Phần lớn quảng cáo chỉ phát vào những giờ, những chương trình có đông người xem nhất như: chương trình ca nhạc, chiếu phim, vì thế tần suất các phim quảng cáo trở nên dày đặc, khiến người xem phải chờ đợi lâu. Khán giả bực mình vì đang xem phim phải ngừng giữa chừng 2 đến 3 lần vì quảng cáo. Với những bộ phim hay, được nhiều người xem chú ý, những tập càng về sau, thời lượng quảng cáo gần bằng với thời lượng một tập phim. Nhiều chương trình, người xem đến nhức mắt vì những hàng chữ chạy dưới mà nội dung chẳng ăn nhập gì với chương trình đang phát sóng.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại quản lý dịch vụ quảng cáo trên truyền hình phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n pháp thích hợp nhằm đẩy mạnh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời áp dụng các biện pháp khuyến khích hơn nữa các doanh nghiệp trong nước phát triển của Nhà nước như tiến hành áp dụng luật doanh nghiệp cuối năm 1999, cũng như th hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam sửa đổi. Trong khi đó từ năm 2001 trở lại đây, tốc độ tăng trưởng quảng cáo trên truyền hình duy trì ở mức ổn định 14% năm, tăng nhanh gấp đôi tốc độ tăng trưởng GDP của cả nước trong cùng thời kì, điều đó có nghĩa là mức độ đóng góp của quảng cáo trên truyền hình vào GDP ngày càng tăng lên, vị trí của quảng cáo trên truyền hình ngày càng trở nên quan trọng trong việc phát triển xây dựng doanh nghiệp mà còn trong việc góp phần xây dựng, phát triển đất nước.
Trong toàn bộ lĩnh vưc quảng cáo, chi phí cho hoạt động quảng cáo trên truyền hình chiếm tỉ trọng cao nhất, luôn ở mức 50% trong tổng chi phí cho hoạt động quảng cáo của các doanh nghiệp.Có thể nói hoạt động quảng cáo trên truyền hình là loại hình có chi phí cao nhất, ưu việt nhất hiện nay ở Việt Nam. Chi phí quảng cáo trên truyền hình gấp 11 lần so với hoạt động quảng cáo trên radio, gấp trên 5 lần so với chi phí do các hoạt động quảng cáo ngoài trời.
Chỉ xét về mặt dành cho quảng cáo của hoạt động quảng cáo trên tạp chí và ấn phẩm là hai hoạt động quảng cáo có chi phí lớn nhất trong tổng quảng cáo nói chung, chiếm trên 80% tổng chi phí quảng cáo chung và cũng là hai loại hình quảng cáo ở Việt Nam hiện nay. Trong một vài năm ần đây, chi phí quảng cáo tên tạp chí và ấn phẩm thường chiếm tỉ trọng 25-28% năm, tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm của hoạt động quảng cáo này cũng luôn đạt 2 con số.
Chi phí quảng cáo trên truyền hình tăng trưởng với tốc độ vừa cao vừa ổn định, trung bình trong một vài năm gần đây là 14,5%. Chi phí cho các chương trình quảng cáo trên truyền hình của các doanh nghiệp thuê quảng cáo biến động theo từng tháng và có xu hướng gắn liền với vòng quay mua sắm của người tiêu dùng Việt Nam.
b.Thực trạng quảng cáo trên truyền hình ở Việt Nam theo lĩnh vực sản phẩm.
Các chương trình quảng cáo trên truyền hình trong những năm gần đây tập trung vào các sản phẩm như mĩ phẩm và các sản phẩm làm đẹp, thực phẩm, đồ uống, các sản phẩm, dược phẩm là chủ yếu.
