Đề tài Hoàn thiện chính sách tỷ giá thực hiện nền kinh tế mở hướng tới hội nhập

 

 LỜI NÓI ĐẦU 1

PHẦN I - CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỶ GIÁ VÀ SỰ CAN THIỆP CỦA NHTW 2

I-/ CÁC LÝ LUẬN VỀ TỶ GIÁ 2

1-/ Các lý thuyết về tỷ giá 2

1.1-/ Quan điểm của Karl Marx và các nhà Marxist 2

1.2-/ Các quan điểm của các nhà kinh tế thị trường 3

2-/ Các mô hình xác định tỷ giá 5

2.1-/ Mô hình ngang giá sức mua: (Purchasing Power Parity- PPP) 5

2.2-/ Mô hình lý thuyết đàn hồi: 7

2.3-/ Các mô hình từ cách tiếp cận tiền tệ: 8

2.4-/ Các mô hình tiếp cận từ thị trường tài sản: 15

2.5-/ Một mô hình khá tổng quát về tỷ giá 22

3-/ Các nhân tố tác động lên tỷ giá 24

3.1-/ Các nhân tố tác động cơ bản tác động trực tiếp tới tỷ giá 25

3.2-/ Các nhân tố môi trường: 26

4-/ Tác động của tỷ giá đến các hoạt động kinh tế vĩ mô cơ bản 27

4.1-/ Tỷ giá với hoạt động xuất nhập khẩu 27

4.2-/ Tỷ giá với lạm phát, tiền lương, sản lượng: 27

II-/ SỰ CAN THIỆP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀO TỶ GIÁ 29

1-/ Lựa chọn chế độ tỷ giá 29

2-/ Xác định các mục tiêu cho chính sách tỷ giá trong từng thời kỳ 31

3-/ Lựa chọn và sử dụng các công cụ can thiệp tỷ giá hợp lý 31

3.1-/ Lãi suất chiết khấu: 32

3.2-/ Các công cụ thị trường mở (OMO,FXO,SFXO) 32

3.3-/ Quỹ bình ổn tỷ giá: 33

3.4-/ Quản lý ngoại hối (kiểm soát ngoại hối) 33

3.5-/ Nâng giá hoặc phá giá tiền tệ: 34

3.6-/ Các công cụ hỗ trợ 39

PHẦN II - SỰ CAN THIỆP VÀO TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 40

I-/ DIỄN BIẾN TỶ GIÁ THỜI GIAN QUA 41

1-/ Cải cách chế độ tỷ giá năm 1989 41

1.1-/ Đôi nét về chế độ tỷ giá trước cải cách 41

1.2-/ Bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội trước cải cách. 42

1.3-/ Chương trình cải cách tỷ giá năm 1989: 44

2-/ Diễn biến tỷ giá từ 1989 đến 1992. 47

3-/ Diễn biến tỷ giá giai đoạn 1992-1996. 50

4-/ Diễn biến tỷ giá từ 1997 đến nay 52

II-/ NHỮNG THÀNH CÔNG VÀ TỒN TẠI TRONG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ THỜI GIAN QUA 56

1-/ Những thành công 56

2-/ Một số vấn đề về tỷ giá Việt Nam thời gian qua 57

2.1-/ Trạng thái của đồng VNĐ hiện nay: 57

2.3-/ Ổn định hay hợp lý quan trọng hơn đối với chính sách tỷ giá 65

2.4-/ Những thách thức mới đối với chính sách tỷ giá nước ta. 65

PHẦN III - HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ THỰC HIỆN CỦA NỀN KINH TẾ MỞ

 HƯỚNG TỚI HỘI NHẬP. 67

1-/ Về mô hình công nghiệp hoá bền vững hướng tới hội nhập. 67

2-/ Đối mặt với khủng hoảng và thách thức hội nhập. 70

2.1-/ Đối mặt với khủng hoảng: 70

2.2-/ Thách thức của hội nhập. 75

3-/ Tỷ giá nào cho nền kinh tế Việt Nam? 78

4-/ Cải cách công tác điều hành tỷ giá 87

4.1-/ Nguyên tác điều hành tỷ giá 87

4.2-/ Sử dụng các công cụ can thiệp vào mang tính thị trường : 89

4,3-/ Thay đổi cách ấn định tỷ giá: 90

5-/ Các chính sách hoạt động hỗ trợ cải cách tỷ giá 90

5.1-/ Xúc tiến việc ra đời và hoàn thiện thị trường hối đoái: 90

5.2-/ Đẩy nhanh tiến trình cải cách hệ thống Ngân hàng , thiết lập thị trường chứng khoán, quá

 trình cổ phần hoá doanh nghiệp. 92

5.3-/ Cơ cấu lại các khoản nợ lớn, hoàn thiện quy chế vay nợ và có các biện pháp giám sát nợ vay

 tư nhân có hiệu lực. 92

 THAY CHO LỜI KẾT 93

 TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

 MỤC LỤC 95

 

