Hiện nay các cảng mà hàng hoá của công ty nhận hàng và làm thủ tục hải quan, công ty còn gặp nhiều trở ngị lớn đó là thủ tục rườm rà, chời đợi lâu Vì vậy đã làm ảnh hưởng đến việc bán hàng, quay vòng vốn, nhiều khi làm ảnh hưởng tới khách hàng mua. Chính vì thế cho nên Nhà nước cần cải cách và hoàn thiện thủ tục hải quan tránh phiền hà, nên tiến hành nhanh gọn nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý và chính xác để hàng hoá nhập khẩu về nhanh chóng đáp ứng nhu cầu trong nước, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của hoạt động nhập khẩu của công ty nói riêng.
123 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện quy trình nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm tân dược tại Công ty TNHH Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty. Nó định ra được các mục tiêu lớn theo đó cần huy động các nguồn lực trước mắt và lâu dài, nó phải đảm bảo cho kế hoạch nhập khẩu của công ty không bị lạc hướng. Xây dựng một chiến lược kinh doanh hoàn chỉnh và tốt sẽ giúp Công ty thu được nhiều lợi nhuận, tạo được thế lực cạnh tranh và an toàn tránh được rủi ro trong kinh doanh nhập khẩu, chủ động thích ứng với môi trường kinh doanh. Công ty muốn kinh doanh hiệu quả phải có chiến lược riêng được xây dựng trên cơ sở vốn của mình. Trên cơ sở đó đưa ra một chiến lược phù hợp với khả năng của công ty là điều hết sức quan trọng và cần thiết. Chiến lược kinh doanh không chỉ trước mắt mà còn phải có chiến lược lâu dài, đảm bảo được lợi ích của công ty. Để thực hiện kinh doanh nhập khẩu đã hoạch định, công ty cần phải xây dựng và thực hiện một hệ thống chính sách sau:
Thứ nhất: Chính sách về sản phẩm, Công ty phải định hướng và xác định nhóm sản phẩm được lựa chọn để đưa vào kinh doanh phục vụ cho nhóm khách hàng trọng điểm. Sản phẩm nhập khẩu phải thoả mãn được yêu cầu của khách hàng về chất lượng, phẩm chất và mẫu mã Nếu công ty nhập những sản phẩm có chất lượng kém, giá cả lại đắt không đảm bảo được lợi ích của khách hàng thì công ty sẽ gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm.
Thứ hai: Chính sách về giá cả. Là một trong những yếu tố mà bất cứ một công ty nào nói chung và các nhà nhập khẩu nói riêng đều phải áp dụng một cách phù hợp. Khi công ty nhập khẩu hàng hoá từ thị trường nước ngoài cần phải nghiên cứu kỹ giá cả của hàng hoá mình cần nhập ở thị trường đó để làm sao nhập khẩu với giá hợp lý, tránh tình trạng mua đắt, bán rẻ. Trong tình trạng thị trường luôn biến động diễn ra cạnh tranh gay gắt, vì thế hàng hoá nhập khẩu của công ty phải áp dụng mức giá bán linh hoạt. Các quyết định về giá nó có tác động rất lớn đến số lượng bán, doanh thu và lợi nhuận. Xác định được một số giá đẻ chiếm được ưu thế trong cạnh tranh là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với Công ty. Nếu giá quá cao thì nhu cầu mua hàng hoá sẽ giảm. Tốc độ lưu chuyển hàng hoá giảm làm cho cạnh tranh của Công ty trên thị trường sẽ giảm. Nếu giá bán quá thấp việc xác định giá cả hợp lý là điều hết sức khó khăn. Công ty định giá không chỉ tạo lợi nhuận mà còn phải phụ thuộc vào tình hình chung của thị trường để đưa ra một mức giá thích hợp, trong nhiều trường hợp Công ty phải chấp nhận hoà vốn hoặc lỗ để bán được hàng. Chính vì vậy việc xác định mức giá phù hợp để nhanh chóng tiêu thụ được hàng hoá Công ty áp dụng một số chính sách linh hoạt, thay đổi theo tình huống, từng thời điểm, từng khách hàng cụ thể. Bên cạnh đó phải có chính sách giá ưu đãi, khuyến khích cho khách hàng đến Công ty như giảm giá, chiết khấu cho khách hàng. Ngoài ra phải luôn luôn phân tích các yếu tố làm ảnh hưởng đến giá như quan hệ cung cầu để có giải pháp phù hợp với sự thay đổi đó.