Có thể nói rằng trong một vài năm trở lại đây, các sản phẩm làm đẹp, mĩ phẩm luôn chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng chi phí quảng cáo, điển hình như các sản phẩm như sữa rửa mặt, các sản phẩm làm trắng da của các hãng sản xuất tên tuổi như Unilever, Kao, LG…Cũng chiếm một tỉ trọng không kém lĩnh vực làm đẹp, các sản phẩm đồ uống cũng chiếm một vị trí đáng kể trong tổng chi phí cho quảng cáo trên truyền hình, khoảng 15-17% vớ những sản phẩm nổi tiếng như nước ngọt của Coca cola, pepsi cola,…, nước tăng lực Number 1 của công ty bia Bến Thành, nước uống tinh khiết của Vital, các sản phẩm bia nổi tiếng như Tiger, Heineken của tập đoàn các nhà máy bia Việt Nam. Các sản phẩm khá cá biệt như dược phẩm cũng quảng cáo một cách khá công phu và tốn kém với chi phí quảng cáo chiếm 6%. Mức độ quảng cáo các sản phẩm thực phẩm, các sản phẩm làm sạch trong nhà cũng có chi phí quảng cáo trên truyền hình tương tự. Số chi phí còn lại giành cho quảng cáo các sản phẩm như ô tô, xe máy, các sản phẩm điện tử.
Cơ cấu phân bổ chi phí quảng cáo trên truyền hình như vậy là hợp lý bởi các sản phẩm như đồ uống, thực phẩm, các sản phẩm làm đẹp, các sản phẩm làm sạch trong nhà là các sản phẩm tiêu dùng hàng ngày, do đó quảng cáo trên truyền hình hàng ngày là một biện pháp trực quan vô cùng hữu hiệu nhằm mục đích nhắc nhở người tiêu dùng nhớ đến các sản phẩm của doanh nghiệp mình. Một lý do khác là số lượng các doanh nghiệp trong lĩnh vực nêu trên khá lớn, thị trường cạnh tranh khốc liệt, do đó dẫn đến một thực tế là muốn tồn tại các doanh nghiệp buộc phải thực hiện các biện pháp để yểm trợ, xúc tiến hoạt động bán hàng và không một biện pháp tiếp cận nào có thể thu hút người tiêu dùng một cách nhanh nhất với lượng nhiều nhất như ở hoạt động quảng cáo trên truyền hình. Lý do tiếp theo để giải thích sự hợp lí trong cơ cấu phân bố chi phí quảng cáo trên truyền hình theo lĩnh vực đó là kênh phân phối. Các doanh nghiệp, các tập đoàn sản xuất các sản phẩm nêu trên chỉ có thể tiếp cận gián tiếp đến người tiêu dùng thong qua mạng lưới các đại lý, các nhà bán lẻ, do vậy để tiếp cận một cách trực tiếp với người tiêu dùng các doanh nghiệp này chỉ có một biện pháp hữu hiệu để giới thiệu một cách chính xác nhất các đặc tính, các công dụng của sản phẩm đó là quảng cáo trên truyền hình.
c.Các công ty thuê quảng cáo trên truyền hình Việt Nam trong những năm gần đây
Tính đến những năm 2002 số lượng các công ty thuê quảng cáo trên truyền hình ở Việt Nam là 680 tỉ tăng 4 đơn vị thuê quảng cáo trên truyền hình so với năm 2001.
Nhìn chung các công ty thuê quảng cáo trên truyền hình ở Việt Nam đa phẩm là các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc các công ty liên doanh. Với một ngân sách quảng cáo khổng lồ, các doanh nghiệp này tiến hành các chiến lược quảng cáo rầm rộ trên truyền hình với nhiều đợt quảng cáo khác nhau. Trong khi đó các doanh nghiệp trong nước do nguồn vốn hạn chế, ngân sách dành cho quảng cáo bị bó hẹp nên việc quảng cáo trên truyền hình có phần âm thầm và lẻ tẻ không hình thành chiến dịch quảng cáo cũng như các đợt quảng cáo, chỉ có một vài các doanh nghiệp thực sự thực hiện các chiến dịch quảng cáo trên truyền hình một cách chuyên nghiệp và bài bản chẳng hạn như công ty bia Bến Thành, công ty bia Hà Nội hay công ty bia Halida. Trong 5 năm qua, Unilever Việt Nam vẫn khẳng định mình là nhà thuê quảng cáo hàng đầu ở Việt Nam với chi phí quảng cáo trung bình trong năm 15 triệu USD. Trong năm 1999, Unilever Việt Nam chi khoảng 14 triệu USD cho hoạt động quảng cáo trên truyền hình, đến năm 2000 con số đạt mức kỷ lục là 20 triệu USD. Tiếp theo phải kể đến đối thủ số một của Unilever ở Việt Nam cũng như trên thế giới, đó là P&G Việt Nam chỉ đạt vào khoảng 3-4 triệu USD, trong đó chi phí quảng cáo trên truyền hình của hãng năm 1999 là 4.118.000USD, năm 2000 là 3.290.000USD và ước tính năm 2003 chi phí quảng cáo trên truyền hình của P&G Việt Nam ước tính cũng khoảng gần 4 triệu USD.
