyên đưa ra mức lãi suất cho vay cao hơn bình thường. Đối với lãi suất huy động, các NH hoạt động yếu kém thường đưa ra mức lãi suất khá cao để huy động được nhiều tiền từ công chúng nhằm duy trì hoạt động cầm chừng của nó. Điều này nhắc nhở những người gửi tiền hãy cảnh giác với những NH chào với lãi suất huy động cao một cách bất thường.
Trong quá trình tự do hoá tài chính, chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự hội nhập quốc tế, các NHTM trong nước sẽ phải cạnh tranh quyết liệt hơn. NHTM nào có đủ sức cạnh tranh, làm ăn có lãi sẽ tồn tại, ngược lại NH nào làm ăn thua lỗ sẽ có thể bị đóng cửa. Trước sức ép của cạnh tranh, các NH phải không ngừng nâng cao năng lực, cắt giảm chi phí để cho vay với lãi suất hấp dẫn nhất. Chính vì vậy, sự cạnh tranh cao sẽ đưa đến sự chu chuyển vốn với chi phí thấp nhất. Chi phí này có thể được xác định bởi chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động: nếu mức này cao, chứng tỏ thị trường cạnh tranh thấp dẫn đến chi phí vốn vẫn còn cao.
Tại Việt Nam hiện nay, hệ thống NHTMQD vẫn còn chiếm đa số cả về qui mô và thị phần: Với 6 NHTMNN nhưng thị phần huy động đã chiếm tới trên 70% (xem bảng dưới đây), tổng tài sản có của hệ thống NHTMQD cũng chiếm gần 80% tổng tài sản có của hệ thống NHTMVN. Các NHTMQD lại cho các DNNN vay là chủ yếu.
Bảng 22: Thị phần của các Ngân hàng Việt Nam( cuối năm 2000)
Số lượng định chế
Huy động vốn
( % cả hệ thống)
Tín dụng
(% cả hệ thống)
Các NHTMQD
6a
73,0
71,2
Các NHTMCP
48
10,6
10,5
Chi nhánh NH nước ngoài và NH liên doanh
30b
15,0
16,5
Quỹ tín dụng nhân dân
948
1,4
1,8
Nguồn: Tạp chí ngân hàng số 8/2002
Ghi chú: a) bao gồm VCB, INCOMBANK, BIDV & NH phục vụ người nghèo & NH phát triển đồng bằng sông Cửu Long
b) NH Chace Mahattan hầu như chưa đi vào hoạt động
Điều này dẫn đến khó khăn trong việc cải cách NHTMQD nhằm chuyển hoạt động của một sân chơi bình đẳng trong lĩnh vực ngân hàng; đồng thời nó làm cản trở việc phát huy tác dụng của qui luật kinh tế thị trường (market discipline). Vì vậy, tính cạnh tranh trong khu vực ngân hàng còn thấp.
2.2.5. Hệ thống NHTMVN dễ bị tổn thương do trình độ quản lí không cao, đặc biệt là quản lí rủi ro lãi suất
Các NHTMVN có mức vốn rất thấp, nợ quá hạn cao (nhất là các NHTMCP). Sự dễ tổn thương của hệ thống NHTMVN có thể là thách thức lớn khi hệ thống này chuyển đổi sang một cơ chế thị trường thực sự, đặc biệt là khi tự do hóa lãi suất, thả nổi tỷ giá trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Các NHTMCPVN là khu vực dễ bị tổn thương nhất. Các NHTMCP dường như được thành lập khá dễ dàng từ những năm 1993-1996 và phát triển với tốc độ khá nhanh. Từ 15 NHTMCP vào năm 1990, đến năm 1997 đã tăng lên 53. Đến nay, một số NHTMCP không đủ vốn điều lệ theo qui định, quản lí yếu kém đã bị đóng cửa (bị sát nhập, bị mua lại) và chỉ còn 43 NHTMCP.
Nợ quá hạn của hệ thống NHTMVN có chiều hướng gia tăng kể từ năm 1997. Qua số liệu của IMF, WB thì tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống NHTMVN dường như không cao so với các nước trên thế giới và không đáng lo ngại.
(xem bảng)
Bảng 23: Nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng Việt Nam
95
96
97
98
99
00*
Hệ thống ngân hàng
7,9
9,3
12,4
12,0
13,2
13,1
NHTMQD
9,1
11,0
12,0
11,0
11,1
11,0
NHTM ngoài QD
3,3
4,2
13,5
16,4
23,0
24,4
Nguồn: IMF- Table 21. VietNam: Statistical Appendix& Background Notes, IMF Staff Country Report No 00/116, August 2000
*: Số liệu tháng 3/2000
Ghi chú: % tổng dư nợ cho vay
Tuy nhiên, điều cần bàn là chế độ hạch toán kế toán, phân loại tài sản (cách định nghĩa nợ quá hạn) của Việt Nam là không theo tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, có một số các khoản nợ khó đòi liên quan đến một số vụ án không được hạch toán vào khoản mục nợ khó đòi mà thường được hạch toán vào “khoản mục chờ xử lí”. Do vậy, chế độ báo cáo cũng làm cho các con số nợ quá hạn bị bóp méo đi rất nhiều. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán thì con số này có thể tăng lên gấp 3 lần nếu tính theo tiêu chuẩn quốc tế.