Thứ ba: chính sách về phân phối. Phân phối là khâu quan trọng trong quá trình kinh doanh, nó là hoạt động lập kế hoạch thực hiện và kiểm tra việc vận tải và lưu kho hàng hoá từ nơi sản xuất. Doanh nghiệp tiêu dùng nhằm phục vụ nhu cầu ở thị trường mục tiêu và thu được lợi nhuận cao nhất.
Vì Công ty nhập khẩu chủ yếu là dược phẩm và hàng tiêu dùng cho nên đòi hỏi Công ty phải cung ứng đúng mặt hàng, đúng số lượng, đúng nơi, đúng lúc cho khách hàng có nhu cầu với mức dịch vụ và chi phí thích hợp.
Thứ tư: Chính sách quảng cáo: hàng hoá của Công ty khi nhập khẩu về phải thực hiện quảng cáo nhằm giới thiệu sản phẩm của mình cho khách hàng có nhu cầu biết. Công ty có quảng cáo trên vô tuyến, đài phát thanh, tạp chí Mục tiêu của quảng cáo Công ty cần hướng vào các vấn đề sau:
- Tăng số lượng trên thị trường truyền thống
- Mở ra thị trường mới
- Giới thiệu sản phẩm mới
- Xây dựng và củng cố uy tín của những nhãn hiệu hàng hoá và uy tín cho công ty.
- Phải lôi kéo được người tiêu dùng
- Gợi được ý sẵn sàng mua
- Gây được sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm của công ty
3. Củng cố, phát triển vốn và sản phẩm vốn hợp lý
Theo như đánh giá về tình hình vốn kinh doanh hiện nay của công ty đang ở mức hơi thấp so với nhu cầu đặt ra đối với công ty. Để có thể chủ động trong kinh doanh thì công ty cần phải có chương trình, kế hoạch nhằm củng cố phát triển vốn đồng thời sử dụng vốn hợp lý. Bên cạnh nguồn vón tự có công ty cần có nguồn vốn vay từ các tổ chức ngân hàng phục vụ cho công việc kinh doanh, nhập khẩu của mình.
Hiện nay muốn có vốn công ty:
- Phải thiết lập mối quan hệ làm ăn hợp tác lâu dài với ngân hàng để đảm bảo rằng họ sẵn sàng cung cấp vốn cho công ty khi có nhu cầu nhập khẩu hàng hoá với lượng vốn lớn.
- Tham gia liên doanh liên kết với các tổ chức nước ngoài.
- Phải kinh doanh có hiệu quả để đạt được lợi nhuận cao hơn, vì lợi nhuận chính là nguồn cơ bản để củng cố vốn.
- Không ngừng nâng cao uy tín cho công ty để thu hút vốn đầu tư của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.
Để hạn chế mất mất có thể xảy ra trước khi vay vốn công ty cần phải: Tính toán thận trọng, chính xác xem công ty cần bao nhiêu vốn để sử dụng cho hoạt động nhập khẩu; xác định nên vay vào lúc nào cho phù hợp: Tính toán xem thời hạn vay bao lâu để có hiệu quả.
Khi có vốn công ty cần sử dụng vốn một cách tiết kiệm, giảm tối đa các chi phí không cần thiết, không để các doanh nghiệp, các công ty chiếm dụng vốn trong một thời gian dài, đề ra các biện pháp để nhanh chóng thu hồi các khoản nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tuy nhiên cũng nên ưu đãi với những khách hàng mới đến công ty.
4. Các điều kiện thực hiện
Trong nền kinh tế thị trường chịu sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tất cả các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng đều nằm trong hành lang pháp lý sự hướng dẫn và kiểm soát của Nhà nước như các chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu, tỷ giá, có ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược kinh doanh phát triển, đào tạo, mặt hàng nhập khẩu để có thể hoàn thiện tốt hoạt động nhập khẩu, ngoài sự cố gắng lỗ lực của công ty thì Nhà nước cần có một số giải pháp, chính sách và cơ chế phù hợp. Vận dụng quan điểm chung và kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phát huy hết được lợi thế của mình.