Tập đoàn nhà máy bia Việt Nam trong những năm gần đây đã thu được nhiều thành công đáng kể, chiếm được thị phần khá lớn trên thị trường đồ uống Việt Nam. Thông qua hai công ty quảng cáo hàng đầ trên thế giới là Bates World Wide và Love&Parters, tập đoàn các nhà máy Việt Nam đã trình diễn những chương trình quảng cáo ngoạn mục theo những trường phái khác nhau cho hai loại sản phẩm là bia Tiger và Heiniken. Chi phí quảng cáo trên truyền hình hàng năm của công ty trong những năm qua vòa khoảng 2,4 triệu USD. Coca cola Việt Nam tuy không còn rầm rộ như một vài năm trước nhưng vẫn đứng trong top 10 nhà thuê quảng cáo trên truyền hình lớn nhất ở Việt Nam trong vòng 5 năm trở lại đây. Với chi phí quảng cáo trên truyền hình lên tới hàng triệu USD, Coca Cola luôn tạo ra những chương trình quảng cáo trẻ trung, mới lạ. Hàng năm công ty bỏ ra khoảng 2,5 triệu USD phục vụ quảng bá thương hiệu của mình trên truyền hình.
d.Các nhãn hiệu được quảng cáo trên truyền hình trong một số năm gần đây
Từ năm 1999 trở lại đây đã có nhiều chiến dịch quảng cáo trên truyền hình khác nhau được tung ra để khẳng định các nhãn hiệu cũng như thương hiệu của các doanh nghiệp. Bằng việc xuất hiện nhiều lần trên truyền hình mà tên của một số nhãn hiệu đã được người tiêu dùng sử dụng để thay thế cho tên một mặt hàng nào đó. Năm 1999, nhãn hiệu bột giặt omo được Unilever cho xuất hiện trên truyền hình với số lần phát song nhiều nhất trong 5 năm trở lại đây hơn 3000 lần. Tiếp theo phải kể đến là chương trình quảng cáo giới thệu sản phẩm xe máy Future mới của công ty Honda Việt Nam, các chiếc xe Future lần lượt xuất hiện trên truyền hình đến 1549 lần trong năm 1999, thuê quảng cáo trên truyền hình lớn ở Việt Nam. Hai nhãn hiệu khác của Unilever là dầu gội đầu Sunsik và Clear cũng được trình làng khá thuyết phục với số lần xuất hiện trên truyền hình trên 2000 lần.
Trong năm 2000 nhãn hiệu dầu gội đầu Clear của Unilever Việt Nam vươn lên vị trí số một về số lần quảng cáo trên truyền hình. Số lần được quảng cáo trên truyền hình của nhãn hiệu năm 2000 và 2010, vượt xa nhãn hiệu thứ 2 là kem đánh răng P/S. Nhãn hiệu P/S cũng của Unilever Việt Nam có số lần phát song trên truyền hình là 1609 lần. Đứng thứ 3 cũng là một nhãn hiệu khác của Unilever Việt Nam, đó là nhãn hiệu bột giặt Omo, xuất hiện trên truyền hình 1204 lần. Nhãn hiệu Coca Cola vẫn giữ được vị trí so với năm trước và có số lần phát song là 1200 lần trong năm. Tuy có chi phí quảng cáo thấp, song nhãn hiệu Doublemin lại có số lần phát song tương đối lớn 1195 lần, đứng thứ năm trong bản tổng sắp 5 nhãn hiệu có số lần quảng cáo nhiều nhất.