 

doc96 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1174 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện chính sách tỷ giá thực hiện nền kinh tế mở hướng tới hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có các chính sách hỗ trợ sản xuất cho cả XNQD và XN tư nhân, XN xuất nhập khẩu và sản xuất hàng tiêu dùng. Đây sẽ là cái gốc để thoát ra khỏi khủng hoảng. Cuối cùng cần có các biện pháp chính trị xã hội để nâng cao lòng tin của người dân và động lực cải cách trên toàn đất nước ở mọi tầng lớp. Thực thi chương trình cải cách tỷ giá năm 1989: Chương trình cải cách chi tiết này đã được Chính phủ quyết tâm thực hiện một cách đồng bộ. Do đó chúng ta đã đạt được kết quả hết sức ngoạn mục được ngân hàng thế giới và IMF đánh giá rất cao: lạm phát được chặn đứng từ 3 con số xuống 2 con số, thâm hụt NS giảm bớt, tỷ giá được duy trì tương đối ổn định, tránh được các cú sốc lớn, hoạt động ngoại thương phát triển mạnh, sản xuất tăng và đời sống nhân dân được từng bước cải thiện. Trước hết chương trình về chế độ tỷ giá: Chính phủ xoá bỏ chế độ cũ, tiến hành tự do hoá thương mại (nhất là xuất khẩu, xoá bỏ độc quyền ngoại thương). Điều này đã tác động đến các doanh nghiệp xuất khẩu quốc doanh nhưng đưa họ vào tình thế phải tự cảit cách và phát triển, xét trên tổng thể, tác động tới xuất khẩu là tốt. Trong điều hành tỷ giá, biên độ dao động được duy trì ở mức chấp nhận được cho xuất nhập khẩu và lưu thông vốn thông qua việc giảm bớt các thủ tục hành chính, tăng cường sử dụng các công cụ ví mô, tỷ giá trở thành tín hiệu giá cả trên thị trường. Bên cạnh đó, Nhà nước tăng cường công tác thông tin, công bố tỷ giá kịp thời, tránh tình trạng phao tin, ổn định lòng tin của dân cư. Giữ bình ổn tỷ giá đã được hình thành. Các biến động đã được sự đoán và điều chỉnh kịp thời. Sự chênh lêch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do giảm dần. Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại: hiện tượng đô la hoá lớn, chưa thực sự phát huy các công cụ của tỷ giá. Nhưng xét một cách tổng thể, chương trình cải cách đã rất thành công. Chương trình cải cách được hỗ trợ tích cực bởi các chương trình về tài chính và kinh tế cũng như kinh tế đôí ngoại. Trong lĩnh vực tài chính, giảm chi tiêu chưa cấp bách, xoá bỏ bao cấp bù lỗ, cải cách thuế tăng thu NS, tăng cường năng lực tài chính của các xí nghiệp và quản lý tài chính của Chính phủ. Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, hạn chế nhập lậu khuyến khích xuất khẩu, đầu tư nước ngoài. Đồng thời là các biện pháp khuyến khích sản xuất trong nước ở cả khu vực quốc doanh và tư nhân, tạo điều kiện giải phóng năng lực sản xuất tư nhân. Trong lĩnh vực tiền tệ, lãi suất được nâng lên 12%/ tháng đảm bảo lãi suất dương, cắt giảm hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế... Tất cả những động tác đó đã tạo ra môi trường cực kỳ thuận lợi cho chương trình cải cách chế độ tỷ giá thành công. 2-/ Diễn biến tỷ giá từ 1989 đến 1992. Trong giai đoạn này,cùng với quá trình cải cách kinh tế, hệ thống ngân hàng, chính sách tỷ giá tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện theo cơ chế thị trường. Trước hết là sự ra đời của pháp lệnh Ngân hàng (1989), chia hệ thống Ngân hàng thành Ngân hàng Nhà nước chuyên thực hiện nhiệm vụ quản lý tiền tệ, thực thi chính sách tiền tệ và hệ thống Ngân hàng thương mại thực hiện chuyên doanh tiền tệ.Việc phân định này đã thực sự đưa chính sách tiền tệ thành một công cụ quản lý vĩ mô. Ngân hàng nhà nước kiện toàn với chức năng: là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng, là ngân hàng của các ngân hàng, là cơ quan dự trữ ngoại tệ, vàng bạc đá quý. Ngân hàng nhà nước thống nhất ban hành và kiểm tra chính sách tiền tệ, tín dụng, thanh toán trong ngoài nước. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ tín dụng cũng được bước đầu hoạch định theo cơ chế thị trường với các nội dung: - Kiềm chế lạm phát duy trì sự ổn định sức mua của đồng tiền góp phần tăng trưởng kinh tế. - Sử dụng các công cụ vĩ mô thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ: dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất tái chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường mở... Chính sách quản lý ngoại hối, can thiệp tỷ giá đã được coi là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ và là một công cụ quản lý vĩ mô. Trong thời kỳ này nó được xác định phải: - Kiểm soát chặt chẽ việc đưa ngoại tệ ra nước ngoài. - Mở rộng thu hút tối đa ngoại tệ vào trong nước bằng các biện pháp thích hợp. Tỷ giá được coi là một công cụ vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc giữ ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam. Do vậy NHNN đã trực tiếp can thiệp vào tỷ giá đảm bảo sự ổn định trong thời gian hợp lý. Nói chung, chính sách tỷ giá của Việt Nam thời kỳ này hướng tới mục tiêu: ổn định giá trị của đồng Việt Nam góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bên cạnh đó từng bước đổi mới cơ chế quản lý từng bước đổi mới cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp với cơ chế mới. Diễn biến của tỷ giá thời kỳ này khá phức tạp. Trước tiên là việc sang năm 1989, hành loạt các nước bạn hàng cũ chuyển sang thanh toán bằng đồng tiền chuyển đổi( chủ yếu là USD), khối SEV tan rã. Tỷ giá Việt Nam sau cải cách chuyển sang chế độ linh hoạt, ấn định theo USD. Tỷ giá biến động mạnh theo xu hướng tăng lên theo các cơn sốt USD đặc biệt vào cuối năm. (Bảng 7), đặc biệt cuối năm 1991, tỷ giá lên đến đỉnh cao vào mức 14450 VND/USD ngày 14/12/91 tại Hà Nội và 14850 ở thành phố Hồ Chí Minh. Tỷ giá chính thức vẫn chưa bám sát được thị trường. Cung cầu ngoại tệ trên thị trường không cân đối bởi nạn đầu cơ, cất giữ đô la, hiện tượng đô la hoá diễ ra rộng khắp. Do thiếu cung, ngoại tệ trở thành khan hiếm việc mua bán diễn ra vòng vèo khiến cho việc kiểm soát ngoại tệ không thể thực hiện được. Các công ty, đơn vị xuất nhập khẩu phải tiến hành vay nóng, vay trả chậm nước ngoài ngoại tệ vào cuối năm để trả nợ, thanh toán lại càng đẩy tỷ giá lên cao (sốt tỷ giá ) vào cuối năm. Điều này cũng dễ hiểu bởi chúng ta mới cải cách tỷ giá., lạm phát chưa chắc chắn được kiểm soát, lòng tin vào VND chưa cao do đó đô la hoá là tất yếu. Mặt khác, dù thị trường tự do đã có từ lâu song việc cung cấp ngoại tệ là không thể đảm bảo, cộng với sự khan hiếm USD của các nước đang phát triển thời kỳ cải cách nên việc cung cầu biến động và có các cơn sốt là có thể thấy được. Đứng trước tình hình đó, Chính phủ, NHNN đã tiến hành hàng loạt các biện pháp để cải thiện tình hình nhằm mục tiêuổn định đồng tiền, đặc biệt là có thể tăng cường khả năng kiểm soát thị trường cung cầu ngoại tệ. Tháng 4/1991, quyết định thành lập quỹ điều hoà ngoại tệ giao cho thống đốc ngân hàng quản lý điều hành nhằm mục đích tạo ra thực lực kinh tế để bình ổn tỷ giá hối đoái. Tháng 9 và 11/1991 thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trung tâm giao dịch được tổ chức gồm các thành viên là NHNN, NHTM và các công ty xuất nhập khẩu lớn. Cách thức hoạt động của trung tâm là nó sẽ họp vào những ngày nhất định. Tại đó NHNN căn cứ vào mức giá của phiên họp trước để ấn định tỷ giá chính thức. Các NHTM căn cứ vào tỷ giá chính thức này để xác định tỷ giá mua bán trong phạm vi +/-5% tỷ giá chính thức. Sự ra đời của 2 trung tâm trao đổi ngoại tệ bước đầu đã đáp ứng một phần nhu cầu ngoại tệ của các đơn vị, thị trường. Nó chứng tỏ một bước phát triển rất lớn của cơ chế tỷ giá nước ta: xác định tỷ giá trên cơ sở thị trường. Tuy nhiên, do thời gian họp của 2 trung tâm không thường xuyên, doanh số giao dịch thấp không đáp ứng được nhu cầu phong phú về ngoại tệ của thị trường. Nên, mặc dù tỷ giá đã được xác định trên cơ sở thị trường nhưng vẫn chưa phản ánh đúng cung - cầu thực sự do đó tỷ giá tự do vẫn tiếp tục biến động mạnh với biên độ cao. Nguyên nhân là chúng ta vẫn chưa kiểm soát được cung cầu trên thị trường. Để khắc phục điều đó, tăng cường công tác quản lý ngoại tệ, ngày 25/10/91, HĐBT, Chính phủ ngày nay, đã ban hành quyết định về quản lý ngoại hối. Quyết định quy định: - Các đơn vị kinh tế có nguồn thu ngoại tệ phải gửi vào tài khoản ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính kinh doanh ngoại tệ. - Các đơn vị không được phép mua bán, thanh toán với nhau trực tiếp bằng ngoại tệ mà phải thông qua NHNN và các tổ chức tài chính. - Các điều khoản cho phép người, tổ chức nước ngoài chuyển ngoại tệ vào Việt Nam. Thông qua hàng loạt các biện pháp can thiệp điều chỉnh trên, NHNN đã từng bước ổn định được tỷ giá thời gian này. Đến cuối năm 1992, tỷ giá tương đối ổn định. Sự quyết tâm đã đem lại những đóng góp nhất định cho kết quả ổn định kinh tế -xã hội đạt được giai đoạn 1989-1992. Cụ thể: - Sự ổn định tỷ giá đã góp phần ổn định, kiềm chế lạm phát từ 76% năm 1989 đến 17,5% năm 1992. - Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 20% đạt 7,6 tỷ, thị trường xuất khẩu được mở rộng, tỷ trọng xuất khẩu tăng. - Đầu tư nước ngoài tăng lên bởi sự ổn định của tỷ giá và tiến triển của nền kinh tế. Năm 1992 đã có 262 dự án với tổng số vốn là 2151 triệu USD, thực hiện 463 triệuUSD. Tóm lại, thời kỳ này, NHNN Việt Nam đã tạo ra được một số cơ sở tăng khả năng điều tiết tỷ giá nhằm ổn định tỷ giá góp phần ổn định kinh tế vĩ mô theo mục tiêu đã đề ra. Bảng 8: Tình hình kinh tế tài chính 1989-1990 Chỉ tiêu 1989 1990 1991 1992 1. Tăng trưởng 5,3 6,1 8,6 2. Lạm phát 76 67,4 67,8 17,5 3.- Xuất khẩu 282,5 584,6 214,5 1190 - Nhập khẩu 1434,2 1209,5 357,0 91,1 - Cân đối (đơn vị triệu Rúp) -1151,7 -319,8 -124,5 27,9 Nguồn: Tỷ giá: nghệ thuật tiếp cận và điều chỉnh- Nguyễn Công Nghiệp - 1996. 3-/ Diễn biến tỷ giá giai đoạn 1992-1996. Hàng loạt các nỗ lực can thiệp của Chính phủ giai đoạn 1989-1992 đã phát huy hiệu lực, tạo ra sự ổn định của tỷ giá tác động đến các hoạt động kinh tế vĩ mô khác làm cơ sở cho sự ổn định của tỷ giá thời gian đầu giai đoạn 1992-1996. Nhìn một cách tổng quát, tỷ giá giai đoạn này ổn định, biến động 3,6%. Đó là do các hoạt động can thiệp của NHNN nhằm vào mục tiêu ổn định, đảm bảo cân bằng vĩ mô. Tuy nhiên, quanh sự ổn định này nảy sinh nhiều vấn đề cần trao đổi, làm rõ (sẽ được bàn đến ở phần sau). Sự ổn định của tỷ giá năm 1992 cùng với các nỗ lực của chính phủ đã thúc đẩy xuất khẩu, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. Kết quả giữa năm 1992 chúng ta đã xuất khẩu 36 triệuUSD, thu hút được 262 dự án đầu tư với tổng số vốn là 2151triệuUSD. Bên cạnh đó, sự phá giá đã hạn chế việc nhập khẩu, nguồn từ khối SEV giảm, các Việt kiều về thăm quê đã mang về khoảng 300 đến 400 triệuUSD. Như vậy cung cầu ngoại tệ có xu hướng thay đổi cung lớn hơn cầu tạo ra áp lực lên giá của VND ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu. Đứng trước tình hình đó, NHNN tiến hành các biện pháp can thiệp bằng cách mua vào ngoại tệ thông qua 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ. Trong thời gian này, 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên nó đã đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế nhất định: - Trước hết các thành viên tham gia thị trường hạn chế đòi hỏi phải được