5. Đối với Nhà nước
a) Hoàn thiện về chính sách thuế nhập khẩu:
Nhà nước cần phải đổi mới và hoàn thiện chính sách thuế để đưa ra một hệ thống thuế đơn giản, dễ hiểu, dễ áp dụng đồng thời phải đảm bảo được lợi ích của các doanh nghiệp tham gia nhập khẩu hàng hoá và nên ưu tiên cho các doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm phụcvụ sức khoẻ của nhân dân phục vụ sản xuất trong nước.
b) Cải cách và hoàn thiện thủ tục hải quan
Hiện nay các cảng mà hàng hoá của công ty nhận hàng và làm thủ tục hải quan, công ty còn gặp nhiều trở ngị lớn đó là thủ tục rườm rà, chời đợi lâu Vì vậy đã làm ảnh hưởng đến việc bán hàng, quay vòng vốn, nhiều khi làm ảnh hưởng tới khách hàng mua. Chính vì thế cho nên Nhà nước cần cải cách và hoàn thiện thủ tục hải quan tránh phiền hà, nên tiến hành nhanh gọn nhưng vẫn đảm bảo tính pháp lý và chính xác để hàng hoá nhập khẩu về nhanh chóng đáp ứng nhu cầu trong nước, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của hoạt động nhập khẩu của công ty nói riêng.
c) Ổn định tỷ giá hối đoái
Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại và lưu thông tiền giấy hiện nay. Vấn đề tỷ giá hối đoái và cơ chế quản lý điều chỉnh tỷ giá hối đoái cả trên tầm vi mô và vĩ mô trở thành một vấn đề lớn trong chính sách kinh tế tiền tệ của bất kỳ quốc gia nào. Tỷ giá là một nhân tố tác động mạnh mẽ đến hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp. Nếu tỷ giá không đổi sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì vậy Nhà nước cần phải điều chỉnh để giữ cho tỷ giá hối đoái ở mức phù hợp với các mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và làm giảm những biến động của tỷ giá có thể làm giảm hướng tới hiệu quả kinh doanh của công ty.
6. Đối với công ty
a) Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty.
Ngày nay cùng với sự nghiệp đổi mới của đất nước, chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì yêu cầu về đào tạo con người được coi là quốc sách hàng đầu của mỗi quốc gia. Nhận thức cùng với quan điểm của Nhà nước là phát triển nhanh và bền vững. Theo tôi công ty thương mại Thăng Long nên coi việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ là một trong những chiến lược hàng đầu, nó là tiền đề cho sự thành công hay thất bại của công ty. Để làm được việc nỳ, công ty nên bỏ ra các khoản chi phí cho đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân viên. Hơn nữa nhập khẩu là hoạt động buôn bán diễn ra trong phạm vi quốc tế vì vậy cán bộ công nhân viên phải có trình độ về ngoại ngữ, phải am hiểu sâu sắc tình hình thị trường trong và ngoài nước, phải có kiến thức về thương mại quốc tế, luật pháp, tập quán buôn bán, biết cách giao dịch đàm phán, thương thuyết, có tinh thần hợp tác, có đầu óc thực tiễn, biết tính toán không chỉ lợi ích của doanh nghiệp mà còn lợi ích chung của nền kinh tế.
Để có các cán bộ công nhân viên giỏi, cần hoàn thiện và chú ý hơn nữa đến việc đào tạo cán bộ tại các trường đại học trong và ngoài nước. Khuyến khích và coi trọng sáng kiến trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Mở rộng sự tiếp xúc làm ăn với các doanh nghiệp nước ngoài, có chính sách khuyến khích về vật chất đối với các cán bộ công nhân viên giỏi.
b) Chăm lo đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty
Ở bất kỳ một công ty nào hoạt động trong bất kỳ một lĩnh vực nào đời sống của cán bộ công nhân viên tốt, chế độ đãi ngộ cao họ mới có thể làm tốt công việc của mình. Và đến lượt mình công việc kinh doanh của công ty thuận lợi thì đời sống cán bộ công nhân viên nâng cao, cái nọ bổ trợ kéo cái kia theo sẽ làm cho mọi hoạt động của công ty được tốt hơn. Khi đời sống của công nhân viên đã cao chế độ đãi ngộ không nhất thiết phải là tiền thưởng, có thể là những kỳ nghỉ với cả gia đình nhân các dịp ngày lễ hoặc tổ chức các cuộc vui chơi để cán bộ công nhân viên trong công ty hiểu nhau hơn và tạo một không khí làm việc thoải mái trong toàn công ty.
