Danh mục các bảng biểu 4
Mở đầu 5
Doanh nghiệp có vốn FDI và cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập 9
1.1. vai trò Đầu tư trực tiếp nước ngoài và những vấn đề chung về doanh nghiệp có vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài 9
1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 9
1.1.2. Vai trò của FDI 11
1.1.3. Những vấn đề chung về doanh nghiệp có vốn FDI 12
1.1.4. Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI. 20
1.2. Cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. 21
1.2.1. Nhận thức chung về cơ chế tài chính doanh nghiệp 21
1.2.2. Nội dung cơ bản của cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn FDI 24
1.2.3. Vai trò của cơ chế tài chính đối với việc phát triển doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. 33
Thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam và kinh nghiệm một số nước trên thế giới 36
2.1. Thực trạng doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam 36
2.1.1. Tổng quan FDI tại Việt nam 36
2.1.2. Đánh giá chung về thực trạng doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam. 38
2.2. Đánh giá Thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt Nam. 43
2.2.1. Thực trạng cơ chế tài chính doanh nghiệp có vốn FDI. 43
2.2.2. Đánh giá thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam. 52
2.3. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở một số nước trên thế giới 56
2.3.1. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới châu Á 56
2.3.2. Kinh nghiệm của Trung quốc 57
2.3.3. Kinh nghiệm một số quốc gia thuộc khối ASEAN 59
2.3.4. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước. 62
Giải pháp hoàn thiện cơ chế tài Chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI Trong điều kiện cạnh tranh và hội Nhập 64
3.1. Xu hướng vận động, quan điểm phát triển các doanh nghiệp có vốn FDI. 64
3.1.1. Xu hướng vận động của các doanh nghiệp có vốn FDI. 64
3.1.2. Tác động của cạnh tranh và hội nhập đối với doanh nghiệp có vốn FDI 66
3.1.3. Các quan điểm phát triển doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam. 68
3.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. 71
3.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở Việt nam trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập. 74
3.3.1. Cải thiện tổng thể môi trường đầu tư kinh doanh thúc đẩy doanh nghiệp có vốn FDI phát triển. 75
3.3.2. Giải pháp tăng cường năng lực tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp có vốn FDI trong xu thế hội nhập. 77
3.3.3. Hoàn thiện chính sách thuế phù hợp tiến trình hội nhập thúc đẩy doanh nghiệp có vốn FDI phát triển. 82
3.3.4. Hoàn thiện thị trường ngoại hối theo hướng toàn diện, hiện đại phục vụ đắc lực cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. 86
3.3.5. Hoàn thiện chính sách tín dụng để phát triển doanh nghiệp có vốn FDI 90
3.3.6. Giải pháp hỗ trợ của Nhà nước. 92
3.4. Một số điều kiện cần thiết để thực hiện các giải pháp 93
3.4.1. Sự ổn định chính trị, ổn định kinh tế - xã hội và năng lực tổ chức quản lý của Chính phủ. 93
3.4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, kết hợp đồng bộ các giải pháp tài chính với các công cụ quản lý vĩ mô. 94
3.4.3. Đổi mới công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn FDI. 95
Kết luận 97
ký hiệu các chữ viết tắt 102
Tổng số 105
110 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hải chuyển sang áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. Báo cáo tài chính doanh nghiệp phải được kiểm toán bởi Công ty kiểm toán độc lập được phép hoạt động tại Việt Nam trước khi gửi tới cơ quan quản lý Nhà nước và đại diện các liên doanh. Tuy nhiên, trên thực tế báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các doanh nghiệp có vốn FDI không được coi là căn cứ chính xác trong việc xác định số thuế phải nộp trong năm tài chính được kiểm toán đó. Số thuế mà doanh nghiệp có vốn FDI phải nộp được xác định thông qua biên bản quyết toán thuế hàng năm sau khi doanh nghiệp được cơ quan thuế kiểm tra xác nhận, điều này gây tốn nhiều thời gian cho doanh nghiệp và các nhà quản lý doanh nghiệp, nhất là người nước ngoài.