Thứ tự các nhãn hiệu này sẽ thay đổi rất lớn, do cuối năm các doanh nghiệp thường đua nhau tiến hành các chương trình quảng cáo trên truyền hình nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng, đặc biệt là những tháng gần tết. Bởi đây là thời kì người tiêu dùng mua sắm nhiều nhất trong năm.
2,Thực trạng quản lý,những điểm phù hợp và không phù hợp của dịch vụ quảng cáo trên truyền hình
aThực trạng quản lý dịch vụ quảng cáo trên truyền hình
Hiện nay hoạt động quảng cáo về cơ bản được Chính phủ giao cho hai Bộ quản lý đó là Bộ thong tin và truyền thông, Bộ văn hóa, thể thao và du lịch(Bộ VH,TT&DL)
Bộ Thông tin & Truyền thông thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong đó có quảng cáo quy định tại Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007
Bộ Thông tin & Truyền thông thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong đó có quảng cáo quy định tại Nghị định số Bộ Thông tin & Truyền thông thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong đó có quảng cáo quy định tại Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ Trách nhiệm và quan hệ phối hợp. Bộ Thông tin và Truyền thông: Thực hiện việc cấp phép đối với hoạt động quảng cáo trên báo chí; Tổ chức đăng ký đối với hoạt động quảng cáo trên mạng thông tin máy tính và quản lý hoạt động quảng cáo trên xuất bản phẩm.
Chủ trì và phối hợp với Bộ VH- TT&DL tổ chức thanh tra, kiểm tra việc chấp hành và xử lý các vi phạm các quy định của pháp luật đối với hoạt động quảng cáo trên truyền hình.
Bộ VH, TT& DL: Chỉ đạo hư ớng dẫn các Sở VH, TT& DL phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông quản lý hoạt động quảng cáo trên truyền hình
Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông trong công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về quảng cáo đối với hoạt động quảng cáo trên truyền hình.
Sở Thông tin và Truyền thông: Thực hiện quản lý Nhà n uớc về hoạt động quảng cáo trêntruyền hình trên địa bàn tỉnh thành phố. Chủ trì phối hợp với Sở VH, TT& DL thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật quảng cáo và xử lý các vi phạm trong phạm vi quyền hạn trên địa bàn tình thành phố.
Theo tinh thần hai văn bản trên, quảng cáo trên truyền hình do Bộ Thông tin & Truyền thông cùng ngành dọc quản lý Nhà nước là chính. Bộ VH, TT& DL cùng ngành dọc thực hiện phối hợp quản lý. Quảng cáo ngoài trời, trong nhà với các loại hình do Bộ VH, TT& DL. Cơ chế tổ chức này tuy có mang lại kết quả nhất định trong quản lý Nhà nước đối với hoạt động quảng cáo nhưng cũng bộc lộ những hạn chế dẫn tới kém hiệu quả, chưa phát huy hết được sức mạnh của tổ chức Nhà nước và của xã hội vào tham gia quản lý. Ở đây, sự phân quyền giữa các bộ, ngành làm cho quyền lực không tập trung, không đủ sức mạnh và sự thống nhất cao. Đối với quảng cáo, Bộ Thông tin & Truyền thông chỉ có lợi thế về quản lý công nghệ truyền phát và hầu như các phần còn lại của quảng cáo lại thuộc về Bộ VH, TT& DL. Vì thực chất quảng cáo là lĩnh vực văn hóa nghệ thuật tổng hợp gồm nhiều chuyên ngành cụ thể như quay phim, chụp ảnh, nhạc, kịch v.v... nên đều có quan hệ chặt chẽ với Bộ VH, TT& DL. Cơ chế phối hợp như trên không phát huy thế chủ động, kỹ năng chuyên môn và kinh nghiệm quản lý của Bộ VH, TT& DL.
