Đề tài Hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với cam kết hội nhập kinnh tế quốc tế

Theo phân loại của WTO, ta đã cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối sau khi gia nhập WTO: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ bán buôn, dịch vụ nhượng quyền thương mại.

Về hình thức hiện diện, ngay khi gia nhập WTO ta cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được lập liên doanh với đối tác Việt Nam để cung cấp dịch vụ phân phối nhưng tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49%, kể từ ngày 1/1/2008, hạn chế 49% vốn góp sẽ được bãi bỏ. Kể từ ngày 1/1/2009, ta cho phép lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại, từ ngày 11/01/2007, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam.

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1889 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam phù hợp với cam kết hội nhập kinnh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệ thống thủ tục hải quan thống nhất, minh bạch, đơn giản và phù hợp với chuẩn mực quốc tế; các DNNN sẽ hoàn toàn hoạt động theo tiêu chí thương mại, Nhà nước không can thiệp trực tiếp hay gián tiếp vào hoạt động của DNNN; chấp nhận điều khoản về nền kinh tế phi thị trường trong thời gian tối đa là 12 năm; tham gia vào một số Hiệp định tự do hóa theo ngành; cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ kế toán, kiểm toán, dịch vụ thuế. Các cơ hội thuận lợi chủ yếu là: - Thứ nhất, có thể tiếp cận được những thị trường rộng lớn hơn với những ưu đãi thương mại (giảm thuế quan và phi thuế, quy chế MFN, NT, GSP…) để tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ và cung ứng được nguồn nguyên,nhiên liệu, thiết bị với giá cạnh tranh; - Thứ hai, cơ hội tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh; - Thứ ba, cơ hội cho việc phát triển quan hệ đối tác với nước ngoài; - Thứ tư, khả năng tiếp cận tốt hơn các nguồn tài chính, tín dụng đa dạng cả ở trong lẫn ngoài nước để tăng đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh; - Thứ năm, thông qua cọ xát, cạnh tranh, học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm, tri thức, rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ nhân lực; - Thứ sáu, nhìn chung các doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích quan trọng từ quá trình tự do hoá và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng hơn. Các thách thức/rủi ro chính bao gồm: - Thứ nhất, nguy cơ phá sản hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh do năng lực cạnh tranh kém. Nhiều doanh nghiệp của ta phải đối mặt với thách thức nghiêm trọng này, bởi vì phải cạnh tranh trong điều kiện rất khó khăn cả từ phía bản thân các doanh nghiệp (quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, quản lý kém, hàng hoá sản phẩm thiếu sức cạnh tranh…) lẫn từ phía nhà nước (môi trường chính sách vĩ mô, hệ thống luật pháp, việc thực thi và năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập). - Thứ hai, phải chịu nhiều phí tổn hơn về giao dịch, tư vấn, tiếp thị, quảng cáo, đào tạo… - Thứ ba, có nhiều rủi ro khi hoạt động trên thị trường nước ngoài, nhất là trong điều kiện không hiểu rõ chính sách, luật lệ, thủ tục và cách thức làm ăn tại thị trường đó và các đối tác nước ngoài (khả năng bị lừa đảo, xử bất lợi trong các vụ tranh chấp…). Tóm lại, HNKTQT là cần thiết và tất yếu để phát triển trong một thế giới toàn cầu hoá. Đây là một quá trình đan xen của những cơ hội và thách thức. Các doanh nghiệp cần nhận thức rõ về quá trình này, nắm bắt kỹ các cam kết và lộ trình hội nhập của ta để chuẩn bị vào cuộc một cách chủ động CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG 2.1 Quá trình hội nhập thương mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam 2.1.2 Quá trình hội nhập thương mại Hoạt động của các doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) luôn luôn là một chủ đề nóng hổi bởi vì trước hết các doanh nghiệp là nền tảng của nền kinh tế quốc gia và tiến trình HNKTQT trực tiếp tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp. Việc nắm vững các cam kết hội nhập hiện nay của ta và nhìn thấy trước triển vọng của tiến trình này trong tương lai