Tóm lại, việc chuyển đổi sang cơ chế lãi suất thị trường ở Việt Nam hiện nay là cần thiết và là yêu cầu của công cuộc cải cách kinh tế toàn diện theo định hướng thị trường. Tuy nhiên, phía trước vẫn còn nhiều thách thức như: thị trường tài chính còn lạc hậu, năng lực điều hành chính tiền tệ của NHHN còn hạn chế, các NHTM vẫn còn yếu kém, tính cạnh tranh còn thấpVì vậy, để chính sách lãi suất mới đi vào thực tế ở Việt Nam cần phải biết kết hợp nhiều yếu tố trong quá trình điêù lãi suất nói chung cũng như nỗ lực của các bộ nghành nói riêng. Sau đây là một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới và những kiến nghị đối với các bộ nghành liên quan để chính sách lãi suất này thực sự phát huy tác dụng.
3. Một số gợi ý về điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới và những kiến nghị đối với bộ nghành liên quan.
3.1. Một số gợi ý về chính sách lãi suất
3.1.1. Điều hành chính sách lãi suất theo lãi suất chỉ đạo, có thể lấy lãi suất tái cấp vốn là lãi suất cho vay qua đêm làm lãi suất chỉ đạo thị trường.
Theo quyết định số 546 của Thống đốc NHNNVN về việc chuyển sang thực hiện chính sách lãi suất thỏa thuận đối với cho vay bằng VND của các TCTD đối với khách hàng và quyết định số 547 về việc công bố lãi suất cơ bản cho các TCTD tham khảo thì từ nay trở đi tất cả các TCTD được quyền ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình. NHNN không can thiệp trực tiếp vào việc hình thành nên mức lãi suất thị trường. Tuy nhiên, tự do hoá lãi suất không có nghĩa là NHNN hoàn toàn đứng ngoài cuộc để mặc các TCTD trong quá trình cạnh tranh về lãi suất. Điều này có thể dẫn đến những nguy hiểm không chỉ cho 1 TCTD nói riêng mà còn cho toàn hệ thống NH và nền kinh tế nói chung khi có những đột biến về lãi suất. Chính vì vậy, NHTƯ các nước đã để cho các TCTD được tự do ấn định mức lãi suất kinh doanh theo quan hệ cung –cầu vốn trên thị trường nhưng mỗi nước có một lãi suất để định hướng gọi là lãi suất chỉ đạo. Lãi suất này được hình thành thông qua các kênh tác động gián tiếp tới chính sách lãi suất như chính sách tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mởTheo kinh nghiệm điều hành chính sách lãi suất của một số nước phát triển trên thế giới thì lãi suất chỉ đạo của NHTƯ đóng một vai trò cực kì quan trọng, nó quyết định hành vi của các chủ thể kinh tế. Mỗi sự thay đổi lãi suất chỉ đạo của NHNN sẽ dẫn đến sự thay đổi lãi suất trên thị trường, tác động tới hành vi của các chủ thể kinh tế thông qua kênh truyền tải lãi suất, từ đó tác động tới tổng cầu nền kinh tế.
Tại Việt Nam, NHNN đóng vai trò là NHTƯ của hệ thống ngân hàng và là người cho vay cuối cùng đối với các TCTD. Vì vậy, lãi suất tái cấp vốn của NHNN nhằm bù đắp thiếu hụt trong thanh toán liên ngân hàng có thể coi là lãi suất không mong muốn trong quá trình điều hành mục tiêu trung gian (mức cung tiền). Trên thực tế điều hành lãi suất tái cấp vốn của các quốc gia đang phát triển thì lãi suất cho vay qua đêm chính là lãi suất phạt của NHNN. Như vậy, lãi suất cho vay qua đêm của NHNN phải là lãi suất cao nhất, sau đó mới đến lãi suất trên thị trường mở(OMO) và cuối cùng là lãi suất tiền gửi của các TCTD và kho bạc nhà nước tại NHNN. Diễn biến lãi suất phải tuân theo qui luật sau:
Hình 12: Mô hình diễn biến lãi suất trong nền kinh tế thị trường
i
LS cho vay qua đêm của NHTƯ
LS cho vay Lãi suất OMO
LS liên NH
Lãi suất huy động
Lãi suất tiền gửi tại NH
t
Theo kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ của một số nước phát triển trên thế giới, NHTƯ là người đưa ra lãi suất chỉ đạo, định hướng thị trường. Căn cứ vào chiến lược và sách lược tiền tệ của quốc gia trong từng thời kỳ, mỗi một quốc gia có một lãi suất chỉ đạo riêng.
Ngân hàng trung ương châu Âu sử dụng 3 loại lãi suất làm lãi suất chỉ đạo đó là: lãi suất NHTƯ cho các NHTM vay qua đêm, lãi suất tiền gửi của các NHTM tại NHTƯ châu Âu, lãi suất thị trường mở. Ba loại lãi suất này có quan hệ mật thiết với nhau, chênh lệch giữa lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất tiền gửi qua đêm của các NHTƯ cho các NHTM luôn được duy trì ở mức 2%/ năm v