Tiếp theo, cơ chế này mới bao gồm hai bộ cùng các cơ sở thuộc ngành dọc tới sở. Vì vậy chưa tạo đủ quyền lực cho UBND cấp quận huyện, phòng Văn hóa Thể thao Du lịch quận huyện, cấp phường ở thành phố thậm chí tới cả Tổ dân phố, bởi lẽ quảng cáo đã tác động tới 90% dân số trong cộng đồng, tác động tới từng ngõ phố, từng hộ gia đình gây bức xúc trong công chúng. Không có sự tham gia của UBND quận, phường và tổ dân phố, xã và thôn sẽ không quản lý được (Ở nông thôn hiện nay xuất hiện nhiều tổ chức tôn giáo với nhiều hình thức thực hiện quảng cáo gây bức xúc trong công chúng). Thực tế UBND và Phòng Văn hóa Thể thao và Du lịch quận, huyện chỉ có quyền xử lý quảng cáo trên địa bàn theo lệnh của trên. Ngoài ra, cơ chế này cũng chưa tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội tham gia quản lý như các đoàn thể, các hội và nhất là hội nghề nghiệp như Hiệp hội quảng cáo, Hội Quan hệ công chúng v.v...Do vậy cơ chế này chưa phát huy được sức mạnh của hệ thống tổ chức của các cơ quan Nhà nước, của xã hội và sức mạnh của công chúng.
b.Những điểm phù hợp và những điểm không phù hợp của cơ chế chính sách
thương mại quản lý dịch vụ quảng cáo trên truyền hình với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
*Những điểm phù hợp
Hai, ba năm gần đây, các đoạn phim quảng cáo trên truyền hình đã có hình ảnh, lời nói (mà dân trong nghề gọi là slogan) minh họa cho các sản phẩm được trau chuốt, chọn lọc hơn. Nhiều sản phẩm chiếm được tình cảm của người xem, một phần lớn nhờ vào phim quảng cáo ấn tượng, slogan độc đáo. Mọi người vẫn còn nhớ đoạn quảng cáo chai bia Sài Gòn lùn với câu: Có thể bạn không cao, nhưng người khác vẫn phải ngước nhìn. Các em nhỏ rất thích mẩu quảng cáo về sữa tươi của Vinamilk, vì hình ảnh các chú bò ngộ nghĩnh, bài hát vui nhộn.
Chỉ với vài mươi giây cho một sản phẩm trong một đoạn phim quảng cáo, làm sao vừa thể hiện được tính năng, công dụng của sản phẩm ấy, vừa tạo được hình ảnh độc đáo nhất để gây ấn tượng với người xem, là chuyện không dễ dàng.
Được biết, các đoạn phim quảng cáo trước khi phát sóng, đều được nhà đài duyệt. Theo đó, các sản phẩm chỉ được quảng cáo khi có đủ giấy phép kinh doanh, hình ảnh không được phản cảm, lời nói không mang tính kích động hay nói xấu sản phẩm cùng loại, không được đề cao sản phẩm mình là số một…
Không chỉ đáp ứng yêu cầu của nhà đài, bản thân các doanh nghiệp cũng tự ý thức được tầm quan trọng của các đoạn phim quảng cáo trên truyền hình, nên phải cố gắng tìm tòi để có cách thể hiện sao cho hay và ấn tượng nhất. Nhìn chung, các phim quảng cáo trên truyền hình hiện nay đều đạt được chuẩn về chất lượng hình ảnh đẹp, sắc nét. Nhiều sản phẩm còn dựng thành một câu chuyện được quay những góc máy khá đẹp. Nội dung các sản phẩm quảng cáo cũng được nhà đài lưu ý, để sắp xếp giờ phát sóng phù hợp, không như trước đây như các sản phẩm băng vệ sinh được quảng cáo tràn lan ngay cả vào… giờ ăn.
Nhìn lại thị trường quảng cáo của Việt Nam những năm gần đầy với nhiều biến động và thay đổi lớn sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Thời gian từ cuối năm 2009 đến cuối năm 2010 thì thị trường quảng cáo của VN mới thực sự trở lại cùng với nhiều chiêu quảng cáo mới.
Thời gian này cũng đã đánh dấu những bước đi đột phá của các doanh nghiệp làm quảng cáo trong nước bằng việc bắt đầu dành được thị phần quảng cáo từ các công ty QC nước ngoài bởi các sản phẩm mang thương hiệu “Made in Vietnam” đầy sáng tạo.
