LỜI MỞ ĐẦU 0
Chương 1: Cơ sở lý luận về phân tích tài chính tại chi nhánh ngân hàng thương mại 3
1.1. Một số vấn đề về phân tích tài chính tại NHTM 3
1.1.1. Khái niệm 3
1.1.1.1. Ngân hàng 3
1.1.1.2. Phân tích tài chính 3
1.1.1.3. Các báo cáo tài chính của NHTM 4
1.1.2. Mục tiêu và vai trò của phân tích tài chính tại ngân hàng thương mại 12
1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính ở NHTM 14
1.2. Phương pháp phân tích 15
1.2.1. Phương pháp so sánh. 15
1.2.2. Phương pháp phân tổ 16
1.2.3. Phương pháp phân tích tỉ lệ. 16
1.2.4. Phương pháp DuPont 17
1.2.6. Phương pháp chỉ số. 18
1.2.7. Phương pháp cân đối. 18
1.2.8. Phương pháp hồi quy. 19
1.3. Nội dung phân tích tài chính NHTM 19
1.3.1. Phân tích cấu trúc tài chính ngân hàng 19
1.3.2. Phân tích hiệu quả hoạt động ngân hàng. 21
Chương 2: Thực trạng hoạt động phân tích tài chính tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội 26
2.1. Khái quát về ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội 26
2.1.1. Quá trình thành lập và phát triển 26
2.1.3. Khái quát hoạt động kinh doanh của Chi Nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội 28
2.1.4. Những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật ảnh hưởng tới hoạt động tài chính của ngân hàng 29
2.2. Thực trạng PTTC tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội 33
2.2.1. Phân tích cấu trúc tài chính ngân hàng 33
2.2.2. Phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng 41
2.2.3. Phân tích rủi ro trong hoạt động ngân hàng 43
2.2.4. Nhận xét chung về hoạt động phân tích tài chính của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội 46
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính tại Chi Nhánh Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội 48
3.1. Định hướng hoạt động của Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội 48
3.2.Các giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính ở VCB Hà Nội. 50
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính 50
3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác phân tích BCTC tại VCB Hà Nội. 73
3.3.1. Đối với các cơ quan quản lý Nhà nước. 73
3.3.2. Đối với Ngân hàng VCB Hà Nội 74
Kết luận 77
80 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính tại Chi Nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoản, các ngân hàng thương mại đã đua nhau tăng lãi suất huy động VND, lãi suất qua đêm đã có lúc tăng tới 43%/năm, cùng với đó là tỷ lệ lạm phát tăng cao. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt: phát hành tín phiếu bắt buộc phân bổ cho các tổ chức tín dụng, tăng lãi suất cơ bản VND (lãi suất cơ bản VND sau 2 đợt điều chỉnh đã tăng từ 8,75%/năm lên 14%/năm), tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu... Đến tháng 09/2008, khi đà tăng lạm phát được ngăn chặn, NHNN đã áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt linh hoạt: liên tục giảm lãi suất cơ bản VND (từ 20/10/2008 đến 19/12/2008 đã có 5 lần giảm từ 14%/năm xuống 8,5%/năm), cùng với đó lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng được giảm dần.
Cùng với những biến động phức tạp của lãi suất, năm 2008 đã chứng kiến nhiều biến động khó lường của tỷ giá ngoại tệ. Nhằm tạo điều kiện để tỷ giá điều chỉnh linh hoạt hơn, phản ánh sát tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường, góp phần hạn chế nhập siêu và khuyến khích xuất khẩu, bảo đảm tăng trưởng kinh tế hợp lý, phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế, trong năm 2008, NHNN đã nới dần biên độ tỷ giá ngoại tệ giữa VND và USD từ ± 0,75% lên ± 3% sau 3 lần điều chỉnh.
Trong năm 2008, các NHTM trên địa bàn Hà Nội có tốc độ tăng trưởng huy động vốn thấp hơn nhiều so với cho vay. Trong năm, 357 tổ chức tín dụng ở Hà Nội đã huy động được 425.317 tỷ đồng, tăng 9,8% so với cuối năm 2007. Theo NHNN thành phố Hà Nội, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các ngân hàng thương mại cổ phần trên địa bàn vẫn đảm bảo, hầu hết kinh doanh có lãi.