có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp, bởi vì nó là cơ sở để các doanh nghiệp định hướng chiến lược phát triển và kế hoạch hoạt động phù hợp với tình hình đan xen giữa những cơ hội và thách thức, đặc biệt là sự cạnh canh ngày càng tăng từ nhiều phía và ngay cả trên thị trường trong nước. Có thể nói HNKTQT của Việt Nam thực sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội Đảng lần thứ 6 khởi xướng. Đây là quá trình từng bước tiến hành tự do hoá các hoạt động kinh tế, mở cửa thị trường và tham gia vào các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới. Điều này có nghĩa là chúng ta từng bước tháo gỡ những trói buộc và cản trở đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ chế kinh tế mới dựa trên những nguyên tắc của thị trường có định hướng XHCN, mở cửa và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn, giảm và đi đến xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế và các rào cản khác để việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn, công nghệ, nhân công… giữa Việt Nam và các nước được dễ dàng, phù hợp với những quy định của các tổ chức/thể chế kinh tế khu vực và thế giới mà Việt Nam tham gia. Đồng thời việc đổi mới kinh tế trong nước, mở rộng và phát triển quan hệ kinh tế-thương mại với các nước (đến nay, nước ta đã ký kết trên 70 hiệp định thương mại song phương, trong đó đáng chú ý nhất và toàn diện nhất là Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ ký năm 2001), Việt Nam đã lần lượt tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế. - Bước phát triển có tính đột phá của quá trình này là việc chúng ta chính thức gia nhập ASEAN ngày 25/7/1995 và tham gia Khu vực Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) từ 1/1/1996. Từ đó đến nay, Việt Nam cũng lần lượt cùng các nước ASEAN tham gia vào các cơ chế liên kết ASEAN trong các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tin… - Tháng 11/1998, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) – khối kinh tế khu vực lớn nhất thế giới, chiếm hơn 80% kim ngạch buôn bán, gần 2/3 đầu tư và hơn 50% viện trợ nước ngoài (ODA) của Việt Nam. - Tháng 12/1994, Việt Nam gửi đơn xin gia nhập tổ chức Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), tiền thân của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và năm 1995 đã chính thức xin gia nhập WTO- một tổ chức thương mại toàn cầu với 145 thành viên, hiện kiểm soát trên 90% tổng giá trị giao dịch thương mại của thế giới. Cho đến nay, ta đã tiến hành nhiều bước chuẩn bị theo yêu cầu của WTO, họp 5 phiên với Nhóm Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO, hoàn thành giai đoạn diễn giải, minh bạch hoá chế độ thương mại của ta. Chúng ta đã chuyển Ban thư ký WTO bản chào ban đầu về thuế quan và dịch vụ và bắt đầu tiến hành giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên WTO. - Từ đầu năm 2002, chúng ta cùng các nước ASEAN tiến hành đàm phán với Trung Quốc về thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. Đầu tháng 11/2002 vừa qua, các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế hai bên, trong đó quy định những nguyên tác cơ bản của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc sẽ hoàn thành vào năm 2010 đối với Trung quốc và ASEAN-6, năm 2015 đối với ASEAN-4. Bắt đầu từ năm 2003, hai bên sẽ đàm phán cụ thể hoá các nguyên tắc trên thành các quy định để thực hiện Khu vực mậu dịch tự do này. - Tháng 9/2002, tại Brunei, các nước ASEAN và CER (úc và Niudilân) đã ký Tuyên bố chung thiết lập Đối tác kinh tế gần gũi (CEP) giữa hai bên. Các nhà đàm phán của các nước ASEAN và CER sẽ tiếp tục đàm phán cụ thể hoá các cam kết của đối tác kinh tế gần gũi này trong thời gian tới. - Với Nhật, tại Hội nghị cấp cao ASEAN-Nhật ở Cămpuchia đầu tháng 11/2002, các nhà lãnh đạo ASEAN và Nhật đã nhất trí thiết lập Đối tác kinh tế toàn diện, trong đó bao gồm cả một Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Nhật, dự kiến sẽ được thành lập sớm, có thể là trước cả Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc. - Với Mỹ, vừa qua tại Hội nghị cấp cao APEC ở Mêhicô (tháng 10/2002), Tổng thống Mỹ đã đưa ra “Sáng kiến vì sự năng động ASEAN” nhằm thắt chặt quan hệ hợp tác giữa Mỹ và ASEAN thông qua việc từng