Đề tài Hoàn thiện hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp nước ta hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU 1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA DOANH NGHIỆP 3

1.1 Những vấn đề chung về hợp đồng thương mại 3

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm về hợp đồng thương mại 3

1.1.2. Phân loại hợp đồng thương mại 4

1.1.2.1. Hợp đồng mua bán hàng hoá 5

1.1.2.2 Hợp đồng cung ứng dịch vụ 8

1.1.3. Điều kiện, cơ cấu, thưỏng phạt trong một hợp đồng thương mại. 10

1.1.3.1. Nội dung các điều kiện của một hợp đồng thương mại 10

1.1.3.2. Cơ cấu của một hợp đồng thương mại 14

1.1.3.3. Thưởng phạt trong hợp đồng thương mại 17

1.1.4. Ý nghĩa của hoạt động ký kết hợp đồng trong việc thực hiện hợp đồng thương mại 18

1.2. Nội dung hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp 19

1.2.1. Hoạt động chuẩn bị giao dịch tiến tới ký kết hợp đồng thương mại 19

1.2.1.1. Những yêu cầu của việc chuẩn bị giao dịch đàm phán 19

1.2.1.2. Hoạt động chuẩn bị trước khi giao dịch đàm phán 19

1.2.2. Đàm phán ký kết hợp đồng gián tiếp 24

1.2.3. Đàm phán ký kết hợp đồng thương mại theo hình thức trực tiếp trong kinh doanh 26

1.2.3.1. Đàm phán thương mại, nguyên tắc đảm bảo trong quá trình đàm phán 26

1.2.3.2. Nội dung đàm phán thương mại 28

1.3 Kết thúc hoạt động ký kết hợp đồng thương mại 29

Chương 2 31

THỰC TRẠNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY 31

2.1. Khái quát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam 31

2.1.1. Thực trạng các doanh nghiệp ở các doanh nghiệp Việt Nam 31

2.1.2 Khái quát hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay 34

2.2. Thực trạng hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp nước ta 39

2.2.1. Thực trạng trong quá trình chuẩn bị ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp 39

2.2.2. Thực trạng trong quá hoạt động đàm phán ký kết hợp đồng thương mại của các doanh nghiệp 46

2.2.3. Thực trạng hoạt động ký kết hợp đồng thương mại trong kinh doanh của các doanh nghiệp 48

Chương 3 50

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NƯỚC TA 50

3.1. Định hướng phát triển doanh nghiệp Việt Nam trong những năm tới. 50

3.2. Biện pháp hoàn thiện ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp Việt Nam. 52

3.2.1. Nâng cao chất lượng ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp Việt Nam. 52

3.2.2. Một số kiến nghị đối với nhà nước 61

Kết luận 64

Danh mục tài liệu tham khảo 66

 

 

doc68 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2345 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỗi bên đều có thể rút ra bài học kinh nghiệm để tự mình hoàn thiện. 1.2.3.2. Nội dung đàm phán thương mại Các nội dung chính trong đàm phán thương mại - Tên và chủng loại hàng hóa giao dịch mua bán: Tên hàng phải đươc diễn tả như thế nào để không có sự hiểu lầm. - Giao dịch về chất lượng hàng hóa mua bán: Trong quá trình đàm phán thương mại điều quan trọng nhất là thỏa thuận sử dụng phương pháp xác định chất lượng - Giao dịch về số lượng hàng hóa mua bán: Nhằm nói lên mặt lượng của hàng hóa được giao dịch, điều này bao gồm các vấn đề về đơn vị tính số lượng hoặc trọng lượng của hàng hóa, phương pháp quy định số lượng và phương pháp xác định trọng lượng. - Bao bì: Trong điều khoản về bao bì, các bên thường phải thỏa thuận với nhau những vấn đề về yêu cầu chất lượng của bao bì, phương thức cung cấp bao bì và giá cả của bao bì. - Giao dịch về giá cả hàng hóa: Trong giao dịch giá cả là một nội dung quan trọng. Giá cả mua bán phải là giá cả thị trường. Hai bên giao dịch với nhau phải thống nhất về mức giá, phương pháp xác định mức giá, cơ sở của giá cả và giảm giá. Trong quá trình giao dịch thương mại, bên bán thách giá và bên mua trả giá. Nguyên tắc trả giá và đặt giá trong giao dịch tuân thủ phương châm: ''Ai đặt giá cao và giữ giá thường bán với giá cao'', ''Ai trả giá thấp thường mua được rẻ'', ''Ai nhượng bộ quá lớn sẽ bị thua thiệt''. Chính vì vậy khi đàm phán về giá các doanh nghiệp nên thách giá cao và nhượng bộ phải từ từ. - Giao dịch về thời hạn và địa điểm giao hàng: Là các thỏa thuận xác định thời hạn và địa điểm giao hàng, phương thức giao hàng và thông báo giao hàng. Thanh toán và kết thúc giao dịch Hai bên thống nhất với nhau về phương thức thanh toán, loại tiền thanh toán, về điều kiện và thời gian thanh toán, trách nhiệm và quyền lợi hai bên trong thanh toán. Quy định với nhau về thời hạn kết thúc giao dịch, chuẩn bị cho lần giao dịch mới. 1.3 Kết thúc hoạt động ký kết hợp đồng thương mại Sau khi ký kết hợp đồng thương mại, các bên vẫn phải thể hiện thiện chí hợp tác kinh doanh của mình nhằm gây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài với đối tác. Các bên phải đảm bảo việc thực hiện đúng hợp đồng đã ký kết. Song trong nhiều trường hợp, đặc biệt gặp ở các hợp đồng thương mại quốc tế có sự biến động. Hợp đồng được ký kết có thể thay đổi sau một thời hạn tương đáng kể. Từ thời điểm hợp đồng hợp đồng được ký kết nếu hoàn cảnh không có sự thay đổi hay sự thay đổi không đáng kể thì lợi ích của các bên vẫn ở thế cân bằng không có sự điều chỉnh hợp đồng. Song khi nghiên cứu điều kiện có sự thay đổi còn có thể phá vỡ thế cân bằng về lợi ích mà hai bên mong muốn đạt được ban đầu. Ví dụ,ở thời điểm ký kết hợp đồng giá dầu thô trên thị trường là 80 USD\1 thùng nhưng sau đó giá dầu trên thị trường quốc tế có sự biến động mạnh lên 120 USD\1 thùng, mà đối tượng của hợp đồng lại có liên quan đến giá dầu chẳng hạn. Điều đó có nghĩa là một trong hai bên sẽ được lợi nhiều hơn và tất nhiên bên kia sẽ phải chịu thiệt hại nhiều hơn. Khi đó vấn đề điều chỉnh hợp đồng có thể đặt ra vì trong hoàn cảnh đó các bên buộc phải chọn một trong 2 khả năng: hoặc là hủy bỏ hợp đồng hoặc là điều chỉnh hợp đồng. Thông thường khả năng hủy bỏ hợp đồng là rất ít vì như vậy phải tìm đối tác mới, thiết lập lại từ đầu mối quan hệ thương mại. Các doanh nghiệp lựa chọn điều chỉnh hợp cho phù hợp với hoàn cảnh nhằm tái tạo sự cân bằng về lợi ích 2 bên tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tuy nhiên nội dung hợp đồng chỉ có thể được khi có sự đồng ý thương lượng của 2 bên. Vì vậy, người thương thảo hợp đồng cần phải thể hiện cụ thể rõ ràng các trường hợp có thể điều chỉnh nội dung của hợp đồng ngay tại thời điểm ký kết hợp đồng. Chương 2 THỰC TRẠNG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Khái quát tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam 2.1.1. Thực trạng các doanh nghiệp ở các doanh nghiệp Việt Nam Những năm gần đây cùng với xu hướng hội nhập nền kinh tế nước ta đang có những bước phát triển mạnh mẽ. Cụ thể năm 2007, tốc độ tăng trưởng GDP là 8,44%, trong quý 1 năm 2008 đạt 7,4%. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2007 tăng 23,9% so với năm 2006. Trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng 20,5% và kim ngạch nhập khẩu tăng 27% (so với kế hoạch 15%) do việc thực hiện cam kết mở cửa thị trường và cắt giảm thuế thu nhập khẩu...Giá trị xuất khẩu hàng hoá Việt Nam năm 2007 ước đạt 48 tỷ. Tuy nhiên trong hiện nay, tình hình kinh tế gặp nhiều bất lợi do tác động của kinh tế thế giới, những bất cập yếu kém trong quản lý điều hành kết hợp các nguyên nhân nội sinh từ nền kinh tế. Như giá dầu thô quý 1 năm 2008 tăng gần 40% so với giá bình quân năm 2007 và dự báo tiếp tục ở mức cao như hiện nay.Thậm chí có dự báo cao hơn, lên đến 150 USD\thùng.Giá phôi thép đầu năm 2008 đã tăng 45,1% so với cuối năm 2007, hiện giá chào hàng đã lên tới 900USD\tấn.Giá phân Urê, giá bột mỳ, giá gạo tháng 3 năm 2008 đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2007. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2007 tăng cao ước tính tăng 12,06% so với tháng 12 năm 2006. Quý 1 năm 2008 lạm phát cao vẫn ở mức 2 con số, giá tiêu dùng tháng 3 tăng 9,19% so với tháng 12 năm 2007; nhập khẩu tăng tới hơn 7 tỷ USD và bằng 56,5% kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy đất nước ta vừa đứng trước những cơ hội mới, vừa có những thách thức mới tác động đến các hoạt động kinh doanh và hoạt động tổ chức quản lý của các doanh nghiệp. Đồng thời sự ra đời của Luật doanh nghiệp 2005, đã có những tác động tích cực đến quá trình phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam, góp phần tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng hơn cho tất cả các loại hình doanh nghiệp. Về môi trường chính sách, tiếp theo sự ra đời của các Nghị định, hướng dẫn Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư, mô hình một cửa liên thông nhằm đơn giản hoá các quy định về thủ tục hành chính trong ba khâu đăng ký kinh doanh, đăng ký thuế và cấp giấy phép khắc dấu cho doanh nghiệp. Trong 5 tháng đầu năm 2007, đã có 20.300 doanh nghiệp thành lập - đăng ký kinh doanh với số vốn đăng ký 135.000 tỷ đồng. Cả năm 2007 có 54.000 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn gần 22 tỷ USD. Xét tình hình chung của từng loại hình doanh nghiệp: Thứ nhất doanh nghiêp nhà nước không chỉ lớn hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác về quy mô, doanh nghiệp nhà nước còn rất mạnh nhờ có vị trí đắc địa,diện tích rộng, thương hiệu được tồn tại nhiều năm...và quan trọng còn có các bộ, ngành, tỉnh, thành phố chủ quản đứng đằng sau. Nhờ vậy một số doanh nghiệp nhà nước có lợi thế được hưởng nhiều chính sách đặc biệt nên có kết quả kinh doanh và hiệu quả kinh doanh khá cao. Về số lượng, các doanh nghiệp nhà nước hiện nay đã giảm nhanh chóng hiện còn khoảng hơn 3% trong tổng số các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế quốc dân.Nguyên nhân là do kết quả của đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần,đặc biệt là khi Luật Doanh nghiệp 2005 ra đời và thực hiện chủ trương của nhà nước về sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, giải thể những doanh nghiệp nhỏ, làm ăn