Về cuối năm 2010 Ngân sách dành cho quảng cáo của các doanh nghiệp tăng theo từng tháng. Do sự phục hồi của kinh tế nó chung và chính sách thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển, mở rông quy mô của nhà nước ta cho cuộc chạy đua với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hàng hóa nhập khẩu. Trong bối cảnh kinh tế thị trường thời hội nhập WTO đầy thách thức, thì hầu bao tiếp tục được mở chi cho quảng cáo để các doanh nghiệp nhanh chóng chiếm được thị phần trước khi quá muộn. Dự báo năm 2011 ngân sách cho quảng cáo của các công ty sẽ tiếp tực tăng, tăng mạnh từ 9 - 13% so với năm 2010 bởi sức ép ngày một lớn đến từ cánh cửa WTO.
Năm 2011 được nhiều người cho rằng đây là năm của nhiều loại hình quảng mới du nhập và nhiều cách tiếp thị quảng cáo độc đáo của các Cty quảng cáo. Để chứng minh được điều đó chúng ta hãy nhìn vào những gì các nhà quảng cáo đã làm trong năm qua, thử nhớ lại và quan sát bước đi của chính mình ngay từ trong nhà rồi ra ngoài đường tìm hiểu xem cách nhà quảng cáo đã khéo léo lồng ghép vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta mà không hay biết.
Ví dụ điển hình với quảng cáo truyền hình là cuộc tấn công ồ ạt của các nhà mạng, với những thước phim QC rất ấn tượng và hài hước để ra mắt mạng 3G. Chiến dịch quảng cáo này thành công đã giúp nhà mạng đưa ra một gói dịch vụ mới tưởng chừng rất gai góc, ấy thế mà đã nhanh chóng được người tiêu chấp nhận và sử dụng rộng dãi. Để khẳng định được sự thành công của mạng 3G thì sự kiện Việt Nam được sếp hạng thứ 11 toàn cầu về lượng người truy cập internet bằng mobile. Đã nhiều người nhận định chiến lược QC trên đáng khâm phục nhất trong nhiều năm qua.
*Những điểm không phù hợp:
+Bất cập thời lượng phát sóng
Vấn đề đáng bàn nhất với quảng cáo trên truyền hình hiện nay, chính là thời lượng phát sóng. Theo quy định, quảng cáo chiếm 5% thời lượng phát sóng. Nhưng quy định này cũng không rõ ràng nên nhà đài vẫn có thể “lách” được. Đối với những đài truyền hình lớn, phát sóng 24/24 giờ thì 5% dành cho quảng cáo là thời lượng không nhỏ.
Phần lớn quảng cáo chỉ phát vào những giờ, những chương trình có đông người xem nhất như: chương trình ca nhạc, chiếu phim, vì thế tần suất các phim quảng cáo trở nên dày đặc, khiến người xem phải chờ đợi lâu. Khán giả bực mình vì đang xem phim phải ngừng giữa chừng 2 đến 3 lần vì quảng cáo. Với những bộ phim hay, được nhiều người xem chú ý, những tập càng về sau, thời lượng quảng cáo gần bằng với thời lượng một tập phim. Nhiều chương trình, người xem đến nhức mắt vì những hàng chữ chạy dưới mà nội dung chẳng ăn nhập gì với chương trình đang phát sóng.
+ Số liệu từ Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam (VAA) cả nước hiện có 3.000 doanh nghiệp có chức năng quảng cáo. Trong số đó, chỉ có 30 doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường quảng cáo Việt Nam. Nghịch lý là, con số 30 này lại chiếm đến 80% doanh thu từ thị trường quảng cáo hiện nay tại Việt Nam-Tình hình sẽ khó khăn hơn nhiều khi theo cam kết tại Hiệp định thương mại Việt- Mỹ, sau năm 2007, Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn ngành dịch vụ quảng cáo cho các nhà đầu tư Mỹ, tương tự, khi gia nhập WTO việc mở cửa nói trên cũng sẽ được áp dụng với tất cả các thành viên của WTO nếu không có cam kết gì khác. Khi ấy, riêng việc các công ty nước ngoài được trực tiếp ký hợp đồng quảng cáo với báo, đài mà không phải thông qua công ty quảng cáo trong nước, thì liệu 20% doanh thu có được như hiện nay có bị suy giảm? Điều dễ nhận thấy là, với 3 loại hình hoạt động quảng cáo hiện nay, thì loại hình thực hiện những hợp đồng trọn gói có doanh thu cao nhất nhưng số doanh nghiệp tham gia chỉ đếm trên đầu ngón tay. Loại thứ hai, với số lượng khoảng vài chục, gồm những công ty chỉ chuyên về lĩnh vực nhất định quảng cáo ngoài trời, quan hệ công chúng, tổ chức sự kiện… Loại thứ ba nhiều nhất, chủ yếu làm gia công lại hộp đèn, bảng hiệu… hoặc thuộc những lĩnh vực phụ trợ cho quảng cáo như thiết kế, in ấn… Loại hình này đông về số lượng nhưng thuộc thành phần kinh tế siêu nhỏ và siêu cả nghiệp vụ thấp.