Tổng vốn tự có của 10 ngân hàng cổ phần có hội sở chính đặt tại Hà Nội hiện đạt trên 24.000 tỷ đồng, trong đó vốn điều lệ hơn 20.000 tỷ đồng (tăng 25% so với cuối năm 2007). Tổng huy động vốn của 10 ngân hàng này đạt gần 149.000 tỷ đồng (tăng 30%), dư nợ cho vay đối với nền kinh tế là gần 110.000 tỷ đồng (tăng 17,1%). Dư nợ bất động sản năm 2008 tăng 23,5% so với cuối năm ngoái, thấp hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống. Lượng vốn cho vay đối với nền kinh tế cùng thời gian này tăng 20,9% so với năm ngoái.
Thực trạng PTTC tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội
Phân tích cấu trúc tài chính ngân hàng
Đây là nội dung phân tích đầu tiên mang đến cho nhà quản trị ngân hàng một cái nhìn tổng quát về tài sản – nguồn vốn của ngân cũng như mối quan hệ cân đối của 2 khoản mục này trên BCĐKT. Con mắt nhìn tổng quát đó sẽ giúp cho các nhà phân tích có những nhận xét, đánh giá sơ bộ đầu tiên và giúp luôn luôn có cái nhìn toàn diện ngay cả khi đi sâu phân tích các nội dung chi tiết.
Để có thể tiến hành phân tích các nhà quản trị Vietcombank đã phân loại tài sản - nguồn vốn thành các khoản mục lớn theo đúng tinh thần quy định của NHNN trên cơ sở phân tổ là tính chất thị trường và kỳ hạn của đồng vốn và đối tượng sở hữu vốn. Sau khi đã thực hiện phân tổ các khoản mục nhà quản trị sẽ tính toán tỷ trọng của từng khoản mục tài sản - nguồn vốn và tiến hành so sánh tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản, của từng nguồn vốn trong tổng nguồn vốn, so sánh tỷ trọng của từng loại tài sản - nguồn vốn đó với kỳ trước để có thể thấy được một cách khái quát nhất sự biến động về cơ cấu tài sản - nguồn vốn và tìm ra những nguyên nhân giải thích cho sự biến động đó.
Bảng 2.2 : Bảng phân tích quy mô, cơ cấu tài sản- nguồn vốn.
Chỉ tiêu
2008
2007
Chênh lệch
Số tiền
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tỷ đồng)
Tỷ trọng
(%)
+/- Số tuyệt đối
+/- số tương đối
Tín dụng
2.610
31,64
2.553
31,57
57
2,23
Tổng tài sản có
8.249
100
8.088
100
161
2,00
Vốn huy động
6.742
81,73
6.321
78,15
421
6,66
Tổng nguồn vốn
8.249
100
8.088
100
161
2,00
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội các năm)
Về tài sản
Năm 2008 tổng tài sản của VCB đạt 8.249 tỷ đồng tăng 0.161 so với đầu năm, tương đương tăng về số tương đối là 2,00%. So với mức tăng trưởng kế hoạch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giao cho chi nhánh từ đầu năm là tổng tài sản đạt 9.624,72 tỷ đồng tương đương tăng 19% so với năm 2007 thì thực tế VCB Hà Nội tuy đã không đạt được. Tuy nhiên, trước những diễn biến khó lường về thị trường bất động sản, chứng khoán và tình hình giá cả đến cuối năm, thì những gì VCB Hà Nội đã đạt là ở mức chấp nhận được, khi mà ngày 19/11/2008, HĐQT VCB đã phải điều chỉnh giảm các chỉ tiêu.