Hàng năm các doanh nghiệp có vốn FDI đều lập báo cáo về tình hình góp vốn, vay vốn, lao động, doanh thu, chi phí, lãi, lỗ, ngoại tệ, chuyển lợi nhuận, xuất nhập khẩu của doanh nghiệp gửi cho các cơ quan chức năng quản lý về ĐTNN tại Việt Nam, cơ quan thống kê, cơ quan quản lý ngành đang hoạt động… trên cơ sở các báo cáo, cơ quan quản lý về ĐTNN có thể giám sát tình hình SXKD của doanh nghiệp, tình hình tuân thủ các điều khoản cam kết trong GPĐT. Điều này đặc biệt rất quan trọng đối với các doanh nghiệp trong diện được hưởng các ưu đãi về thuế
2.2.1.5. Thực trạng cơ chế tài chính cho việc giải thể, phá sản hoặc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp
Khi kết thúc hợp đồng hay thanh lý tài sản của doanh nghiệp do kết thúc thời hạn hoạt động hoặc vì lý do nào đó doanh nghiệp bị giải thể trước thời hạn, thì chủ đầu tư được phép chuyển về nước giá trị vốn đã chuyển vào trước đó mà không phải nộp thuế. Nếu số tiền chuyển ra nước ngoài cao hơn vốn ban đầu và vốn tái đầu tư thì chênh lệch đó chỉ được chuyển ra nước ngoài khi được cơ quan cấp GPĐT chuẩn y. Việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp thanh lý, phá sản được thực hiện theo thứ tự ưu tiên của pháp luật.
Cơ chế này vừa đảm báo lợi ích hợp pháp của các chủ nợ và các nhà đầu tư, tương đối phù hợp với thông lệ quốc tế, cụ thể hoá được các thủ tục, trình tự cũng như phương thức xử lý tài sản của DNLD khi thanh lý, phá sản. Tuy nhiên, về quyền lợi và trách nhiệm của các bên chưa thực sự tương xứng nhau, khi mà trách nhiệm của các bên đối với khoản nợ của DNLD dựa vào tỷ lệ vốn góp theo cam kết về vốn pháp định, còn việc phân chia lợi nhuận lại dựa vào tỷ lệ vốn thực góp.
2.2.2. Đánh giá thực trạng cơ chế tài chính đối với doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam.
Sau 15 năm thực hiện Luật ĐTNN tại Việt Nam, cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI luôn được bổ sung, hoàn thiện. Sau khi phân tích thực trạng về cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, rút ra một số ý kiến đánh giá như sau:
Thứ nhất: Về cơ chế góp vốn, tạo vốn kinh doanh:
- Phía Việt Nam trong các DNLD góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất phát sinh một số điểm bất cập: khi cần thiết khuyến khích đầu tư thì giảm giá tiền thuê đất, hoặc do lợi ích cục bộ trong thu hút vốn đầu tư (thời gian gần đây nổi cộm lên việc khuyếch trương thu hút đầu tư ở khắp nơi trong nước) tạo ra bất lợi cho phía Việt Nam trong liên doanh, nhất là đối với những DNLD đã và đang hoạt động bị tính lại tiền thuê đất theo giá thấp hơn thời điểm được cấp GPĐT. Chính sách ưu đãi miễn giảm tiền thuê đất chưa phát huy được tác dụng tích cực. Luật ĐTNN năm 2000 và Nghị định 24/2000-NĐ-CP hướng dẫn thực hiện đều đã có qui định chi tiết và có các mức ưu đãi rất lớn cho các dự án đầu tư vào các vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn do Chính phủ qui định nhưng không mấy hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu là do cơ sở hạ tầng tại các địa bàn này kém phát triển.
- Tình trạng chuyển giao công nghệ lạc hậu, hoặc đã qua sử dụng vẫn tồn tại, công tác thẩm định giá trị tài sản góp vốn thực hiện không triệt để.
- Nước ta chưa có được một thị trường chứng khoán phát triển đủ để tạo ra khả năng huy động vốn cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Hiện nay cũng đang dừng lại ở việc cho phép một số doanh nghiệp có vốn FDI được chuyển sang hình thức công ty cổ phần.