KẾT LUẬN
Đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia muốn hoà mình vào tiến trình hội nhập khu vực và thế giới sẽ không thể tách rời hoạt động xuất nhập khẩu . Trong nền kinh tế quốc dân hoạt động nhập khẩu đóng vai trò hết sức quan trọng bởi nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, làm đa dạng hoá mặt hàng, tạo động lực để phát triển sản xuất trong nước đồng thời nhập khẩu sẽ xoá bỏ tình trạng độc quyền trên thế giới, phá vỡ nền kinh tế đóng cũng như tạo ra sự cân đối cho nền kinh tế và thúc đẩy xuất khẩu .
Thuốc chữa bệnh là một hàng hoá đặc biệt nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người tiêu dùng, chính vì vậy đảng và nhà nước đã có chủ trương rất rõ ràng trong quá trình nhập khẩu thuốc. Trực tiếp quản lý là cục quản lý dược Việt Nam thuộc Bộ y tế đã có một sự nhìn nhận đúng đắn tạo điều kiện cho hoạt động nhập khẩu không ngừng phát triển và đem lại những kết quả đáng khích lệ. Đóng góp vào sự phát triển đó Công ty TNHH Thăng Long đã nổ lực phấn đấu bằng tất cả khả năng và tâm huyết của các cán bộ công nhân viên của toàn công ty.
Với bài báo cáo thực tập viết về đề tài nhập khẩu, em đã cố gắng đề cập tới mọi vấn đề của hoạt động nhập khẩu thành phẩm tân dược bằng những kiến thức được tích luỹ tại trường và kinh nghiệm thực tế từ quá trình thực tập tại công ty. Tuy nhiên do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi sai sót, em rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn đọc để bài viết được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin được chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo PGS.TS. Nguyễn Như Tiến cùng các cô chú, anh chị trong Công ty TNHH Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn báo cáo thực tập này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2006
Sinh viên
Phạm Thị Mai Phương
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kỹ thuật thương mại quốc tế TS. Đào Thị Bích Hoà ( chủ biên )
2. Marketing Thương mại quốc tế PTS. Nguyễn Bách Khoa
Ths. Phan Thị Thu Hoài
3. Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương PGS. Vũ Hữu Tửu
4. Kỹ thuật ngoại thương PGS. Dương Hữu Hạnh
5.Thanh toán quốc tế Ths. Dương Hữu Hạnh
6. Các tài liệu có liên quan của Công ty TNHH Thăng Long
PGS. Nguyễn Văn Hảo
7. Hợp đồng thương mại quốc tế Nguyễn Trọng Đàn
8. Quản trị chiến lược quốc tế PTS. Nguyễn Bách Khoa
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế của Đảng và nhà nước ta những năm vừa qua đã đem lại cho nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp dược nói riêng cơ hội to lớn để phát triển mạnh mẽ. Công ty TNHH Thăng Long đã có những bước phát triển vượt bậc không những về chủng loại, chất lượng sản phẩm mà cả về năng lực kinh doanh nhập khẩu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập nền kinh tế quốc tế, công ty đã đóng góp một phần không nhỏ của mình trong xu thế hội nhập đó. Nền kinh tế Việt Nam có điểm xuất phát thấp, chiến tranh kéo dài đã để lại cho nhân dân Việt Nam biết bao bệnh tật cộng với sự đói nghèo đã ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ nhân dân. Trước tình hình đó, một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các doanh nghiệp dược là phải làm thế nào để có nguồn thuốc chất lượng tốt, chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Với công nghệ y dược của Việt Nam hiện nay chỉ mới đáp ứng được phần nào yêu cầu đó, điều này làm cho hoạt động nhập khẩu thành phẩm tân dược có chất lượng cao càng trở nên quan trọng bởi bên cạnh việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân thì nhập khẩu thuốc còn là cầu nối thông suốt nền kinh tế tiên tiến trong và ngoài nước với nhau, chính hoạt động này cũng sẽ đóng góp vào sự phát triển ổn định của nền kinh tế và hơn ai hết nó sẽ giúp cho mỗi con người trong cộng đồng có được sức khoẻ, trí tuệ để tham gia hoạt động trong mọi lĩnh vực khác nhau.