Trong cơ cấu tổng tài sản của VCB Hà Nội thì khoản mục tín dụng khoản mục chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản. Trong năm 2007, dư nợ cho vay là 2.553 tỷ đồng chiếm 31,57 % trong tổng tài sản của ngân hàng. Đây là khoản mục chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản. Sang đến năm 2008, dư nợ của ngân hàng tiếp tục tăng trưởng đạt 2.610 tỷ đồng chiếm 31,64 % trong tổng tài sản. Như vậy khoản mục tín dụng qua hai năm đã tăng 57 tỷ đồng, tương đương với tốc độ tăng là 2,23%. Đây là tốc độ tăng không đáng kể, thậm chí là nhỏ nếu so sánh với mức tăng trưởng tín dụng của năm 2006 (từ 3.518 tỷ đồng trong năm 2005 lên 3.972 tỷ đồng trong năm 2006, tức 13%), tuy nhiên nếu so sánh với năm 2007 (năm 2007, dư nợ tín dụng giảm 25,7% so với năm 2006). Sở dĩ có điều này là do môi trường tài chính tiền tệ đang có nhiều khó khăn do sự ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu và tình hình lạm phát, giảm phát trong nước. Đây là một thành tựu to lớn của VCB, thể hiện sự cố gắng lớn của ngân hàng Ngoại thương Hà Nội trong mảng hoạt động tín dụng – mảng hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng.
Về nguồn vốn
Có thể thấy một điều rất rõ ràng là trong các năm qua, nguồn vốn của VBC Hà Nội luôn có sự biến động. Qua việc so sánh nguồn vốn có được qua các năm nhà phân tích xây dựng được biểu đồ 2.1:
Biểu đồ 2.1: Tăng trưởng của nguồn vốn qua các năm
Tỷ đồng
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội qua các năm)
Nhìn trực quan trên biểu đồ nhà phân tích thấy rất rõ làng lời nhận xét đã nói ở phía trên: nguồn vốn biến động hàng năm. Để thấy mức độ biến động và tốc độ biến động, sử dụng bảng 2.1 cho thấy:
Tổng nguồn vốn năm 2006 tăng mạnh so với năm 2005, từ 8.187 năm 2005, tăng lên 8.584 tỷ đồng của năm 2006. Tuy nhiên, nguồn vốn của VCB sụt giảm khá mạnh vào cuối năm 2007, điều này có thể giải thích là do thời gian này, chi nhánh tiến hành quá trình cơ cấu lại, theo đó tách 4 chi nhánh trực thuộc là: Thành Công, Ba Đình, Thăng Long, Chương Dương; bên cạnh đó việc thị trường chứng khoán đang sốt, khiến dòng vốn sụt giảm mạnh, ngân hàng lại điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, thu hút khách hàng nhằm giải ngân nguồn vốn khả dụng đã huy động được khá lớn từ đầu năm. Đến năm 2008, nguồn vốn ngân hàng đã tăng, nhưng không đáng kể. Tổng nguồn vốn năm 2008 là 8.249 tỷ đồng tăng 161 tỷ so với năm 2007 với tốc độ tăng là 2%. Tính đến cuối quý I năm 2009 tổng nguồn vốn của Vietcombank Hà Nội là 8.266,723 tỷ; tăng 17,277 so với đầu năm 2008, tương đương với tốc độ tăng là 0,21%. Do những diễn biến khó lường của thị trường bất động sản, chứng khoán và tình hình giá cả đến cuối năm nên đây là kết quả tốt, nếu so sánh với mặt bằng chung của hệ thống ngân hàng hiện nay.
Nhìn vào cơ cấu vốn huy động nhà quản trị Vietcombank nhận thấy vốn huy động là thành phần chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng. Vốn huy động liên tục tăng và tăng biểu hiện vị trí vững vàng, uy tín chắc chắn của Vietcombank trong lĩnh vực kinh doanh ngân hàng. Đây chính là một lợi thế để Vietcombank phát huy trong thời gian tiếp theo.
Tổng nguồn vốn tăng đồng hành cùng với tổng tài sản của ngân hàng tăng lên cho thấy sự tăng trưởng và phát triển của Vietcombank. Với số vốn có trong tay, Vietcombank đã xây dựng cho mình một cơ cấu tài sản khá hợp lý trong đó mảng tín dụng, đầu tư và quan hệ với thị trường 2 chiếm tỷ trọng lớn. Sự ăn khớp giữa cơ cấu của tài sản- nguồn vốn cho ta thấy một chiến lược kinh doanh hiệu quả của Vietcombank đồng thời cũng tạo ra hình ảnh về một ngân hàng luôn luôn chủ động trước những biến động trong tương lai, luôn đi tắt, đón đầu và tiến lên không ngừng trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của mình.