- Vấn đề huy động vốn vay của các doanh nghiệp có vốn FDI: các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam làm ăn thua lỗ chiếm một tỷ lệ lớn, hoạt động SXKD phụ thuộc rất lớn vào công ty mẹ ở nước ngoài. Trong hoạt động cho vay tín dụng, các tổ chức tín dụng có thể xem xét thẩm định về pháp lý, tài sản đảm bảo của doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt nam nhưng khó có điều kiện thẩm định tình hình tài chính của công ty mẹ. Các doanh nghiệp có vốn FDI, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong các khu chế xuất, các tổ chức tín dụng không nắm được thông tin từ thị trường nước ngoài, không nắm được dòng lưu chuyển tiền tệ của các doanh nghiệp có vốn FDI, do thanh toán chủ yếu tại các ngân hàng nước ngoài, do đó không thể cho vay không có tài sản đảm bảo.
Một nguyên nhân khác, các ngân hàng trong nước chưa chủ động tiếp cận với các doanh nghiệp có vốn FDI, chưa nắm bắt được nhu cầu vốn tín dụng của các doanh nghiệp có vốn FDI và chưa có bộ phận hỗ trợ tư vấn cho doanh nghiệp trong việc thiết lập quan hệ tín dụng ngân hàng.
Các khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp có vốn FDI phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước. Các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam chưa được nhận thế chấp cho vay bằng quyền sử dụng đất,…Nhìn chung các qui định liên quan đến vay vốn nước ngoài, huy động vốn trong nước của các doanh nghiệp có vốn FDI không được cởi mở, thông thoáng.
Thứ hai: Về chí phí và lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn FDI:
Mặc dù có nhiều ưu điểm trong các chính sách về ưu đãi thuế đối với hoạt động FDI, nhưng các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn do chi phí SXKD cao hơn các doanh nghiệp có vốn trong nước và còn ở mức cao so với các nước trong khu vực (như đã phân tích trong mục 2.2.1.2). Chính vì vậy Việt nam làm mất đi một số lợi thế và không còn là địa điểm hấp dẫn đầu tư so với các quốc gia khác. Có rất nhiều doanh nghiệp có vốn FDI vẫn trong tình trạng thua lỗ hoặc không còn vốn để hoạt động. Tỷ lệ các doanh nghiệp có vốn FDI sản xuất kinh doanh lãi là 42,84% và lỗ là 54,09% (nguồn: tính toán từ kết quả điều tra toàn bộ doanh nghiệp 1/4/2001, Tổng cục Thống kê).
Đây là vấn đề cần xem xét nghiêm túc và đầy đủ, vì mục tiêu của các nhà đầu tư là lợi nhuận và không có sự tuyên truyền, quảng cáo nào tốt hơn là việc các nhà đầu tư tại Việt Nam giới thiệu môi trường, vị trí đầu tư cho các nhà đầu tư bạn bè trên thế giới.
Thứ ba: Các ưu đãi về thuế không phải là yếu tố chính ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà ĐTNN, mà vấn đề chính là môi trường đầu tư kinh doanh, các điều kiện cơ sở hạ tầng tốt… mới là yếu tố quan trọng trong việc thu hút FDI và thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI.
Việc ưu đãi đầu tư ở Việt Nam trong những nam qua quá tràn lan, thậm chí ngay trên cùng một lĩnh vực hay cùng một địa phương sự ưu đãi cũng có sự khác nhau. Không ít các ưu đãi như vậy trên thực tế đã không đáp ứng được các mục tiêu ưu tiên, mà tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng và phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp. Khung pháp lý hiện nay xây dựng việc ưu đãi dựa vào chủ thể đầu tư chứ không dựa trên lĩnh vực đầu tư.
Thứ tư: Môi trường đầu tư kinh doanh vẫn còn thiếu tính ổn định, thiếu tính hấp dẫn các nhà đầu tư.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến ĐTNN nhìn chung đều phù hợp với các nguyên tắc của pháp luật và tập quán quốc tế. Tuy nhiên, một điểm đáng lưu ý là khi các doanh nghiệp có vốn FDI đi vào hoạt động không chỉ bị điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật về ĐTNN, mà còn bị điều chỉnh bởi toàn bộ khung pháp luật kinh tế tại Việt Nam như về đất đai, quản lý ngoại hối, công nghệ môi trường, lao động, xuất nhập cảnh… Tính không ổn định trong chính sách cũng gây nên những hạn chế nhất định cho hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI, như sự thiếu ổn định trong chính sách xuất nhập khẩu, chính sách tiền tệ (nhất là ngoại tệ)… ảnh hưởng không nhỏ tới doanh nghiệp có vốn FDI.