Tuy nhiên, điều kiện mở cửa của kinh tế thị trường đặt ra cho công ty những thách thức rất lớn đặc biệt là trong kinh doanh quốc tế. Cùng với sự cạnh tranh khốc liệt là những khó khăn thách thức mới đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình nhập khẩu thành phẩm tân dược của Công ty TNHH Thăng Long. Đó cũng là một trong những vấn đề mấu chốt có thể trở thành nhân tố quan trọng đem lại thành công cho công ty trong cơ chế thị trường hiện nay, cần nâng cao hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Trên cơ sở vận dụng lý thuyết được học ở trường và sự tìm hiểu thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty em xin tiến hành thực hiện đề tài “Hoàn thiện quy trình nhập khẩu nguyên liệu và thành phẩm tân dược tại Công ty TNHH Thăng Long”
Trên cơ sở đánh giá thực trạng những điểm hoàn thiện và chưa hoàn thiện trong quy trình nhập khẩu tại công ty từ đó em xin đưa ra một số giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm góp phần nhỏ bé của mình trong việc đưa doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Như Tiến cùng các cô chú, anh chị trong phòng kinh doanh - nhập khẩu, Công ty TNHH Thăng Long đã giúp đỡ em hoàn thành báo cáo thực tập này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2006
Sinh viên: Phạm Thị Mai Phương
CHƯƠNG 1
VAI TRÒ NHẬP KHẨU VÀ QUY TRÌNH NHẬP KHẨU TẠI CÁC DOANH NGHIỆP KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU
I. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN
1. Khái niệm về nhập khẩu
Trong xu thế quốc tế hoá ngày nay đã thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Xuất khẩu và nhập khẩu là hai hoạt động quan trọng của thương mại quốc tế,nếu thương mại quốc tế là sự trao đổi mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ nhằm mục tiêu lợi nhuận giữa các thương nhân có trụ sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau và nói rằng xuất khẩu là một hình thức tất yếu của các công ty kinh doanh quốc tế khi xâm nhập thị trường quốc tế thì nhập khẩu cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng bởi vì xuất khẩu của nước này sẽ là nhập khẩu của nước kia và ngược lại, nó là một mặt không thể tách rời của nghiệp vụ ngoại thương. Đã có không ít những cách hiểu khác nhau về nhập khẩu nhưng xét trên góc độ trung nhất thì nhập khẩu được hiểu là sự mua hàng hoá dịch vụ từ nước ngoài về phục vụ cho nhu cầu trong nước hoặc tái sản xuất nhằm mục đích thu lợi nhuận.
2. Các hình thức của nhập khẩu
Trong điều kiện hiện nay nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các công ty kinh doanh quốc tế khi tham gia hoạt động nhập khẩu thường áp dụng hai hình thức kinh doanh nhập khẩu chính : là nhập khẩu trực tiếp (nhập khẩu tự doanh ) và nhập khẩu gián tiếp ( nhập khẩu uỷ thác ). Áp dụng hình thức nào điều này phụ thuộc vào điều kiện kinh doanh, điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật và vào yêu cầu của khách hàng.
2.1. Nhập khẩu trực tiếp (nhập khẩu tự doanh)
Trong thương mại quốc tế giao dịch trực tiếp ngày càng phát triển do các phương tiện thị trường rất phát triển, trình độ năng lực giao dịch của người thạm gia thương mại quốc tế ngày càng cao do đó khi nhập khẩu hàng hoá, các đơn vị kinh doanh quốc tế có thể trực tiếp giao dịch với nhà xuất khẩu một cách thuận tiện và dễ dàng.