Cơ cấu dư nợ tín dụng và huy động
Phân tích tình hình tín dụng nhà quản trị ngân hàng Vietcombank quan tâm đến việc xem xét quy mô, cơ cấu tín dụng, sự biến động của quy mô và cở cấu tín dụng qua các năm đồng thời đánh giá chất lượng tín dụng thông qua việc tính toán các cở cấu các khoản nợ quá hạn và các tỉ lệ Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ. Thực trạng phân tích đó được thực hiện qua các nội dung sau:
Dư nợ tín dụng qua 3 năm có sự thay đổi trong cơ cấu, tuy nhiên sự thay đổi là không lớn. Để có thể phân tích công tác tín dụng một cách chi tiết, toàn diện hơn các nhà quản trị Vietcombank đã sử dụng phương pháp phân tổ để phân chia chỉ tiêu dư nợ cho vay theo nhiều tiêu thức khác nhau: tiêu thức kỳ hạn, loại tiền và ngành kinh tế.
Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ theo kỳ hạn
(Đơn vị: tỷ đồng)
Chỉ tiêu
Năm 2008
Năm 2007
Năm 2006
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng dư nợ tín dụng
2.610
100%
2.553
100%
3.974
100%
Cho vay ngắn hạn
1.768
67,73%
1.694
66,35%
2.467
62,08%
Cvay trung dài hạn
449
17,21%
413
16,19%
773
19,45%
CK GTCG + CV DDT
393
15,06%
446
17,46%
733
18,46%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội qua các năm)
Nhìn vào bảng ta thấy: cho vay ngắn hạn là loại hình cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu cho vay của Vietcombank: năm 2007 đạt 1.694 tỷ chiếm 66,35% trong tổng dư nợ của ngân hàng, sang đến năm 2008 khoản mục cho vay này là 1.768 tỷ (chiếm 67,73% trong tổng dư nợ của ngân hàng) về số tuyệt đối tăng 74 tỷ, tương đương tăng 4,37%%. Cho vay trung dài hạn cũng có sự tăng trưởng với tốc độ tăng là 8,72% từ năm 2007 qua năm 2008.
Biều đồ 2.2: Dư nợ cho vay theo loại hình
Năm 2008, cho vay kinh tế nhà nước chiếm 65,93% trong tổng dư nợ, gần gấp 2 lần so với cho vay thành phần ngoài quốc doanh (34,07). Điều này cho thấy cho vay doanh nghiệp quốc doanh là một thế mạnh của Vietcombank.
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu dư nợ theo loại tiền
Xét theo loại tiền, một điều có thể dễ dàng nhận thấy đó là ngân hàng có xu hướng cho vay bản tệ, điều này biểu hiện thông qua cơ cấu dư nợ cho vay theo loại ngoại tệ là 37,73% so với 62,27% của dư nợ VND.
Nhận xét
Qua việc đánh giá khái quát quy mô tài sản - nguồn vốn đồng thời đánh giá cơ cấu của hai khoản mục này của Vietcombank ta có thể thấy một số điểm sau:
Thứ nhất:
Trong đánh giá khái quát tình hình tài sản- nguồn vốn, nhà phân tích đã sử dụng chủ yếu là phương pháp so sánh (cơ sở so sánh là số liệu kỳ trước hoặc kỳ kế hoạch) và với kỹ thuật so sánh là so sánh số tương đối và số tuyệt đối.
-Bằng việc so sánh chỉ tiêu tổng tài sản, tổng nguồn vốn giữa các thời kỳ với nhau hoặc giữa kỳ thực tế với kế hoạch các nhà quản trị Vietcombank đã nhận thấy sự tăng trưởng tài sản- nguồn vốn, đánh giá được sự tăng trưởng đó về cả số tuyệt đối và số tương đối đồng thời đánh giá được mức độ thực hiện về quy mô tài sản- nguồn vốn so với các mục tiêu NH đã dự kiến trước.
- Bằng việc tính toán tỷ trọng của từng khoản mục tài sản- nguồn vốn trong tổng tài sản- nguồn vốn của ngân hàng và thực hiện biện pháp so sánh giữa các kỳ nhà quản trị Vietcombank nhận biết được cơ cấu tài sản- nguồn vốn đồng thời nhận biết sự biến động của cơ cấu ấy qua các thời kỳ khác nhau, từ đó đưa ra được những nhận xét sơ bộ ban đầu về các mặt mạnh, mặt yếu, những điều đã làm được và chưa là được của ngân hàng.