Các yếu tố cấu thành nền kinh tế thị trường chưa đầy đủ, chưa phát huy hiệu quả. Nền kinh tế tăng trưởng, nhưng sức mua của thị trường hàng hoá, dịch vụ không tăng làm cho nhiều doanh nghiệp có vốn FDI gặp sai lầm khi dự báo các thị trường. Mặt khác, Việt nam chủ trương khuyến khích đầu tư hướng xuất khẩu, nhiều dự án yêu cầu xuất khẩu 80% sản phẩm,… nên các doanh nghiệp có vốn FDI rất khó đảm bảo thực hiện.
Thị trường hàng hoá, dịch vụ tuy phát triển nhưng do quản lý chưa tốt nên vẫn còn tình trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế, gian lận thương mại làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Thị trường vốn, thị trường công nghệ, các dịch vụ thông tin, pháp lý, tài chính, bảo hiểm, kiểm toán, lao động phát triển chậm cũng làm hạn chế các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thứ năm: Vấn đề quản lý các doanh nghiệp có vốn FDI:
Hiện nay chưa có các qui định cụ thể cũng như hệ thống tổ chức hoàn chỉnh về quản lý các doanh nghiệp có vốn FDI sau khi được cấp GPĐT. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan chủ quản trong quản lý Nhà nước về ĐTNN, nhưng thực sự chưa đủ khả năng theo dõi toàn bộ hoạt động đầu tư mà mới chỉ theo dõi được trong giai đoạn cấp GPĐT. Chưa ban hành được quy chế quản lý tài chính của Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn FDI, làm cho việc quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của các doanh nghiệp có vốn FDI đang có những vấn đề rất bức xúc.
Bên cạnh việc sớm khắc phục những bất cập nêu trên, Việt Nam cũng cần phải xem xét học hỏi kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc hoạch định cơ chế tài chính và tổ chức thực hiện chúng nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn FDI.
2.3. Kinh nghiệm quản lý Nhà nước về tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI ở một số nước trên thế giới
Trong phạm vi về tài nghiên cứu này, trên khía cạnh nghiên cứu việc sử dụng cơ chế tài chính để phát triển các doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện nền KTTT cạnh tranh gay gắt và xu hướng hội nhập kinh tế thế giới, tại các nước công nghiệp mới châu á, Trung quốc và một số nước ASEAN, để từ đó liên hệ, so sánh với Việt Nam rút ra các bài học kinh nghiệm.
2.3.1. Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới châu á
Các nước công nghiệp mới Châu á bao gồm Hàn quốc, Đài loan, Hồng kông, Singapore. Trong những năm 1965-1990 nhịp độ tăng trưởng kinh tế ở Hàn quốc là 6,5%, Đài loan 6,6%, Hồng kông 6,2%, Singapore 7,6%, trong khi đó các nước G7 chỉ tăng 2,3%-2,8%. Một trong những nguyên nhân của sự nhảy vọt chính là sự thành công trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI phát triển kinh tế đất nước.
Đài loan những năm đầu của chiến lược công nghiệp hoá, nguồn vốn bên ngoài chiếm 40% nhu cầu vốn đầu tư đất nước, trong đó vốn FDI chiếm tỷ trọng lớn. Đài loan thông qua vốn FDI để tiếp nhận công nghệ cao của nước ngoài để liên tục đổi mới công nghệ nâng cao năng lực cạnh tranh trên thế giới.
Hàn quốc, nhằm đối phó với khủng hoảng mà một trong những nguyên nhân chính là do dựa quá nhiều vào vốn vay nợ nước ngoài, Hàn quốc đã thay đổi đường lối kinh tế, mở cửa thúc đẩy thu hút vốn FDI. Cụ thể Hàn quốc ban hành những cải cách như Luật xúc tiến ĐTNN năm 1998, đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế trong lĩnh vực đầu tư, thực hiện tự do hoá thị trường chứng khoán và thị trường vốn. Bãi bỏ hoàn toàn hạn chế các nhà ĐTNN trong việc sáp nhập và mua lại các công ty Hàn quốc. Chế độ giao dịch ngoại hối tự do được áp dụng từ ngày 01/04/1999, từng bước mở cửa thị trường đất đai và bất động sản, thời hạn thuê đất của các doanh nghiệp có vốn FDI nâng lên tới 100 năm.