thua lỗ, chuyển sang cổ phần hóa. Năm 2007, theo kế hoạch sẽ sắp xếp khoảng 650 doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, cổ phần hoá khoảng 550 doanh nghiệp, gồm các Tổng Công ty, ngân hàng thương mại lớn, doanh nghiệp hoạt động công ích... Trong 5 tháng đầu năm 2007, ước tính đã sắp xếp, chuyển đổi được 80 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hoá 45 doanh nghiệp; giải thể, phá sản: 4; giao bán: 4; chuyển thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: 5; hợp nhất, sáp nhập: 20; chuyển sang mô hình mẹ con. Trong năm 2007 đã thực hiện cổ phần hoá 20 Tổng Công ty và ngân hàng thương mại. Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng chưa kịp thời, đồng bộ và thiếu tập trung, nhất quán. Phần lớn các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa chủ động xây dựng chiến lược phát triển lâu dài và còn thiếu kế hoạch kinh doanh, đào tạo, quản lý cụ thể; các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang lúng túng trong việc liên kết, nhất là liên kết trong cùng một hiệp hội ngành nghề để giúp đỡ nhau phát triển. Chính quyền địa phương nhận thức về hoạt động của hiệp hội cũng chưa được đầy đủ. Thứ hai là các doanh nghiệp tư nhân ở nước ta ngày càng tăng về số lượng. Các doanh nghiệp tư nhân bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, hộ gia đình (không kể hộ gia đình trong lĩnh vực nông, lâm, thủy hải sản) đã tăng nhanh về số lượng trong thời gian ngắn.Năm 2003 là 92.602 doanh nghiệp. Tính riêng năm 2007 sẽ có khoảng gần 40.000 doanh nghiệp tư nhân đã thành lập và đăng ký kinh doanh. Trong đó hai loại hình doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn có số lượng tăng nhanh nhất.Tuy nhiên, loại hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn có tỷ lệ tăng cao hơn. Mặc dù số lượng các công ty cổ phần thấp nhất nhưng lại có tổng số vốn đăng ký là cao nhất trong các loại hình doanh nghiệp Về quy mô của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam phần lớn được xếp vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người). Tính đến thời điểm hiện nay thì số các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới khoảng 98% trên tổng số doanh nghiệp tư nhân trên toàn quốc.Doanh nghiệp tư nhân vẫn tập trung chủ yếu vào ngành thương nghiệp, dịch vụ, khách sạn; tiếp đến là ngành công nghiệp; ngành xây dựng vận tải;...Các doanh nghiệp tư nhân tập trung nhiều nhất ở các vùng trọng điểm, chủ yếu ở các tỉnh thành phố có nền kinh tế phát triển như: Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Đà Nẵng, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên ... Thứ ba, về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cùng với chính sách mở cửa, và sự ra đời của luật đầu tư các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh về số lượng và quy mô hoạt động. Số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 17% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động hiện nay. Năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đổ vào Việt Nam đã vượt con số 15 tỷ USD, vượt 15% kế hoạch dự kiến. Tổng số dự án cấp trong năm 2007 đạt khoảng 1300 dự án, với tổng vốn 14 tỷ USD. Công nghiệp vẫn đang là ngành thu hút vốn đầu tư lớn nhất, với 7,55tỷ USD, chiếm 56,4% tổng vốn đầu tư đằng ký. Sau công nghiệp là ngành dịch vụ với 5,65 tỷ USD. Doanh thu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2007 ước đạt gần 40 tỷ USD, tăng 25% so với năm 2006. Các doanh nghiệp này thu hút hơn 13.