Thứ hai
Trong công tác phân tích, các nhà quản trị Vietcombank đã sử dụng rất nhiều tiêu thức khác nhau để phân tổ tài sản và nguồn vốn như:
Tiêu thức đối tượng sở hữu: dân cư, tổ chức kinh tế, TCTD khác
Tiêu thức kỳ hạn của đồng vốn: ngắn hạn, trung và dài hạn.
Tiêu thức về đồng tiền hạch toán: VND và USD.
Từ việc làm này, nhà quản trị Vietcombank nắm bắt được tính hợp lý hay không hợp lý của cơ cấu đó cũng như sự biến động trong cơ cấu. Việc xem xét này có thể đưa lại cho nhà quản trị ngân hàng những nhận định về tình trạng hiện tại đồng thời phát hiện ra các vấn đề thực tiễn, các nguyên nhân ban đầu để có hướng điều chỉnh trong thời gian tới.
Thứ ba
Trong công tác phân tích Tài sản - nguồn vốn nhà quản trị Vietcombank chưa có chỉ tiêu giúp người phân tích thấy được mối quan hệ mật thiết giữa việc huy động vốn và sử dụng vốn hoặc mối quan hệ giữa một bộ phận tài sản có với một bộ phận tài sản nợ và ngược lại.
Phân tích hiệu quả hoạt động của ngân hàng
Lợi nhuận là mục tiêu theo đuổi của bất cứ đơn vị kinh doanh nào và ngân hàng không phải là ngoại lệ. Việc phân tích chi phí và thu nhập của bản thân ngân hàng thực chất là để có một cái nhìn tổng quan nhất về tình hình hoạt động để các nhà quản tri ngân hàng có thể đưa ra các biện pháp nhằm tăng thu giảm chi, nâng cao dược lợi nhuận - mục tiêu cuối cùng mà bất cứ ngân hàng nào cũng theo đuổi.
Bảng 2.4 Tình hình lợi nhuận của VCB Hà Nội
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
So sánh 2008/2007
Số tuyệt đối
%
Tổng thu
634,910
700,769
707,298
6,529
0,932
Tổng chi
497,977
588,343
599,868
11,525
1,196
Chênh lệch thu chi
136,933
112,426
107,430
(Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội qua các năm)
Nhìn vào bảng lợi nhuận của VCB Hà Nội ta thấy lợi nhuận sụt giảm qua 3 năm. Trong khi năm 2007, lợi nhuận trước thuế bằng 112,426 tỷ thì đến 2008 sau khi lấy thu – chi thì lợi nhuận thu được là 107, 430 tỷ. Như vậy từ 2006-2008 lợi nhuận đã giảm 29,503 tỷ; tương đương với số tương đối là 2,15 %. Điều này có thể lý giải do những biến động kinh tế - xã hội, khiến tốc độ tăng thu không cao, mặt khác chi nhánh đang đầu tư vào tài sản cố định (trụ sở Nguyễn Du) làm chi phí năm 2007 tăng nhanh.
ROA của chi nhánh qua 2 năm 2007 và 2008 lần lượt là
ROA2007 = 112,426/8088 = 1,39%
ROA2008 = 107,430/8249 = 1,30%
Ta có thể thấy ROA của ngân hàng qua 2 năm khá ổn định, và đều ở mức cao. Đây được xem như một dấu hiệu tốt về hoạt động của ngân hàng.
Qua khảo sát công tác phân tích lợi nhuận ở Vietcombank ta có thể thấy phương pháp chủ yếu mà nhà quản trị Vietcombank sử dụng khi phân tích là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ để tính toán sự thay đổi của tổng lợi nhuận qua các năm đồng thời tính toán và so sánh một vài tỷ lệ phản ánh lợi nhuận của ngân hàng là ROA. Tuy nhiên, sự đánh giá còn sơ sài và phương pháp phân tích được sử dụng còn chưa hiệu quả, nhà quản trị không thể sử dụng được phương pháp Dupont do đặc thù Vietcombank Hà Nội là một chi nhánh của một NHTM, do đó việc xác định các chỉ tiêu có liên quan để nghiên cứu các nhân tố tác động làm thay đổi ROA, ROE như vốn chủ sở hữu, lợi nhuận ròng là rất khó khăn. Do vậy khó có thể sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đó đến hai chỉ tiêu ROA và ROE. Vì vậy, kết quả phân tích còn rất sơ sài và không hiệu quả.