mở rộng khi có sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. - Thời gian mở cửa giao dịch ít, không đáp ứng được kịp nhu cầu của khách hàng. Mặt khác số lượng giao dịch nhỏ nên các hoạt động giao dịch ngoài 2 trung tâm vẫn thường xuyên với số lượng lớn. Do vậy đến ngày 02/09/1994, NHNN quyết định thành lập thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường được tổ chức gồm 24 thành viên là các NHTM, công ty tài chính, các nhà xuất nhập khẩu lớn, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, diễn ra liên tục vào bất kù lúc nào từ 8h sáng đến 3h chiều thông qua các phương tiện giao dịch hiện đại: mạng vi tính, FAX, Telex, điện thoại. Tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được hình thành theo hình thức thoả thuận giá cả giữa các thành viên theo quan hệ cung cầu. Ta thấy thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động linh hoạt hơn và có tính thị trường hơn so với trung tâm giao dịch do đó đã có nhiều tác động tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên toàn quốc. Các giao dịch trên thị trường này chiếm phần lớn cung cầu ngoại tệ do đó nó phản ánh đúng tỷ giá theo thị trường. NHNN đã căn cứ vào kết quả tỷ giá giao dịch trên thị trường này ấn định tỷ giá chính thức và các NHTM có thể mua/ bán trong phạm vi biên độ +/-0,5% so với tỷ giá chính thức. Sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng là bước tiến quan trọng nhằm xây dựng thị trường ngoại hối Việt Nam, tăng cường khả năng quản lý, can thiệp của NHNN theo cơ chế thị trường. NHNN đã tiến hành mua, bán ngoại tệ trên thị trường này, trực tiếp ấn định tỷ giá trong cả nước trong thời gian này. Bảng 9: Diến biến tỷ giá năm 1992-1996 Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1. Tỷ giá chính thức 10720 10841 11003 11009 11027 2. Tỷ giá tự do 10650 10883 11056 11043 11036 3. Tốc độ tăng % so với 1992 - 101,1 102,6 103,5 102,9 Nguồn NHNN Việt nam Bên cạnh các hoạt động can thiệp trực tiếp thông qua thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, NHNN còn tiến hành quản lý vàng, điều tiết giá vàng trên thị trường cho phù hợp với biến động cung- cầu trong nước góp phần ổn định tỷ giá. Tuy nhiên, trong thời gian này, do sự tăng lên mạnh của cung ngoại tệ, VND lên giá làm tăng nhập khẩu, công với đầu tư nước ngoài tăng mạnh: cán cân thanh toán của chúng ta ở trạng thái thâm hụt trầm trọng nảy sinh các vấn đề mới. Bảng 10: Đơn vị triệuUSD Chỉ tiêu 1992 1993 1994 1995 1996 1. Xuất khẩu 2571 2985 4054 5449 7255 2. Nhập khẩu 2535 3924 5825,8 8115,4 11143 3. Thâm hụt TM % thâm hụt GDP 36 0,4 -939 -7,6 -1771,8 -11,4 -2666,4 -13,3 -3888 -16,7 4. Đầu tư FDI (số thực hiện) 463 1.002 1.500 2000 3.028 5. Thâm hụt vãng lai -13 -767 -1195 -1864 -2482 Nguồn: JP- Morgan Nhìn chung, trong giai đoạn 1992-1996, do những thuận lợi chung của tình hình kinh tế xã hội cộng với những nỗ lực can thiệp, NHNN đã ổn định được tỷ giá tránh xu hướng lên giá của VND. NHNN dành được quyền tự chủ trong điều tiết sự biến động của tỷ giá trên thị trường. Tuy vậy, trong thời gian này, tình trạng cán cân thanh toán thâm hụt ở mức cao đang báo hiệu những vấn đề mới có thể nảy sinh trong thời gian tới. 4-/ Diễn biến tỷ giá từ 1997 đến nay Tháng 6/1996, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII được tiến hành. Đại hội đã xây dựng chiến lược kinh tế xã hội cho đất nước giai đoạn 1996-2000 là: đẩy mạnh CNH-HĐH, tạo tiền đề cho bước phát triển cao sau năm 2000. Chiến lược đó được cụ thể qua 5 chương trình kinh tế xã hội lớn. Trong đó, chương trình kinh tế đối ngoại chỉ rõ: Nâng cao hiệu quả hoạt động về ngoại thương, thu hút vốn, công nghệ và các dịch vụ thu ngoại tệ khác, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, gắn