Singapore từ khi giành độc lập đã xác định phát triển đất nước thông qua công nghiệp hoá hướng xuất khẩu, điều này đồng nghĩa với việc mở cửa nền kinh tế và tiếp nhận vốn FDI. Hiện nay, vốn FDI tại Singapore chiếm tỷ trọng đến 72% trên GDP, góp 2/3 tổng vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp và tạo ra 90% giá trị gia tăng của ngành công nghiệp điện tử. Trong các doanh nghiệp có vốn FDI tại Singapore, chỉ hạn chế tỷ lệ vốn nước ngoài đối với một số ít dự án như ngân hàng (vốn nước ngoài không quá 40%), hàng không, hàng hải, sản xuất vũ khí, dịch vụ công cộng như điện, khí đốt, nước sinh hoạt, báo chí, viễn thông. Hồng kông có các chiến lược thu hút và sử dụng vốn FDI có phần giống với Singapore.
NICs Châu á đều mở rộng các hình thức đầu tư, hình thức góp vốn, doanh nghiệp có vốn FDI không bị hạn chế về chuyển vốn và lợi nhuận về nước của nhà ĐTNN. Cho phép các doanh nghiệp có vốn FDI tăng khấu hao tài sản cố định; chấp nhận một số khoản như: chi phí nghiên cứu, chi phí sản xuất thử, tiếp thị….
Công cụ thuế được sử dụng một cách sắc bén trong việc khuyến khích và ưu đãi đối với các doanh nghiệp có vốn FDI: Thuế suất thuế thu nhập giảm dần theo hướng ưu đãi hơn. Trong đó Hồng kông là nước có thuế suất thuế TNDN thấp nhất 17%, năm 2002 thuế suất thuế TNDN của Singapore giảm xuống còn 24,5%. Các qui định miễn giảm thuế được mở rộng, bổ sung; sử dụng ưu đãi và khuyến khích về thuế thu nhập thuế gián tiếp bằng các loại trừ ngày càng nhiều các khoản thu ra khỏi thu nhập chịu thuế. Trong quá trình xây dựng và thực hiện những ưu đãi, khuyến khích về thuế đối với vốn FDI, NICs Châu á đều hướng vào các ngành được coi là chiến lược, ngành mới và các ngành cần thiết được phát triển nhanh hơn.
2.3.2. Kinh nghiệm của Trung quốc
Trung quốc là quốc gia có nhiều điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá tương đồng với Việt nam, việc học tập kinh nghiệm sử dụng cơ chế tài chính để phát triển các doanh nghiệp có vốn FDI là điều rất cần thiết.
Trung Quốc ban hành Luật ĐTNN ngày 1/1/1979 và tháng 4/1990 đã tiến hành sửa đổi bộ luật này theo hướng có lợi hơn cho các nhà ĐTNN. Bộ luật đầu tư của Trung Quốc đã đáp ứng được nhu cầu mở cửa thu hút vốn FDI của Trung Quốc. Năm 2002, Trung Quốc thu hút được khoảng 50 tỷ USD vốn FDI - mức cao nhất từ trước tới nay - và trở thành nước thu hút vốn FDI lớn nhất thế giới, vượt qua ngưỡng 49 tỷ USD của Mỹ.
Nhà ĐTNN có thể lựa chọn các hình thức đầu tư sau: DNLD hợp tác (CIV); DNLD cổ phần (EJV); doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; mua cổ phần tại các công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn Trung quốc; thành lập chi nhánh công ty nước ngoài tại Trung quốc; thành lập công ty quản lý vốn (holding company); thành lập công ty cổ phần hữu hạn có vốn FDI.