Phân tích rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Đi đôi với mở rộng tín dụng, VCB Hà Nội luôn chú trọng trong việc nâng cao chất lượng tín dụng bởi nếu doanh số cho vay cao mà doanh số thu nợ thấp, có nghĩa là ngân hàng có nhiều khoản vay có vấn đề, nhiều nợ tồn đọng thì tình hình kinh doanh cũng sẽ không có kết quả tốt. Do vây, việc quan tâm đánh giá chất lượng tín dụng luôn là yêu cầu đặt ra trong họat động thực tiễn hàng ngày của ngân hàng.
Để đánh giá chất lượng tín dụng của mình nhà quản trị VCB Hà Nội đã sử dụng phương pháp phân tổ để phân loại nợ thành các loại sau:
Nợ lưu hành bình thường.
Nợ đáng chú ý.
Nợ kém tiêu chuẩn.
Nợ có nghi ngờ.
Nợ bị mất trắng.
Từ đó nhà quản trị xác định được tình hình nợ quá hạn của ngân hàng như sau: Năm 2007 nợ quá hạn của chi nhánh là chiếm 0,44% trong tổng dư nợ của VCB Hà Nội. Sang đến năm 2008, nợ quá hạn của VCB Hà Nội là 194 tỷ đồng chiếm 7% trong tổng dư nợ. Như vậy, nợ quá hạn năm 2008 đã tăng 6,56%. Đây là con số quá lớn, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, thị trường không ổn định thì điều này là không tốt, ngân hàng cần cải thiện công tác quản lý nợ, lập kế hoạch thu hồi các khoản nợ đến hạn và quá hạn, giảm tỷ lệ nợ quá hạn để hạn chế các loại rủi ro có thể xảy ra, gây thiệt hại cho tài sản của ngân hàng.
Các nhà quản trị ngân hàng còn sử dụng phương pháp phân tích để phân chia các khoản nợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau như: theo tiêu thức thời gian, tiêu thức nguyên nhân để có thể có cái nhìn toàn diện hơn nhằm đưa ra các biện pháp xử lý nợ quá hạn kịp thời và có hiệu quả.
Trên cơ sở số liệu về nợ quá hạn và quyết định 493/2005/QĐ-NHNN tháng 4/2005, VCB Hà Nội đã sử dụng phương pháp phân tổ phân loại tài sản có để trích lập và sử dụng dự phòng xử lý rủi ro. Theo đó những khoản cho vay chưa đến kỳ hạn trả nợ (kể cả kỳ hạn nợ gia hạn) thuộc nhóm 1: những khoản cho vay có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ dưới 180 ngày và những khoản cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ dưới 90 ngày được xếp vào nhóm 2; trong nhóm 3 gồm những khoản cho vay có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 184 đến 360 ngày, những khoản cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 91 đến 180 ngày; còn lại, những khoản cho vay có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 361 ngày trở lên và những khoản cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đã quá hạn trả nợ từ 181 ngày trở lên thuộc về nhóm 4. Trên cơ sở phân tổ nợ quá hạn như trên, VCB Hà Nội sẽ tính toán số dự phòng phải trích.
Qua việc khảo sát công tác phân tích tình hình tín dụng của VCB Hà Nội ta có thể rút ra một số nhận xét như sau:
Thứ nhất
Nhà quản trị ngân hàng VCB Hà Nội đã phân tích tương đối toàn diện và rõ nét về họat động tín dụng của ngân hàng mình, từ đó đưa ra bức tranh toàn cảnh về thực trạng hoạt động tín dụng của VCB Hà Nội trong các kỳ hoạt động đã qua.
Thứ hai
Để phân tích họat động cho vay các nhà phân tích chủ yếu sử dụng phương pháp phân tổ, phương pháp so sánh và rất linh hoạt trong cách diễn giải nội dung kinh tế của các phương pháp này khi sử dụng phương pháp biểu đồ. Kết hợp với hệ thống các chỉ tiêu đánh giá rất rộng, không những mang tính chất tổng hợp mà còn được chi tiết hoá khá cụ thể, các phương pháp phân tích này đã cho nhà phân tích đánh giá tình tín dụng một cách tương đối toàn diện trên nhiều mặt, từ quy mô, cơ cấu cho vay đến chất lượng hoạt động này.