bước ký các hiệp định thương mại tự do song phương với từng nước ASEAN. - Bên cạnh việc tham gia liên kết kinh tế song phương và đa phương như đã nêu trên, trong những năm qua, Việt Nam cũng đồng thời tham gia vào các liên kết kinh tế tiểu vùng như Lưu vực Mêkông mở rộng (GMS), Hành lang Đông Tây (WEC), Tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Cămpuchia… Như vậy, HNKTQT của Việt Nam là một tiến trình từng bước từ thấp đến cao diễn ra trên cả phương diện đơn phương, song phương và đa phương, lồng gép các phạm vi tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu, diễn ra trên hầu hết các lĩnh vực gồm hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ… 2.1.2 Quá trình quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam Kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO đầu năm 2007, Chính phủ Việt Nam đã ban hành một số các văn bản pháp lý mới về dịch vụ phân phối để thực hiện các cam kết WTO, cụ thể là: Nghị định 23/2007/NĐ-CP ngày 12/2/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định cũng đề ra các điều kiện để các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam (FDI) được cấp giấy phép kinh doanh mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan tại Việt Nam. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định rõ thẩm quyền cấp giấy phép kinh doanh và các thủ tục xin cấp phép liên quan. Quyết định 10/2007/QĐ-BTM ngày 21/5/2007 công bố lộ trình thực hiện các cam kết WTO về hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá. Quyết định này đơn giản chỉ khẳng định các cam kết của Việt Nam về quyền thương mại, dịch vụ phân phối và một số dịch vụ kinh doanh khác như quảng cáo, kiểm tra thương mại. Thông tư 09/2007/TT-BTM ngày 17/7/2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định 23/NĐ-CP. Thông tư khẳng định thương nhân nước ngoài có quyền đầu tư để thực hiện hoạt động liên quan đến mua bán hàng hoá và chỉ rõ mối quan hệ giữa các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động này. Thông tư nêu rõ các nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đáp ứng các điều kiện quy định tại Nghị định 23/2007/NĐ-CP có quyền đầu tư để thực hiện hoạt động mua bán hàng hoá và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá theo các hình thức và lộ trình quy định tại Quyết định 10/QĐ-BTM. Thông tư 05/2008/TT-BCT ngày 14/4/2008 sửa đổi và bổ sung Thông tư 09/2007/TT-BTM của Bộ Thương mại. Thông tư này sửa đổi, bổ sung một số Khoản của Thông tư 09 như quyền nhập khẩu hàng hóa, sửa đổi và bổ sung giấy phép lập cơ sở bán lẻ và cơ chế báo cáo. 2.2 Cơ chế chính sách quản lý nhà nước về thương mại của nước ta hiện nay. Sau hơn ba năm nước ta gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và hơn một năm mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ, lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ nói riêng đã và đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Dịch vụ phân phối ở Việt Nam đã có đủ loại các loại hình: bán buôn, bán lẻ, đại lý và nhượng quyền với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế: Nhà nước, tập thể, tư nhân và đầu tư nước ngoài (50 tập đoàn và công ty phân phối lớn đã có mặt tại Việt Nam). Hệ thống phân phối hiện đại chiếm 19,4%, tuy còn thấp hơn các nước trong khu vực nhưng chiếm tỷ trọng cao nhất và có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong số các mô hình phân phối ở Việt Nam. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường phân phối, chính phủ Việt Nam đã sửa đổi và ban hành mới nhiều chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh ngành dịch vụ phân phối. Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hoá đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại mới chỉ chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng. Theo số liệu thống kê, đến hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị so với năm 2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 31 siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu FDI bán lẻ chỉ chiếm 4-5% doanh thu bản lẻ toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... cũng đã có mặt ở nước ta. Nhờ sự phát triển này nên tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam liên tục tăng cao qua các thời kỳ, nếu giai đoạn 1996-2000 tăng 10,75%/năm thì đến giai đoạn 2006-2008 tỷ lệ tăng trưởng là 25%. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 2010, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội đã đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Với việc mở cửa hội nhập, với sự phát triển nhanh chóng của thị trường phân phối, bán lẻ, đặc biệt với những chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, nên liên tục trong nhiều năm, Việt Nam được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ (GRDI). Cụ thể, theo A.T. Kearney - hãng tư vấn Mỹ - thì năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm 2008 vươn lên đứng đầu. Có thể nói chưa bao giờ hoạt động phân phối, đặc biệt là hoạt động bán lẻ trên thị trường Việt Nam lại sôi động và phát triển như hiện nay, mở ra nhiều cơ hội mới cho cả doanh nghiệp trong nước, nước ngoài và người tiêu dùng trong nước. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, việc mở cửa thị trường phân phối cũng sẽ tạo áp lực rất lớn đến các nhà sản xuất (bao gồm cả những hộ nông dân) và nhất là các nhà phân phối trong nước. Đã có nhiều ý kiến cảnh bảo về nguy cơ khu vực phân phối bán lẻ bị lấn át bởi các nhà đầu tư nước ngoài có thể lan rộng sang cả lĩnh vực bán buôn, từ đó gây ảnh hưởng đến sự đảm bảo cân đối ổn định vĩ mô chung của toàn bộ mạng lưới sản xuất của nền kinh tế. Theo phân loại của WTO, ta đã cam kết mở cửa các dịch vụ phân phối sau khi gia nhập WTO: dịch vụ đại lý hoa hồng, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ bán buôn, dịch vụ nhượng quyền thương mại. Về hình thức hiện diện, ngay khi gia nhập WTO ta cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được lập liên doanh với đối tác Việt Nam để cung cấp dịch vụ phân phối nhưng tỷ lệ vốn góp của phía nước ngoài không được vượt quá 49%, kể từ ngày 1/1/2008, hạn chế 49% vốn góp sẽ được bãi bỏ. Kể từ ngày 1/1/2009, ta cho phép lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra, đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại, từ ngày 11/01/2007, các nhà đầu tư nước ngoài có thể lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ này. Tuy nhiên, trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Tuy nhiên, Việt Nam hạn chế khả năng mở thêm điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Các doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư nước ngoài muốn lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất sẽ được các cơ quan quản lý xem xét nhu cầu kinh tế. Tuy nhiên, theo Thông tư 09/2007/TT-BTM (hướng dẫn thi hành Nghị định số 23/2007/NĐ-CP ngày 12/2/2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hóa của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam) các tiêu chí để xem xét cho phép lập cơ sở bán lẻ ngoài cơ sở bán lẻ thứ nhất bao gồm: số lượng các cơ sở bán lẻ đã có tại khu vực địa lý liên quan; sự ổn định của thị trường; mật độ dân cư trên địa bàn tỉnh, thành phố nơi xin phép đặt cơ sở bán lẻ; sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoạch của tỉnh, thành phố đó. Về diện mặt hàng, Việt Nam mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau đây: thuốc lá và xì gà; sách, báo, tạp chí, vật phẩm đã ghi hình; kim loại quý và đá quý; dược phẩm; thuốc nổ; dầu thô và dầu đã qua chế biến; gạo, đường mía và đường củ cải. Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được quyền phân phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của biểu thuế quan) của các mặt hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ-BTM của Bộ Thương mại Đối với các sản phẩm mà Việt Nam đã cam kết mở cửa kể từ ngày gia nhập (11 tháng 1 năm 2007), các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài được quyền phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, ngoại trừ xi măng và clinke; lốp (trừ lốp máy bay); giấy; máy kéo; phương tiện cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt thép; thiết bị nghe nhìn; rượu và phân bón. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy. Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam. Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào Việt Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1 (cung cấp qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, đối với phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán các loại hàng hoá sau: Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân; các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì mục đích thương mại; các sản phẩm khác thì việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam. 2.3. Các cơ chế chính sách Thương Mại, quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài đã phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế hay chưa? 2.3.1 Những cam kết của Việt Nam khi hội nhập nền kinh tế quốc tế ( chỉ xét trên thị trường có yếu tố nước ngoài). 2.3.1.1 Cam kết chung cho các ngành dịch vụ. - Công ty nước ngoài không được đại diện tại Việt Nam dưới hình thức chi nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể ( những ngành như thế là không nhiều). Ngoài ra những công ty nước ngoài được phép đưa cán bộ quản lý vào Việt Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý công ty phải là người Việt Nam . - Việt Nam cho phép các cá nhân tổ chức nước ngoài được mua cổ phần trong các doang nghiệp tại Việt Nam, nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa thị trường của ngành đó. Riêng ngành ngân hàng chỉ cho phép tối đa 30% cổ phần . 2.3.1.2 Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí - Việt Nam đồng ý cho phép các doanh nghiệp nước ngoài được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. - Việt Nam giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển thềm lục địa và quyền chỉ định các công ty thăm dò và khai thác tài nguyên,. - Tất cả các công ty vào Viêt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. 2.3.1.3 Dịch vụ viễn thông - Cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng, phải thuê mạng do doanh nghiệp Việt Nam nắm quyền kiểm soát và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ tầng mạng chỉ các doanh nghiệp mà Nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép. 2.3.1.4 - Dịch vụ phân phối - Về thời điểm cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là như BTA vào 1/1/2009 - Ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. - Quan trọng nhất, ta hạn chế khá chặt chẽ khả năng mở điểm bán lẻ của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể. 2.3.1.5 Dịch vụ bảo hiểm Đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập các chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ ngày ra nhập. 2.3.1.6 Dịch vụ ngân hàng Việt Nam đồng ý cho việc thành lập ngân hàng con có 100% vốn đầu tư nước ngoài và chinh nhánh sau 5 năm kể từ ngày ra nhập WTO. 2.3.2 Thực trạng của các cơ chế chính sách của thương mại quản lý phân phối có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam . 2.3.2.1 Cơ chế chính sách đối với thị trường phân phối - Các dự án xây dựng các khu đôi thị cho thuên gian hàng không phải áp dụng các quy chế quy định tại cam kết dịch vụ phân phối. Chỉ khi nào chủ đầu tư xây dựng khu siêu thị, cũng đồng thời trực tiếp bán các sản phẩm, hàng hoá tại siêu thị lúc đó mới được coi là thực hiện dịch vụ phân phối và tuân thủ các quy định liên quan cam kết dịch vụ phân phối. - Những khống chế mức sở hữu 30% cổ phần đối với đầu tư nước ngoài được xoá bỏ, trừ các ngành nghề kinh doanh. Nội dung này được xem là những thay đổi lớn nhất trong dự án cải thiện môi trường đầu tư sẽ tạo ra một làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam với nhiểu hình thức. Đầu tư gián tiếp sẽ đóng góp một phần đáng kể. Giám đốc công ty tư vấn Mỹ Hoài Anh Peter Nelson cho biết có rất nhiều nhà đầu tư Mỹ châu Âu mong muốn được góp vốn trong các ngành công nghiệp như điện, dầu khí, du lịch … song quy định khống chế hiện nay khiến các doanh nghiệp nước ngoài chuyển giao công nghệ cho phía Việt Nam. “Không ai muốn bỏ tiền vào công ty mà mmình không được quản lý nó, ít ra cũng phải được tư vấn.” Ông Neslon nói . Như vậy : cho thấy trong cam kết của Việt Nam khi ra nhập kinh tế quốc tế với các ngành kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đang có những thay đổi linh hoạt để thích ứng với môi trường đầu tư . 