liền với các chương trình đó là việc thực hiện các cân đối lớn của nền kinh tế. Về cân đối ngoại tệ, Đại hội cho rằng: Trong 5 năm 1996-2000, dự kiến nguồn ngoại tệ vào nước ta là 88-90 tỷUSD. Trong đó, từ xuất khẩu là 58-60 tỷ USD, từ vay viện trợ là 7-8 tỷ USD, còn lại là kiều hối. Tổng chi ngoại tệ trong 5 năm là 86-87 tỷ USD, trong đó, chi nhập khẩu là:75 tỷUSD, dịch vụ hàng không bưu điện: 2 tỷ USD, còn lại là trả nợ, chuyển lợi nhuận về nước. Về chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá, Đại hội cũng chỉ rõ nhiệm vụ của chính sách tỷ giá thời kỳ này là: đưa ra một chính sách quản lý ngoại hối và điều hành tỷ giá hợp lý để thúc đẩy xuất khẩu, điều tiết được nhập khẩu, từng bước làm cho đồng tiền Việt Nam có khả năng chuyển đổi, đầy đủ và sẽ là phương tiện lưu thông duy nhất trong nước. Dựa trên những định hướng lớn đó, NHNN Việt Nam đã tiến hành hoàn thiện dần chính sách tỷ giá, tiền tệ, can thiệp để ổn định tiền tệ trước những biến động của thị trường. Cuối năm 1996 (từ tháng 9), tỷ giá có xu hướng tăng ( do kết quả đem lại của quá trình thâm hụt cán cân kéo dài từ 1994)(bảng 12). Trước tình hình đó, NHNN đã mở rộng biên độ biên độ giao dịch cho các NHTM từ 0,5% lên 1% tỷ giá chính thức (tháng 11/96). Tuy nhiên cũng không cải thiện tình hình hình được nhiều. Trên thị trường vẫn khan hiếm ngoại tệ. Các tháng đầu năm 1997 tỷ giá cũng tiếp tục tăng(bảng 12). NHNN một lần nữa quyết định nâng biên độ giao dịch từ 1% lên 1,5% tỷ giá chính thức cho NHTM. Việc làm này đã bắt kịp biến động của thị trường. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng hoạt động trở lại. Tỷ giá tăng khoảng 1,74% từ 11480 VND/USD vào tháng 2/97 đến 11680 VND/USD (tháng 6/1997). 11200 11100 11600 11300 tỷ giá t 9/96 12/96 3/97 6/97 ----- tỷ giá tự do tỷ giá chính thức 9/96 12/96 3/96 6/96 Chính thức: 11026 11040 11099 11050 Tự do: 11026 11130 11534 11680 Bảng 12: Diễn biến tỷ giá cuối năm 1996 đầu năm 1997 Đến tháng 7/1997, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông á xảy ra và lan rộng nhanh chóng tác động sâu sắc và kéo dài tới nền kinh tế khu vực và cả nước ta. Đầu tư nước ngoài giảm sụt đáng kể do các nhà đầu tư rút vốn và chuyển hướng đầu tư ra khu vực khác. Thi trường xuất khẩu chủ yếu của nước ta ( các nước ASEAN) bị giảm sút do khủng hoảng. Trước diễn biến đó, dân cư và các doanh nghiệp đổ xô đi mua, tích trữ ngoại tệ. Sự biến động của tỷ giá thời kỳ trước lại được bùng lên. Gần đến cuối năm, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lại phải vét USD để thanh toán và trả nợ lại càng làm cho cầu ngoại tệ lên cao. Một nghịch lý trong giai đoạn này là cầu ngoại tệ trên thị trường lên cao và cung tự do quá nhỏ bé không đủ bù đắp ngoại tệ nhưng ngoại tệ lại dư thừa trong két của hầu hết các NHTM. Tại vì do sự nhận định một cách thiếu linh hoạt, tỷ giá chính thức đã không thay đổi, giữ ở mức 11105 làm cho các ngân hàng thương mại sẽ lỗ lớn khi thực hiện mua bán ngoại tệ. Mặt khác, hàng loạt các quy định về bảo toàn vốn USD, quy chế trạng thái ngoại hối do NHNN quy định. Do vậy các NHTM phải dùng ngoại tệ để: hoặc cho khách hàng đủ điều kiện vay hoặc là gửi ngân hàng khác thậm chí giữ nguyên trong két. Số khách hàng thoả mãn điều kiện vay ngoại tệ không nhiều. Cung cầu có sự xa cách không đáng có. Cuối tháng 9/1997 tỷ giá lên tới11860VND/USD tại Hà Nội tăng 1,5% so với tháng 6/97. Ngày 13/10/97, NHNN quyết định nới rộng biên độ dao động lên tới 10% và đưa tỷ giá chính thức từ 11105 lên 11175VND/USD. Sau đó tỷ giá lên liên tục trên thị trường tự do, từ 12200 lên đến 14000. Tuy nhiên sự hoạt động trở lại của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do mức