- WTO đang cận kề, sẽ kéo theo những thay đổi của thị trường quảng cáo Việt Nam. Nó sẽ tạo ra những làn sóng đầu tư mới. Mà càng đầu tư nhiều thì chi phí quảng cáo càng tăng. Theo ước tính, năm 2005, quảng cáo trên báo, đài chiếm khoảng 312 triệu USD. Mức doanh thu này có khả năng sẽ bị chi phối khi xu thế quảng cáo trực tuyến thông qua internet đang có chiều hướng gia tăng.
-Ba yếu tố để tạo ra hiệu ứng tích cực của quảng cáo là: Thứ nhất, tần suất, nếu một quảng cáo xuất hiện nhiều lần thì sẽ được mọi người biết tới và ghi nhớ. Thứ hai, nội dung của quảng cáo, mọi người không đếm số lần quảng cáo mà chỉ nhớ ấn tượng mà nó tạo ra. Cuối cùng là môi trường hay phương tiện quảng cáo. Quảng cáo trên truyền hình, báo, tạp chí, bảng hiệu, hộp đèn hay đài phát thanh sẽ tạo ra những hiệu ứng khác nhau với người nhận thông tin. Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay cả đơn vị tham gia quảng cáo và đơn vị thực hiện quảng cáo đều chưa thoả mãn được ba yếu tố trên.
+ Vấn đề văn hoá và tôn giáo:
-Truyền hình là một phương tiện để giao lưu văn hóa giữa các quốc gia. Do đó các mẫu quảng cáo trên truyền hình ở nước này có thể được mang sang quảng cáo ở nước khác. Hình ảnh, cảnh vật cũng như diễn viên của nước này có thể xuất hiện ở trên các chương trình quảng cáo ở nước khác mà vẫn tạo được hiệu quả quảng cáo, cũng như đạt được ý đồ của công ty quảng cáo hay bên thuê quảng cáo
-Do các dân tộc khác nhau, nên khi triển khai một chương trình quảng cáo, doanh nghiệp phải tính đến yếu tố văn hóa và tôn giáo. Một chương trình quảng cáo trên truyền hình có thể được diễn ra thành công ở nước này song khi đem sang nước khác rất có thể sẽ thất bại thảm hại do doanh nghiệp không lường hết được các yếu tố văn hóa và tôn giáo. Chẳng hạn như một chương trình quảng cảo trên truyền hình có hình ảnh các cô gái thiếu vải được thực hiện sẽ là ình thường đối với các nước phương tây song nó lại có tác động phản cảm đới với người tiêu dùng ở các nước phương đông đặc biệt là các nước theo đạo hồi.