Việc góp vốn liên doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất: Chính quyền giảm giá mua quyền sử dụng đất đối với một số dự án để khuyến khích đầu tư vào một số vùng, một số lĩnh vực công nghiệp cần phát triển. Những người sử dụng đất đầu tư vào các dự án phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp các dự án dịch vụ công cộng có thể được giảm 50% giá đất, riêng các Hoa kiều được giảm thêm 5%. Quyền sử dụng đất có thể đem bán, cho thuê, thế chấp hoặc các dạng chuyển nhượng khác để lấy tiền. Người chuyển nhượng và người được chuyển nhượng quyền sử dụng đất được tự do thương lượng về giá cả. Thời hạn của quyền sử dụng đất ở các đặc khu kinh tế Trung Quốc là 50-70 năm. Các doanh nghiệp có vốn FDI ở Trung quốc có quyền thế chấp hoặc cầm cố tài sản của mình, kể cả quyền sử dụng đất để vay vốn. Các doanh nghiệp có vốn FDI có thể vay vốn tại các ngân hàng nước ngoài hay trong nước, các tổ chức tài chính mà không cần sự phê duyệt. Chỉ trong trường hợp khoản vay nước ngoài được bảo lãnh bởi tổ chức tín dụng của Trung quốc thì việc bảo lãnh này mới cần cơ quan thẩm quyền phê duyệt.
Về cơ chế quản lý sử dụng vốn kinh doanh, môi trường đầu tư "mềm", từ ngày 1/1/1997, Thẩm Quyến đã áp dụng các mức giá dịch vụ thống nhất khiến các doanh nghiệp dùng vốn nước ngoài cùng nhân viên của họ được hưởng mọi quy chế như các doanh nghiệp và công nhân Trung Quốc. Việc Trung Quốc thực hiện chuyển đổi đồng Nhân dân tệ (NDT) trong tài khoản vãng lai đã giúp các doanh nghiệp có vốn FDI loại trừ được những hạn chế trong thanh toán quốc tế - chi trả các đối tác bên ngoài và chuyển lợi nhuận về nước. Đồng thời một số các ngân hàng nước ngoài cũng bắt đầu được phép kinh doanh Nhân dân tệ. Đặc biệt các doanh nghiệp có vốn FDI được thực hiện cơ chế khấu hao nhanh, trong khi các doanh nghiệp trong nước chỉ được phép khấu hao đường thẳng.
Về chính sách thuế, Trung Quốc đã nới lỏng hạn chế về thị trường thông qua việc loại bỏ dần từng bước các hàng rào phi thuế quan dành cho xuất khẩu, đồng thời đưa ra các chính sách ưu đãi về thuế thu nhập đối với những ngành nghề then chốt cần khuyến khích phát triển.
Thuế suất thuế lợi tức ở Trung quốc là 30%, để khuyến khích các nhà ĐTNN, chính sách thuế của Nhà nước Trung Quốc thể hiện ưu tiên trên các mặt là: ưu đãi về lĩnh vực đầu tư, về quy mô vốn, về công nghệ tiên tiến, sản xuất mặt hàng xuất khẩu, về thời hạn đầu tư, sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư..., như ưu đãi đối với khu vực đầu tư: các doanh nghiệp có vốn FDI xây dựng ở đặc khu kinh tế hoặc sản xuất, xây dựng ở khu khai thác được giảm thuế lợi tức xuống 15%; ưu đãi về thời hạn kinh doanh: đối với doanh nghiệp có vốn FDI mang tính sản xuất có thời hạn trên 10 năm, năm thứ nhất và năm thứ hai được miễn thuế thu nhập, từ năm thứ 3 đến năm thứ 5 được giảm một nửa thuế thu nhập tính từ năm bắt đầu có lãi.
Ưu đãi dành cho hoạt động tái đầu tư: Bao gồm các khoản ưu đãi dành cho hoạt động tái đầu tư thông thường và ưu đãi dành cho hoạt động tái đầu tư đặc biệt. Chính sách thuế còn áp dụng miễn thuế xuất nhập khẩu đối với các thiết bị sản xuất, nguyên liệu, phụ tùng, văn hoá phẩm... và các mặt hàng do các doanh nghiệp trong các đặc khu sản xuất. Đặc biệt năm 1991, Trung quốc đã xoá bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với các nhà ĐTNN.
Cơ chế kiểm tra giám sát tài chính doanh nghiệp: năm 1995, Bộ Tài chính Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các văn bản áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn FDI như: "Thông tư về một số vấn đề quản lý tài vụ của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài", "Thông tư về hệ thống chỉ tiêu đánh giá lợi ích kinh tế của doanh nghiệp có vốn nước ngoài" với 10 chỉ tiêu khác nhau tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động và kinh doanh theo luật.