tỷ giá thông thoáng hơn đã đáp ứng một phần lớn nhu cầu của các doanh nghiệp. Doanh số giao dịch từ 3trUSD trước 13/10/97 lên đến 20-25 triệuUSD các ngày sau đó. Có những ngày lên tới 40trUSD. NHNN liên tục bán ra USD trong những ngày này. Nhờ vậy, tỷ giá được ổn định và tháng 12/97 xoay quanh mức 13000 trên thị trường tự do và 12293VND/USD trên thị trường chính thức. Tuy nhiên đã có nhận định rằng đầu năm 1998 sẽ liên tục diễn ra các đợt sốt USD. Điều này không có căn cứ vì đồng loạt với các biện pháp về tỷ giá.Chính phủ còn tiến hành các biện pháp hỗ trợ quản lý ngoại tệ khác như việc ra quyết định 12/CP ngày 18/02/97 về đầu tư FDI trong đó hạn chế việc chuyển vốn ra nước ngoài, chuyển từ tiền Đồng sang USD tạo ra tâm lý lo sợ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, mặc dù NHNN vẫn công bố rằng họ dữ trữ đủ ngoại tệ để đáp ứng mọi nhu cầu của ngoại tệ. Năm 1998 mở đầu bằng việc NHNN tiến hành nâng trần lãi suất VND từ 1,1% tháng lên 1,2% trong ngắn hạn, từ 1,15% tháng lên 1,25%/ tháng trong dài hạn nhằm chặn đứng việc các doanh nghiệp chuyển từ tiền VND sang USD. Tiếp đó là quy định 37/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp quản lý ngoại hối (ngày 14/02/1998) và 16/02/1998 nâng tỷ giá chính thức từ 11175VND/USD thành 11800 VND/USD. Ngay lập tức, tỷ giá của các ngân hàng thương mại tăng đến kịch trần 12293VND/USD lên 12980VND/USD. Trên thị trường tự do, tỷ giá cũng tăng từ 13300VND/USD lên tới 13500VND/USD. Tiếp sau đó, do các quy định nghiêm ngặt của Chính phủ về mua bán ngoại tệ từ quyết định 37/QĐ - TTg nên tỷ giá được ổn định. Tuy nhiên, doanh số giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng giảm và kém sôi động, cân đối cung cầu của các ngân hàng gặp phải những khó khăn nhất định. Nhiều doanh nghiệp, ngân hàng đã phản ứng lại các quy định củ Chính phủ về quản lý ngoại hối. Tâm lý do thiếu hụt ngoại tệ tăng lên ở cả Ngân hàng và doanh nghiệp. áp lực tăng tỷ giá vẫn còn. Ngày 06 và 07/08/98, NHNN đồng thời thực hiện 2 điều chỉnh là giảm biên độ giao dịch từ 10% xuống 7% và nâng tỷ giá chính thức từ 11800 lên 12998VND/USD ( tăng 10%). Ngay đó, tỷ giá tăng lên và chỉ sau một tiêu thụần (14/08/98) đạt kịch trần là 13908VND/USD. Trên thị trường tự do, tỷ giá còn lên nhanh hơn và đạt mức 14400VND/USD. Tâm lý của các doanh nghiệp và người dân càng nặng nề hơn, niềm tin vào VND không còn như trước nữa! Cụ thể tỷ giá trên thị trường tự do tiếp tục tăng, đến 9/98 đạt mức 14550VND/USD (mức cao nhất trong năm). Trước tình hình đó, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định 173/QĐ - TTg ngày 12/9/98 quy định về quyền và nghĩa vụ mua bán ngoại tệ của cá nhân và các tổ chức cư trú. Quyết định này đã tăng cường khả năng quản lý ngoại tệ của NHNN thông qua các áp lực hành chính. Đây là một quyết định cần thiết và đúng lúc trước tình hình bất ổn của tỷ giá do tác động của khủng hoảng khu vực. Mặt khác nó cũng là kết quả của quá trình nhận thức được sự lỏng lẻo và thiếu quản lý của NHNN về ngoại tệ trong một thời gian dài ở nước ta. Nó là hình thức tốt nhất để thực hiện việc dùng VND là đồng tiền thanh toán duy nhất trên đất Việt Nam, thu hẹp thị trường tự do, tạo điều kiện phát triển thị trường ngoại tệ liên ngân hàng đưa thành thị trường ngoại hối đầy đủ ở nước ta. Ba tháng cuối năm 1998, tỷ giá ổn định, tỷ giá thị trường tự do giảm dần ngang bằng tỷ giá của các ngân hàng thương mại. Điều này là kết quả của sự duy trì ổn định tỷ giá chính thức và sự tin tưởng trở lại của các doanh nghiệp và dân cư. Cũng là kết quả của các nố lực cân đối ngoại tệ của các ngân hàng thương mại và sự thông tin đầy đủ (cam kết giữ ổn định) của ngân hàng Nhà nước. Sự ổn định này là cơ sở cho sự ổn định của tỷ giá các thời kỳ tiếp theo (3 tháng đầu năm 1999). Bảng 13: Diễn biến tỷ giá năm 1998 và đầu năm 1999. Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 1998 11,175 11.175 11.803 11.805 11.804 11.806 11.810 12.720 12998 12.998 12998 12984 12,293 12.634 12.980 12.985 12.982 12.984 12.988 13.678 13.907 13.907 13.898 13.894 1999 12,980 13.211 13.887 13903 13,885 13.887 13.900 13907 Nguồn: NHNNVN (tỷ giá trung bình tháng) Ba tháng đầu năm 1999, tỷ giá ổn định trên cả 2 thị trường tự do và ngân hàng thương mại. Ngày 26/02/99, NHNN ra quyết định lấy tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng ngày gần nhất làm tỷ giá chính thức cho ngày giao dịch và biên độ giao dịch của các ngân hàng thương mại là 0,1%. Sau quyết định này, tỷ giá diễn ra bình thường. NHNN cũng tiến hành can thiệp khi có dao động. Năm 1999 được dự báo là năm êm ả về tỷ giá. Đây là quyết định hết sức có ý nghĩa trong quá trình thực hiện đổi mới cơ chế quản lý điều hành tỷ giá. Trong nhiều năm qua, chúng ta phấn đấu nâng cao năng lực quản lý, điều hành của NHNN, thực hiện ổn định tiền tệ dựa trên cơ sở thị trường. Hiện nay tỷ giá đã được xác định dựa trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mà doanh số giao dịch của nó lên tới 90% quan hệ cung cầu trên toàn quốc. Như vậy có thể nói tính "giá cả" của tỷ giá đã được nâng lên trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Cơ chế điều hành tỷ giá đạt được một bước tiến cơ bản. II-/ Những thành công và tồn tại trong chính sách tỷ giá thời gian qua 1-/ Những thành công: Nếu chỉ dùng một từ để diễn tả thành tích của CSTG Việt Nam thời gian qua thì nó sẽ là “ sự ổn định “. Bởi vì, trongsuốt các thời kỳ biến động của nền kinh tế đất nước, khu vực, CSTG đã được thực hiện đảm bảo trở thành nhân tố tích cực tiến tới và duy trì sự ổn định của nền kinh tế nước nhà. Thực hiện đường lối đổi mới của đảng và nhà nước, NHNN Việt Nam đã đổi mới tổ chức, cơ chế hoật động nhằm thực hiện tốt chức năng quan lý nhà nước và tiền tệ hướng tới mục tiêu: ổn định tiền tệ, trong cùng bối cảnh đó, CSTG của nhà nước ta đã đạt được những thành công vô cùng to lớn: Thứ nhất: đáng trân trọng nhất là việc thực hiện thành công chương trình cải cách chế độ tỷ giá từ chủ quan, tuỳ tiện sang cơ chế thị trường. Tiếp đó là việc giành được quyền điều hành tỷ giá trên thị trường (9 – 92); từng bước nâng cao khả năng can thiệp điều hành tỷ giá cho phù hợp với mục tiêu chiến lược của nhà nước, tránh được cac cú sốc từ bên ngoài. Thành tích này đã được WB và bạn bè thế giới ghi nhận và học hỏi kinh nghiệm. Thứ hai: NHNN đã thiết lập được cơ sở cho sự can thiệp và cơ chế can thiệp, điều hành tỷ giá ở nước ta. Đó là việc thành lập, duy trì hoạt động của hai trung tâm giao dịch ngoại tệ rồi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng; thiết lập cơ chế điều hành tỷ giá qua tỷ giá chính thức, ban hành các quy chế quản lý ngoại hối và tăng cường khả năng kiểm soát cung – cầu ngoại tệ của SBV. Tỷ giá và quản lý ngoại hối đã thực sự trở thành công cụ vĩ mô quan trọng của nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước đối với nền kinh tế. Tỷ giá đã dần phản ánh đúng giá trị đồng tiền, linh hoạt với đúng chức năng chỉ số giá của nền kinh tế. Thứ ba: cùng với hàng loạt các chính sách kinh tế vĩ mô khác, chính sách tỷ giá đã góp phần lớn vào việc ổn định kinh tế xã hội thông qua việc duuy trì ổn định tỷ giá, điều chỉnh tỷ giá, kích thích xuất khẩu, tăng cường lòng tin của dân cư, nhà đầu tư thu hút vốn, FPI, vốn đầu tư dân cư góp phần tăng trưởng kinh tế cao, ổn định trong suốt thời gian qua. Bảng 11 Chỉ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0301.doc
Tài liệu liên quan