- Chưa đáp ứng được yêu cầu về văn hoá – thẩm mĩ: Ở đây, chúng tôi muốn nói tới những câu chữ quảng cáo vi phạm các chuẩn mực có tính truyền thống của dân tộc về văn hoá – thẩm mĩ. Ví dụ 1: Quảng cáo cho sữa tắm Dove : “ Da dẻ tụi mình cũng khác nhau. Da Hạnh nhăn như da người già. Còn da Hà khô như da rắn. Bọn mình dùng Dove trong 7 ngày... Mình thấy nó mềm và không thô ráp như ngày xưa nữa.Da Hạnh mượt như da trẻ con. Da Hà mềm như là da em bé...Không tin à? Sờ thử coi...”. Lời giục giã “ Sờ thử coi” thật thiếu tế nhị ( nếu không nói là thô thiển ). Nó hoàn toàn không phù hợp với phong thái kín đáo, ý nhị của người phụ nữ phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng. Rồi ngay cả hai hình ảnh ví von “ Da Hạnh nhăn như da người già. Còn da Hà khô như da rắn. “ cũng khá thiếu thẩm mĩ, không thuận tai đối với khán giả truyền hình
Nói tóm lại, để cho ngành quảng cáo Việt Nam, mà cụ thể là các doanh nghiệp quảng cáo trong nước phát triển mạnh và không bị thua thiệt trong thời gian tới, ngoài việc cần biết tận dụng thời cơ, tận dụng được nguồn nhân lực giỏi về chuyên môn… thì cần xoá bỏ những rào cản vô lý trong lĩnh vực quảng cáo để trả nó về đúng vị trí. Âu đó cũng là mong ước của ngành quảng cáo Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập.
III,Nguyên nhân và giải pháp để hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại phù hợp với các cam kết hôi nhập kinh tế
1, Nguyên nhân của sự không phù hợp
Đánh giá về sự phát triển của ngành này, ta thấy rằng quảng cáo phát triển có mối quan hệ mật thiết với sự phát triển của kinh tế.
-Chính sách quản lý Nhà nước và chất lượng chương trình kém làm cho việc khai thác kinh doanh về quảng cáo còn thấp
- Do quảng cáo ở Việt Nam vẫn còn sơ khai nên việc đưa các kênh truyền hình đại chúng vẫn là lựa chọn có lợi nhất cho các thương hiệu. Quảng cáo ở Việt Nam chi cho kênh truyền thong vẫn rẻ hơn các khu vực lân cận
- Các quy định về quảng cáo hiện nay vẫn dựa hoàn toàn trên pháp lệnh quảng cáo năm 2001. Chúng ta chưa có luật riêng về quảng cáo để chi phối toàn ngành đặc biệt là quảng cáo trên truyền hình có liên quan đến luật sở hữu trí tuệ, công ước quốc tế và những cam kết khác của Nhà nước.
- Trên thực tế những quy định riêng của chính quyền từng địa phương vẫn quan trọng và chi phối, vẫm không rõ rang cái gì cấm, cái gì không cấm, sự không thống nhất của nhau đã làm hạn chế đầu tư nước ngoài vào quảng cáo truyền hình.
- Các công ty quảng cáo trên truyền hình ở Việt Nam chưa khẳng định được mình trên thị trường, hầu hết đều thua kém các công ty của nước ngoài do nguồn nhân lực của ta không được đào tạo chuyên nghiệp.
2, Những giải pháp để hoàn thiện cơ chế chính sách thương mại quản lý dịch vụ quảng cáo trên truyền hình phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế
-Tổ chức laị bộ máy quản lý nhà nước về quảng cáo theo hướng tập trung về một đầu mối.
Nhằm khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo giữa các cơ quan quản lý, bộ máy quản lý cần được tổ chức theo hướng tập trung hóa đồng thời đảm bảo sự phối hợp trong quản lý. Theo đường hướng đó, quảng cáo sẽ do Bộ VH, TT&DL đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước chung về. Cơ sở của sự tập trung hóa này là quy định tại Pháp lệnh quảng cáo số 39/2001/PL-UBTVQH10 do Ủy ban Thường vụ quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ban hành ngày 16 tháng 11 năm 2001, Bộ VH- TT&DL là cơ quan đầu mối quản lý các hoạt động quảng cáo trên lãnh thổ Việt Nam. Hơn nữa là Bộ VH, TT& DL quản lý nhiều Hội chuyên ngành văn hóa nghệ thuật có kỹ năng gắn với quảng cáo. Vì vậy, Bộ VH, TT& DL quản lý quảng cáo sẽ phát huy được lợi thế của mình và sẽ có kết quả khả quan hơn. Các cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp với Bộ VH, TT& DL để thực hiện
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- qu7843n l nh n4327899c v7873 th432417ng m7841i.doc
- Bi th7843o lu7853n quan ly nha nuoc ve TM.ppt