2.3.3. Kinh nghiệm một số quốc gia thuộc khối ASEAN
So sánh về trình độ phát triển, nước ta có thể học hỏi kinh nghiệm của một số nước thuộc khối ASEAN như Thailand, Indonexia, Malaixia, Philipines, Singapore hơn các nước còn lại trong khối. Singapore đã được đề cập như một nước NICs châu á, nên đề cập các nước ASEAN hàm ý muốn nói 4 nước còn lại nêu trên.
Tuỳ mỗi nước ASEAN có những chính sách đối với các doanh nghiệp có vốn FDI khác nhau, nhưng nhìn chung tất cả các nước ASEAN đều tạo ra môi trường, cơ hội để thu hút FDI và tạo mọi điều kiện để các doanh nghiệp có vốn FDI phát triển. Tự do hoá và tư nhân hoá nền kinh tế luôn được chú trọng và đảm bảo; tạo ra môi trường tài chính tiền tệ thuận lợi, đặc biệt là thị trường chứng khoán phát triển… đã có tác dụng rất tích cực trong việc thu hút FDI và sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn FDI, gắn FDI với định hướng phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ nhất: Các qui định về góp vốn:
Thailand, Nhà ĐTNN được phép thành lập công ty sở hữu tới 75% vốn trong các dự án đầu tư trừ các lĩnh vực cấm đầu tư. Riêng các dự án liên quan đến an ninh, quốc phòng, tỷ lệ góp vốn của các nhà ĐTNN không vượt qua 60% và người Thái luôn phải chiếm 2/5 số ghế trong ban điều hành. Sở hữu 100% vốn nước ngoài đối với các dự án khuyến khích đầu tư, các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, thuỷ sản, khai khoáng với vốn trên 1 tỷ BATH (trong 5 năm hoạt động đầu tiên); dự án sản xuất xuất khẩu 80% sản phẩm; dự án tại khu vực khó khăn nhất.
Indonexia, về nguyên tắc, nhà đầu tư tự quyết định tỷ lệ góp vốn trong liên doanh. Riêng đối với những dự án cơ sở hạ tầng như vận hành cảng biển, phân phối điện dân dụng, viễn thông, hàng không, cung cấp nước, vận tải đường sắt, lò phản ứng năng lượng nguyên tử chỉ cho phép ĐTNN theo hình thức liên doanh với ít nhất 5% vốn trong nước. Trừ một số lĩnh vực ghi trong danh mục hạn chế đầu tư, nhà ĐTNN được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong hầu hết các lĩnh vực còn lại. Cuối năm 1998, Indonexia đã cho phép các nhà ĐTNN thoả mãn một số điều kiện nhất định được sở hữu tới 100% vốn trong lĩnh vực bán buôn và bán lẻ.
Malaixia, về nguyên tắc, các dự án sản xuất phải có ít nhất 70% vốn trong nước, trong đó có ít nhất 30% vốn của người Bumiputras. Tuy nhiên tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trong một số loại dự án sản xuất được qui định rất cụ thể.
Philipines, nhà ĐTNN được phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài trong tất cả các lĩnh vực, trừ các lĩnh vực hạn chế đầu tư. Các dự án xuất khẩu trên 60% sản phẩm không giới hạn tỷ lệ góp vốn sở hữu nước ngoài, chỉ cần đăng ký, không cần sự phê duyệt. Tuy nhiên có một số doanh nghiệp có vốn FDI phải cam kết giảm tỷ lệ vốn nước ngoài xuống dưới 40% trong vòng 30 năm, trừ dự án xuất khẩu 100% sản phẩm.
Thứ hai: Các qui định về vay vốn:
Thailand, các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn FDI được đối xử như nhau trong việc vay vốn phục vụ SXKD.
Indonexia, các doanh nghiệp có vốn FDI có không quá 49% vốn nước ngoài có thể vay vốn từ các ngân hàng thương mại quốc doanh để phục vụ SXKD. Các công ty cũng có thể huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán trong nước. Nhìn chung các nhà đầu tư được tự do tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư.
Malaixia, các công ty kiểm soát bởi người không cư trú tại Malaixia có thể vay dưới 10 triệu RM từ tất cả các nguồn tại Malaixia mà không cần xin phép cơ quan quản lý chức năng, chỉ hạn chế không được vay quá 3 lần vốn của công ty.
Philipines, các doanh nghiệp có vốn FDI có thể vay vốn trong và ngoài nước, các khoản vay nước ngoài phải được ngân hàng Trung ương phê duyệt, ngoại trừ một số khoản vay nhất định.