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lên 1.25 triệu người. Lượng vốn đầu tư chủ yếu tập trung ở các khu công nghiệp, khu chế xuất. 2.1.2 Khái quát hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay Nền kinh tế nước ta trong năm qua tăng trưởng nhanh thứ hai Châu Á, bước lên vũ đài toàn cầu. Các nhà đầu tư hoan nghênh Việt Nam như một con hổ năng động nhất Đông Nam Á . Tính chung đến cuối năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) ước tăng 17% so với năm 2006. Trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,4%; khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; đối với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18%. Nếu xét cả quy mô và tốc độ kim ngạch xuất khẩu thì khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt kết quả cao. Trong đó khu vực doanh nghiệp FDI, năm 2007 đạt kim ngạch xuất khẩu 27,75 tỷ USD (kể cả dầu thô) chiếm tỷ trọng 57,5% tổng kim ngạch cả nước và tăng 20,5% so với năm 2006.Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước chỉ đạt 20,25 tỷ USD chiếm 42,2% tổng kim ngạch cả nước và tăng 20,6% năm 2006. Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ 70% tài sản quốc gia và hàng năm đóng góp 40% tổng thu ngân sách nhà nước. Vốn đầu tư của khu kinh tế nhà nước luôn luôn chiếm tỷ lệ cao trong tổng đầu tư xã hội, chiếm khoảng 46%, quy mô lao động bình quân một doanh nghiệp nhà nước cao 499,5 người. Nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP không cân xứng chỉ ở mức 37% - 39%, theo báo cáo của Kiểm toán nhà nước: lợi nhuận trước thuế của các doanh nghiệp nhà nước là rất thấp từ 0,18% đến 0,8% trong đó các tập đoàn có vẻ rất mạnh như công nghiệp đóng tàu là 0,42%, dệt may là 0,8%. Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước được vay tới 80% lượng vốn từ ngân hàng Thương mại, các tổ chức tín dụng và cũng là khu vực có nợ nước ngoài lớn nhất chiếm tới 70% lượng vay. Một số doanh nghiệp được chính phủ vay hộ tiền để kinh doanh đầu tư hay đầu tư hay được nhà nước bảo lãnh cho các khoản vay của mình. Các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực độc quyền, hay có nhiều lợi thế về mặt bằng, về nền tảng từ trước như: cảng biển, điện lực, nước sạch, bưu chính viễn thông, dịch vụ đóng tàu, khai thác và chế biến than, xi măng, sắt thép, rượu bia và nước giải khát, đầu tư xây dựng nhà ở, dầu khí, dịch vụ vận tải, đường sắt và hàng không...thì làm ăn có hiệu quả. Hiện nay tổng số nợ vốn vay ngân hàng của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh khoảng 80.000 - 95.000 tỷ đồng. Một số các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thương mại, dịch vụ, công trình giao thông, xây dựng, chế biến nông sản, may mặc, cung ứng vật tư hàng hóa ,in ấn và bao bì, mía đường...thuộc địa phương là những công ty thuộc sự quản lý của tỉnh thành phố. Số nợ xấu của khối doanh nghiệp này ước tính cũng lên tới 2.500 - 3.000 tỷ đồng. Các tổng công ty xây dựng, công ty vận tải là nhóm doanh nghiệp có số nợ quá hạn cao nhất, kéo dài nhất. Số nợ ước tính hiện nay lên tới 12.300 tỷ chủ yếu là nợ xấu. Theo đánh giá của Bộ Tài chính hiện nay chỉ có 44,4% doanh nghiệp nhà nước được phân loại theo nhóm A (tức là có lãi), 39,5% thuộc nhóm B và số còn lại thuộc nhóm. Các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ chiếm khoảng 19,5% tổng số các doanh nghiệp nhà nước. Có nhiều nguyên nhân tạo ra lỗ và nợ lớn như: nguyên nhân do máy móc thiết bị hiện có còn hạn chế; hoặc là cũ kỹ về thời gian sử dụng, chờ thanh lý nhưng không tận; hoặc là lạc hậu về trình độ thiết bị kỹ thuật công nghệ lên đến 10 năm - 30 năm; hoặc được đầu tư hiện đại nhưng không huy động được hết công suất (nhiều doanh nghiệp chỉ đạt 50% - 60%); hoặc do ham đầu tư lớn dẫn đến chi phí khấu hao quá cao, chi phí lãi vay lớn; nguyên nhân do sử dụng nguyên vật liệu vượt định mức, lãng phí trong