Thứ ba
Trong việc phân tích quy mô, cơ cấu tín dụng ngân hàng không có những chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa cơ cấu tín dụng với thực tế tình hình huy động vốn của mình, do đó không thấy được mối quan hệ gắn kết giữa hai mảng hoạt động này.
Thứ tư
Ngân hàng ngoài việc tính toán dự phòng còn thiếu các chỉ tiêu phản ánh khả năng bù đắp rủi ro như đã phân tích trong chương I. Bên cạnh đó việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng theo quyết định 493/QĐ-NHNN còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý, chẳng hạn trong tiêu chuẩn kiểm tra và phân loại nợ quá hạn của ngân hàng hiện nay thì chỉ những khoản nợ đã quá thời hạn trả nợ nhưng khách hàng chưa trả được nợ (trừ các khoản nợ đã được gia hạn nợ) mới được xếp vào nợ quá hạn, còn những khoản nợ chưa đến hạn hay đang trong giai đoạn gia hạn nợ vẫn được xem là những khoản nợ tốt và tỷ lệ trích lập dự phòng trên những khoản nợ này bằng 0%. Có thể khẳng định rằng, một khoản vay chưa đến hạn trả nợ thì tổn thất chưa xảy ra nhưng không có nghĩa là không có tổn thất. Điều này đã không phản ánh hết những rủi ro trong hoạt động tín dụng dẫn đến việc tính toán và lên các BCTC cũng như sử dụng các chỉ tiêu phân tích trở nên thiếu chính xác.
Nhận xét chung về hoạt động phân tích tài chính của Ngân hàng Ngoại Thương Hà Nội
Ưu điểm
Đã có bộ phận cung cấp các thông tin cần thiết cho ban Giám đốc. Ban Giám đốc định kỳ hàng tháng sẽ nhận được báo cáo từ phòng Kế Toán – Tài chính. Việc cung cấp những thông tin cần thiết cho ban Giám đốc đã được thực hiện tương đối tốt.
Hạn chế
Việc phân tích tài chính mới chỉ dừng ở mức mô tả, chưa tiến hành phân tích, chưa có các bước theo quy trình phân tích tài chính. Quá trình phân tích chỉ tập trung vào đánh giá hoạt động của ngân hàng mà chưa làm rõ về tình hình tài chính cũng như chưa hề phân tích hoạt động tài chính. Các tiêu chí tài chính để đánh giá hoạt động của ngân hàng còn chưa được đề cập đến.
Việc phân tích vẫn thiếu các chỉ tiêu tài chính, đánh giá hoạt động của chi nhánh, các chỉ tiêu đưa vào phân tích chưa tập hợp thành hệ thống hoàn chỉnh, không được cơ cấu theo các nhóm riêng rẽ khiến việc theo dõi các thông tin trở nên khó khăn. Trong quá trình phân tích tài chính thiếu những đánh giá về rủi ro. Trong tình hình biến động như hiện nay, việc đánh giá rủi ro là không thể thiếu. Đây chính là thiếu sót nghiêm trọng. Mới chỉ dừng lại ở việc phân tích theo một vài chỉ tiêu, chưa sử dụng được thêm các mô hình khác như: phân tích Dupont, mô hình SWOT. Chỉ khi sử dụng kết hợp những phương pháp như vậy, ban Giám đốc mới có cái nhìn tổng kết và bao quát đối với tình hình tài chính của Ngân hàng.
Nguyên nhân
Hoạt động phân tích tài chính ở Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chưa được quan tâm đúng mức. Những số liệu kế toán chưa được cung cấp hoàn chỉnh, chưa có những chỉ số tài chính quan trọng.
Do đặc thù là chi nhánh cấp 1, nên việc phân tích chỉ dừng ở mức thông tin cho ban Giám đốc, được thực hiện khi có yêu cầu, không có bộ phận chuyên trách cụ thể. Bên cạnh đó, độ chín trong năng lực quản lý của các nhà quản trị vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, phần lớn các nhà quản trị vẫn chưa coi trọng công tác phân tích BCTC và tổ chức phân tích, đánh giá không thường xuyên chủ yếu mang tính phòng ngừa, không dành sự quan tâm thích đáng cho công tác phân tích tài chính của ngân hàng mình.