2.3.2.2 Đối với ngành dầu khí Cùng với sự phát triển trong nước những năm qua ngành dầu khí Việt Nam rất chú trọng tìm kiếm, mở rộng đầu tư nước ngoài. Cụ thể ngành dầu khí đã ký 49 thoả thuận hợp tác đầu tư với các nước trên thế giới, trên cơ sở đó đã có 22 hợp đồng tại 13 nước. Cho thấy ngành dầu khí Việt Nam không những thực hiện tốt các cam kết hội nhập mà còn phát huy lợi thế của mình để phát triển. 2.3.2.3 Đối với các ngành dịch vụ viễn thông Từ cơ sở vật chất hiện có của các đơn vị thành viên, ngành đã tích luỹ được lượng vốn nhà nước gần 46000 tỷ đồng, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mở rộng hợp tác thương mại và đầu tư nước ngoài. Với chủ trương tăng cường cho hội nhập và phát triển bền vững, ngành bưu chính đã có những bước đột phá là mở cửa thị trường ,chuyển từ độc quyền sang hợp tác cạnh tranh trong nước để chuẩn bị hợp tác cạnh tranh quốc tế . 2.3.2.4 Đối với các ngành bảo hiểm và ngân hàng a. Ngành ngân hàng Đây được xem là lĩnh vực kinh doanh nhạy cảm của xã hội. Từ năm 2006 đã có nhiều biến động đối với các ngân hàng Việt Nam. Những biến động này bao gồm cả những chuyển biến tích cực trong giai đoạn hội nhập, sự tăng lên mạnh mẽ tronng thị trường chứng khoán trong giai đoạn đó. Sự bùng nổ của nhiều ngân hàng mới đầu năm 2008 nhưng sau đó giảm dần do chính sách xiết chặt tín dụng . Việc tăng trưởng tín dụng của một số ngân hàng đã nâng nợ xấu của các ngân hàng đó lên một các rõ rệt đặc biệt trong lĩnh vực cho vay đầu tư với bất động sản. Tuy vậy trong những năm sau đó nhà nước đã thực hiện một số biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát nên tăng trưởng tín dụng đã giảm đi. Như vậy về tín dụng ngân hàng nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết bình ổn, vừa phải thoả mãn các điều kiện trong cam kết thương mại quốc tế, vừa phải phát huy nguồn lực tài chính trong nước với các ngân hàng. b. Thị trường bảo hiểm Việt Nam với hội nhập Doanh nghiệp nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, ngoài ra họ còn được hưởng dịch vụ tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tư vấn đánh giá giải quyết rủi ro và giải quyết bồi thường cho bảo hiểm Việt Nam . Xét ví dụ về các doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam Doanh nghiệp Mỹ không hoạt động tại Việt Nam được cung cấp : Các dịch vụ môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm . Bảo hiểm trong vận tải quốc tế Các dịch vụ tư vấn giải quyết khiếu nại, đánh gía rủi ro. Doanh nghiệp Mỹ hoạt động tại Việt Nam Các công ty cổ phần có vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các loại hình bảo hiểm bắt buộc. Phải tái bảo hiểm bắt buộc 20% nếu có tái bảo hiểm và phải bỏ việc này sau sau 5 năm hiệp định có hiệu lực. Việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng luật kinh doanh bảo hiểm. Thành lập công ty phía Mỹ không quá 50% vốn . Trên đây là những rào cản chính sách của chính phủ đối với các doanh nghiệp Mỹ nói riêng và các doanh nghiệp nước ngoài nói chung, như vậy cho thấy các chính sách của nước ta đối với ngành bảo hiểm có yếu tố nước ngoài đã thực hiện cơ bản các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế . Từ các đánh giá ở các góc độ khác nhau, các lĩnh vực khác nhau đã cho thấy cơ chế chính sách thương mại quản lý dịch vụ phân phối có yếu tố nước ngoài đã phù hợp một cách linh động với các cam kết khi ra nhập nền kinh tế quốc tế. CHƯƠNG III: Giải pháp Bối cảnh, định hướng hội nhập kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn sắp tới. 3.1.1Bối cảnh kinh tế Việt Nam hiện nay: Kinh tế gặp những khó khăn vào quý 1/2010 do một số vấn đề: Tiếp tục chính sách thận trọng để kiểm soát lạm phát, đặc biệt là vấn đề tín dụng khi gặp phải 2 mốc quan trọng là tết dương lịch và nguyên đán. Tăng trưởng trong quý 1 thông thường là quý thấp nhất của năm, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp cũng hoàn toàn tương tự. Thời điểm đầu năm, xuất khẩu kém hơn trong khi nhập khẩu gia tăng để phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước, cộng thêm cần phải phân tích cụ thể hơn để thay đổi chính sách phù hợp khác sẽ có dư địa để thực thi. Những dấu hiệu kinh tế Việt Nam: Xuất nhập khẩu và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHon thi7879n c417 ch7871 chnh sch th432417ng m7841i quamp784.doc
Tài liệu liên quan