đầu tư sản xuất, sản phẩm hư hỏng; hoặc do vốn chủ sở hữu ít, tỷ lệ vốn vay lớn trong khi mặt bằng lãi suất ở Việt Nam là khá cao thường có mức là 2 chữ số, cao hơn tỷ lệ lợi nhuận sản xuất kinh doanh bình quân chung. Hiện nay tiến trình cải cách doanh nghiệp nhà nước đã bước sang giai đoạn quan trọng, đó là cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước lớn. Theo báo cáo vẫn còn khoảng 2.200 doanh nghiệp nhà nước loại lớn tổng vốn là 31 tỷ USD, tương đương 31% GDP. Năm 2007 dự tính thực hiện cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn với tổng giá trị 10 tỷ USD. Thủ tướng chính phủ đã tiến hành phê duyệt 69 dự án phải sắp xếp đối với doanh nghiệp nhà nước. Thực tế cho thấy tiến trình cổ phần hóa sẽ tiến hành trên nguyên tắc thị trường gắn liền với niêm yết thị trường chứng khoán. Cổ phần hóa đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn. Có stới 2\3 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán là các công ty cổ phần hóa. Các công ty này hoạt động minh bạch hơn, quản trị doanh nghiệp cũng tốt hơn và giá trị doanh nghiệp tương đương với giá trị thị trường. Kết quả một cuộc điều tra trên 850 doanh nghiệp sau cổ phần hóa cho thấy bình quân vốn điều lệ tăng 44%, doanh thu tăng 23,6%, lợi nhuận sau thuế tăng 139,7% đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng 24,9% thu nhập chung của doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng có 49%, trong khi đó, con số này của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 137% đóng góp vào ngân sách nhà nước tăng 24,9% thu nhập trung bình tăng 12% và mức cổ tức trung bình chia cho các cổ đông cũng tăng 17,11%. Đối với doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Song trên thực tế nhiều doanh nghiệp đã vườn lên, có khả năng cạnh tranh và giữ được thị phần tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, kinh doanh có lãi không chỉ ở thị trường nội địa mà còn có khả năng xâm nhập vào thị trường quốc tế, ngay cả những thị trường khó tính như: Nhật, Mỹ, Đài Loan, Hàn Quốc...theo số liệu thông kê, chỉ tính riêng năm 2006 đã có 19 nhóm sản phẩm, dịch vụ được xếp vào nhóm mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao của các doanh nghiệp tư nhân. Hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam có thị trường xuất khẩu đa dạng, các doanh nghiệp tư nhân có khả năng năng động cao khi xâm nhập vào thị trường thế giới. Tuy nhiên, các doanh nghiệp tư nhân hiện nay gặp nhiều hạn chế do giá thành sản phẩm cao, chất lượng sản phẩm và mẫu mã kém, thiếu nguồn nhân lực. Lao động vừa thừa thiếu không đáp ứng được yêu cầu kinh doanh hiện tại. Về lao động kỹ thuật: lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế và chuyển biến chậm 84,48% lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật. Tính hợp tác giữa các doanh nghiệp cùng ngành và giữa các ngành kém. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong quá trình toàn cầu hóa,thị trường trong nước trở thành một bộ phận quan trọng của thị trường thế giới. Các doanh nghiệp nước ta nói chung buộc phải tiến hành hoạt động kinh doanh trong môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Doanh nghiệp thay vì chỉ chú trọng tới thị trường nội địa như trước kia thì phải tìm cách mở rộng thị trường quốc tế thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia.Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Chỉ xét trong quý I năm 2008, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp vốn đầu tư thực hiện trên 1,68 tỷ USD, tăng 24% so với vốn thực hiện của cùng kỳ năm trước. Doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong qúy I năm 2008 ước tính đạt 7.600 triệu USD, tăng 27% so với cùng kỳ năm trước; trong đó giá trị xuất khẩu ước đạt 5.398 triệu USD, tăng 20% so với cùng kỳ; nhập khẩu đạt 6100 triệu USD, tăng 39% so với cùng kỳ năm trước, nộp ngân sách 355 triệu USD, tăng 19% so với cùng kỳ.Trong tháng 3 năm 2008, khối doanh nghiệp đâù tư nước ngoài đã thu hút thêm được 12.000 lao động, đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tính đến thời điểm này lên 1.172 nghìn lao động, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể: Về tăng trưởng kinh tế. Tỷ lệ đóng góp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng GDP của cả nước tăng dần qua các năm. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường ở mức 15% - 20% \ năm trong qua, cao hơn tốc độ tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Về thu hút lao động. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần giải quyết việc làm cho lao động, tham gia phát triển nguồn nhân lực cho cả nước. Thông qua đó, góp phần đáng kể trong việc đào tạo tay nghề, tiếp thu kỹ năng, công nghệ, và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, rèn luyện tác phong lao động công nghiệp cho lao động Việt Nam. Thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài, công nghệ và kỹ thuật tiên tiến từ nước ngoài đã được chuyển giao và thực hiện sản xuất trong nước. Trong đó thể hiện rõ nhất là các thiết bị trong ngành Bưu chính viễn thông, công nghiệp lắp ráp và chế tạo ôtô, xe máy, kỹ thuật điện tử, tin học...Cùng với việc chuyển giao kỹ thuật là việc từng bước chuyển giao quy trình quản lý tiên tiến, tay nghề và trình độ quản lý của nhân lực Việt Nam vì thế được nâng lên đáng kể. Đầu tư trực tiếp nước ngoài thông qua doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã góp phần đẩy nhanh quá trình hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế trọng điểm và mũi nhọn của nền kinh tế. Sự phát triển của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy cao cạnh tranh trong nội bộ nền kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực do kinh tế nhà nước đảm nhận. Hiện nay trừ một số ngành nghề mà nhà nước độc quyền còn lại hầu hết các ngành nghề sản xuất kinh doanh khác các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều tham gia. Trong đó nhiều lĩnh vực, ngành nghề đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn như: Lương thực, thực phẩm, chế biến, điện tử, điện lạnh, công nghệ thông tin...Chính sự phát triển phong phú đa dạng đó đã tác động mạnh tới các doanh nghiệp nhà nước, buộc các khu vực kinh tế nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đổi mới công nghệ, phương thức kinh doanh, dịch vụ để tồn tại và đứng vững trên thị trường. Qua đó, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế khác, làm cho nền kinh tế trở nên năng động, đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn buộc cơ chế quản lý của nhà nước phải đổi mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường. 2.2. Thực trạng hoạt động ký kết hợp đồng thương mại của doanh nghiệp nước ta 2.2.1. Thực trạng trong quá trình chuẩn bị ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp Hoạt động thương mại trong thời kỳ hội nhập ngày nay quá phong phú đa dạng và phức tạp. Vì vậy, khi giao kết hợp đồng thương mại đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm bắt, hiểu biết tốt những thông tin về mặt hàng, đối tác, thị trường, pháp luật cũng như phải chuẩn bị kỹ năng, kinh nghiệm đàm phán, soạn thảo các hợp đồng chặt chẽ. Trước hết xem xét quá trình chuẩn bị thông tin. Trong thời đại ngày nay, thời đại của thông tin và bùng nổ thông tin, dù là giao dịch thương mại hay trong bất kỳ lĩnh vực nào, người nắm bắt được thông tin nhanh