Công nghệ thông tin chưa được khai thác và ứng dụng rộng rãi để phục vụ cho công tác thu thập, lấy số liệu. Phần lớn các công việc trên của ngân hàng đều được thực hiện thủ công hoặc nếu có sử dụng công nghệ thông tin thì cũng đều phải tiến hành đối chiếu lại số liệu gốc. Điều này khiến cho việc tính toán các chỉ tiêu phân tích không chính xác, gây lãng phí thời gian, công sức mà hiệu quả phân tích không cao.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động phân tích tài chính
tại Chi Nhánh Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội
Định hướng hoạt động của Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội
Trong thời gian tới, VCB Hà Nội sẽ tiếp tục mở rộng quy mô cũng như tăng tổng tài sản. Tăng cường việc huy động và cho vay tổ chức kinh tế , cá nhân. Song song với việc mở rộng quy mô, hiệu quả kinh doanh cũng là vấn đề quan trọng. Việc tiết kiệm chi phí phải được đề cao, đồng thời tăng cường các khoản sinh lời, tập trung cho các khoản sinh lời cao.
Chi nhánh tiếp tục phát huy các thế mạnh về công nghệ và uy tín thương hiệu của một ngân hàng đối ngoại trên địa bàn, đồng thời kết hợp với đa dạng hóa các hình thức, các công cụ huy động vốn như: kỳ phiếu, trái phiếu, phát triển các sản phẩm ngân hàng hiện đại, tích hợp nhiều tiện ích, mở rộng mạng lưới giao dịch, áp dụng chính sách lãi suất linh hoạt hấp dẫn, các nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn để cung cấp các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng và hiện đại hơn đến khách hàng, nâng cao tỷ trọng tiền gửi doanh nghiệp trên tổng huy động vốn từ 36% năm 2008 lên trên 40% năm 2009.
Bên cạnh các giải pháp về nghiệp vụ, Chi nhánh đã và sẽ tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, nâng cao chất lượng dịch vụ và văn minh trong giao tiếp, từng bước áp dụng mô hình quản lý và tổ chức giao dịch trong khối Ngân hàng bán lẻ theo chuẩn mực của một ngân hàng thương mại hiện đại.
Cụ thể, kế hoạch về huy động vốn của VCB Hà Nội năm 2009 là 6.920 tỷ đồng, tăng 2% so với huy động vốn đạt được trong năm 2008 của VCB Hà Nội và tăng 7.7% so với huy động vốn đạt được năm 2008 của VCB Hà Nội đã tách Phòng giao dịch số 6 (theo định hướng của VCB, phòng giao dịch số 6 của VCB Hà Nội sẽ được nâng cấp thành Chi nhánh trực thuộc VCB Trung ương trong năm 2009).
Về cho vay, kế hoạch dư nợ của VCB Hà Nội năm 2009 không tính đến PGD 6 là 3000 tỷ đồng, tăng 15% so với dư nợ VCB Hà Nội đạt được năm 2008 và tăng 18% so với dư nợ đạt được năm 2008 của VCB Hà Nội đã tách PGD 6.
Khống chế tỷ lệ nợ quá hạn dưới mức 5%, giảm dần tỷ lệ nợ xấu, nợ khó đòi. Tăng dần tỷ trọng cho vay trung dài hạn, đầu tư tài sản cố định trong cơ cấu tín dụng của Chi nhánh, kế hoạch 2008 đạt 28% tổng dư nợ.
Dự kiến trong năm 2009 Chi nhánh sẽ tiến hành mở mới 2 Phòng giao dịch, đưa sản phẩn dịch vụ và các tiện ích của VCB tới gần hơn với khách hàng.
Tăng cường đào tạo và bổ sung cán bộ cho yêu cầu mở rộng quy mô hoạt động. Nâng cao chất lượng hoạt động, nâng cao vị thế của VCB trong giai đoạn mới – giai đoạn cổ phần hóa.
Định hướng hoạt động của bộ phận phân tích tài chính
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu phân tích, đánh giá để đảm bảo cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin kinh tế, tài chính cần thiết phục vụ cho công tác quản lý và điều hành hoạt động của ngân hàng.
Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại. Hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá phù hợp với chuẩn mực của hệ thống ngân hà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2143.doc