Thứ ba: Về sử dụng vốn:
Indonexia cho phép thực hiện khấu hao nhanh tài sản cố định. Malaixia thực hiện giảm các chi phí đầu vào trong tầm kiểm soát của Chính phủ như: cơ sở hạ tầng, điện, nước sinh hoạt, điện thoại, Internet…nhằm tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp có vốn FDI.
Thứ tư: Các ưu đãi về thuế:
Ưu đãi thuế TNDN đối với công nghệ tiên tiến: Malaysia qui định các dự án công nghệ cao có thể được xem xét miễn thuế hoặc giảm thuế trong thời hạn 5-10 năm. Thuế suất thuế TNDN ở Indonexia là: 10% đối với thu nhập dưới 25 triệu Rupi/năm; 15% đối với phần thu nhập từ trên 25 triệu đến 50 triệu Rupi/năm; 30% đối với thu nhập trên 50 triệu Rupi/năm. Philipines giảm dần từ 34% năm 1998 xuống 33% năm 1999 và 32% từ năm 2000. Malaixia 28%, Thailand 30%, Myanma 30%.
Thứ năm: Chính sách tỷ giá hối đoái:
Kể từ sau hiệp ước Plaza năm 1985, các nước ASEAN đều duy trì tỷ giá hối đoái thả nổi có kiểm soát, ổn định và sẵn sàng can thiệp khi cần thiết bằng các công cụ tài chính nhằm đảm bảo cho các nhà đầu tư duy trì được giá trị nguồn vốn của mình. Tỷ giá các đồng bản tệ của các nước ASEAN so với các đồng tiền mạnh như USD, Mác Đức, Yên Nhật...đều được tự do trong một phạm vi biên độ dao động không lớn lắm. Thực tế trong một số năm gần đây, các nước ASEAN đã gắn định đồng tiền quốc gia của mình vào đồng USD, nhằm duy trì một tỷ giá cao hơn so với tỷ giá thực tế để thu hút ĐTNN. Tuy vậy, việc duy trì quá lâu đồng bản tệ vào USD là một trong những nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan và sau đó lang sang các nước ASEAN.
Như vậy là trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, các nước ASEAN đã rất coi trọng việc hoạch định và sử dụng các chính sách tài chính để phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế. Các chính sách thuế, tín dụng, tỷ giá hối đoái, chi tiêu vốn ngân sách... được sử dụng một cách linh hoạt trong hơn 3 thập kỷ qua đã tạo nên những bước phát triển mạnh mẽ ở Đông Nam á.
2.3.4. Những bài học rút ra từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các nước.
Từ việc nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia dưới góc độ cơ chế tài chính thúc đẩy các doanh nghiệp có vốn FDI phát triển, rút ra được những bài học rất bổ ích trong việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế tài chính đối với các doanh nghiệp có vốn FDI trong điều kiện cạnh tranh và hội nhập ở nước ta. Những bài học kinh nghiệm tập trung một số điểm chính sau:
- Trước hết cần có một chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phù hợp với điều kiện của đất nước và xu thế của thời đại, trên cơ sở đó hoạch định chiến lược tài chính phù hợp. Đây là căn cứ để xây dựng cơ chế tài chính cho các doanh nghiệp hoạt động trong đó có các doanh nghiệp có vốn FDI. Có như vậy cơ chế tài chính mới mở đường, tạo cơ hội thúc đẩy được các doanh nghiệp phát triển và bản thân cơ chế tài chính mới được xử lý trong một tổng thể, không chắp vá, không lạc hướng.
- Khuyến khích ĐTNN: nước ta còn nghèo, công nghệ lạc hậu, tích luỹ nền kinh tế còn thấp, do vậy cần phải coi trọng nguồn vốn FDI mà trong đó phải có những cơ chế, chính sách tài chính phù hợp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có vốn FDI phát triển, xây dựng được môi trường đầu tư hấp dẫn, thể hiện ở hệ thống hạ tầng cơ sở hoàn thiện, hệ thống pháp luật tiếp cận được với thông lệ quốc tế và phải có những cơ chế tài chính cởi mở hơn nữa.
- Việc thiết lập một chính sách thuế ưu đãi luôn có vai trò quan trọng song đây không phải là yếu tố qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0020.doc