chóng, chính xác nhất sẽ là người chiến thắng. Nhận thức được vai trò quan trọng này của thông tin đặc biệt đối với hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng củng cố, xây dựng hệ thống thông tin của doanh nghiệp, tăng cường hoạt động tìm kiếm, xử lý nguồn thông tin. Hệ thống thông tin kinh tế, xã hội phát triển đã giúp cho doanh nghiệp cập nhật được nguồn thông tin phong phú và đa dạng. Nhìn chung các doanh nghiệp ngày nay nhạy bén hơn trong công tác tìm kiếm thông tin. Nguồn thông tin được tìm kiếm là về thị trường, sản phẩm, tìm đối tác, bạn hàng, cập nhật các thông tin về luật pháp trong nước cũng như quốc tế...Có 3 nguồn thông tin quan trọng nhất mà các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng là: Thu thập thông tin qua Internet,các phương tiện thông tin đại chúng; thông qua các tổ chức xúc tiến của Chính Phủ và thông qua các nguồn thông tin từ đối tác, bạn hàng. Các khách hàng cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà cung ứng lần đầu tiên. Cụ thể trong các doanh nghiệp xuất khẩu thì có đến 52,7% các doanh nghiệp tiến hành thu thập thông tin qua con đường này, chứng tỏ các nhà xuất khẩu Việt Nam rất tin tưởng vào khách hàng nước ngoài; có 43,6% số doanh nghiệp dựa vào các nguồn thông tin trên Internet; 40% các doanh nghiệp thu thập thông tin qua các tổ chức hỗ trợ xuất khẩu của Chính phủ; và chỉ có 21,85% lấy thông tin từ các đại sứ quán và tham tán thương mại ở nước ngoài, còn lại là thu thập thông tin từ các nguồn khác nhau như hội chợ thương mại, các hoạt động điều tra khảo sát thị trường... Các doanh nghiệp tìm kiếm thông tin qua các tổ chức xúc tiến của Chính Phủ chủ yếu từ các kênh chính thức từ Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, câu lạc bộ doanh nghiệp, công báo, cục xúc tiến thương mại Việt Nam.... Theo thống kê, cụ xúc tiến thương mại đã thực hiện cung cấp và hỗ trợ trực tiếp \ gián tiếp các thông tin về kinh tế, thương mại, đầu tư, cơ hội kinh doanh và hợp tác cho trên 1000 lượt doanh nghiệp. Năm 2007, chương trình xúc tiến thương mại quốc gia đã hỗ trợ gần 4500 lượt doanh nghiệp tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại trong và ngoài nước. Có hơn 2300 hợp đồng, bản thỏa thuận, ghi nhớ được ký kết, với tổng giá trị trên 400 triệu USD. Trong các hội chợ triển lãm trong nước đã thu hút được 1580 lượt doanh nghiệp tham gia với tổng giá trị hợp đồng, thỏa thuận hợp tác ký kết tại hội chợ lên tới 288 triệu USD. Tháng 7\2007, tại hội chợ Las Vegas Market, Hoa Kỳ đã có 16 doanh nghiệp Việt Nam tham gia và tại hội chợ Trung Quốc - ASEAN lần thứ tư (tháng 10\2007) có 90 doanh nghiệp Việt Nam tham gia. Tại hai hội chợ này đã có hơn 200 hợp dồng đã được ký kết tại hội chợ, trong đó giá trị các hợp đồng ký tại hội chợ Las Vegas Market là 134.000 USD, tại hội chợ Trung Quốc - ASEAN là 800 tỷ đồng. Nguồn tin từ Phòng Thương mại công Việt Nam (VCCI), trong khuôn khổ chuyến thăm ở Mỹ từ ngày 18 đến ngày 24\6\2007, bên cạnh các hoạt động nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam sẽ tổ chức 3 diễn đàn xúc tiến thương mại về đầu tư tại các trung tâm thương mại - tài chính lớn của Mỹ. Chủ tịch nước sẽ sắp xếp thời gian để tham dự một số sự kiện trong số những hoạt động của giới doanh nghiệp. Trong 120 doanh nghiệp tháp tùng Chủ tịch nước bên cạnh các tập đoàn lớn, các tổng công ty Nhà nước thì còn có rất nhiều các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác. Trong khi đó, rất nhiều doanh nghiệp Mỹ đang làm ăn tại Việt Nam cũng cử đại diện về nước để làm việc với đối tác Việt Nam ngay trên đất Mỹ.Trong các buổi gặ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6155.doc
Tài liệu liên quan