Kinh doanh nhập khẩu theo hình thức trực tiếp được hiểu là việc đơn vị kinh doanh trực tiếp nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Việt nam với danh nghĩa và chi phí của mình rồi sau đó tiến hành kinh doanh, bán hàng hoá nhập khẩu cho khách hàng trong nước có nhu cầu.
Đơn vị kinh doanh theo hình thức nhập khẩu trực tiếp sẽ mang lại hiệu quả cao do giảm được chi phí trung gian, giảm bớt sai sót, lợi nhuận thu được do bán hàng hoá nhập khẩu lớn hơn chi phí uỷ thác nhập khẩu hàng hoá. Đồng thời theo hình thức này đơn vị kinh doanh có điều kiện trực tiếp tiếp cận thị trường để thích ứng với nhu cầu thị trường một cách tốt nhất, từ đó có thể chủ động được nguồn hàng và bạn hàng trong kinh doanh.
Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi đó thì kinh doanh nhập khẩu trực tiếp cũng gặp không ít khó khăn, hình thức này cũng chứa đầy rủi ro và mạo hiểm do doanh nghiệp phải có đủ tiềm lực về tài chính để đầu tư, cán bộ phải có nghiệp vụ giỏi, hình thức này nếu không tìm hiểu kỹ thị trường và đối tác thì rất dễ bị ép giá thậm chí sau khi nhập khẩu hàng hoá về có thể bán không được hoặc bán được với giá thấp. hình thức này không thích hợp với công ty kinh doanh quốc tế khi lần đầu tham gia trên thị trường quốc tế hoặc kinh doanh mặt hàng mới trên thị trường mới.
2.2. Nhập khẩu gián tiếp ( nhập khẩu uỷ thác ).
Trên thực tế hiện nay có nhiều đơn vị kinh doanh quốc tế không đủ điều kiện về nhân lực, cơ sở vật chất để tiến hành nhập khẩu trực tiếp do đó họ sẽ cần đến trung gian làm cầu nối giữa công ty nhập khẩu và đối tác là công ty xuất khẩu.
Kinh doanh nhập khẩu theo hình thức uỷ thác là việc đơn vị ngoại thương ( bên nhận uỷ thác ) đóng vai trò trung gian để thực hiện nghiệp vụ nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Việt nam theo yêu cầu của bên uỷ thác với danh nghĩa của mình nhưng bằng chi phí của bên uỷ thác.
Theo khái niệm về nhập khẩu uỷ thác có thể thấy rằng khi đơn vị kinh doanh theo hình thức này thì đơn vị ngoại thương không phải bỏ vốn của mình ra đem đi nhập khẩu, vốn này do bên uỷ thác cấp tuy nhiên đợn vị kinh doanh vẫn phải chịu chi phí về nghiên cứu thị trường, đối tác khi thực hiện hình thức nhập khẩu này hoàn toàn yên tâm về đầu ra do chỉ phải nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của người uỷ thác, điều này tạo ra một độ an toàn nhất định cho công ty kinh doanh quốc tế.
Về phía bên uỷ thác là những đơn vị kinh doanh có nhu cầu về hàng hoá nhập khẩu nhưng do điều kiện có thể không đủ trình độ nghiệp vụ để đứng ra nhập khẩu hàng hoá hoặc có thể họ có vốn nhập khẩu nhưng lại không có chức năng kinh doanh xuất nhập khẩu.
Mối liên hệ giữa bên uỷ thác và bên nhận uỷ thác thể hiện ở hoạt động ký kết giữa hai bên và những tài liệu, giấy tờ liên quan mà bên uỷ thác gửi cho đơn vị ngoại thương. Và chính đây là cơ sở quan trọng để bên được uỷ thác tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu với đối tác ở nước ngoài. Sau khi công việc nhập khẩu hoàn tất, đơn vị được uỷ thác bàn giao hàng hoá đúng như yêu cầu cho bên uỷ thác gọi là chi phí uỷ thác khoảng 1% giá trị hợp đồng, chi phí này có thể ít hơn hoặc nhiều hơn 1% phụ thuộc vào mối quan hệ giữa bên bán uỷ thác và bên nhận uỷ thác cũng như giá trị của hợp đồng.
Trên thực tế kinh doanh theo hình thức này lợi nhuận thu được không cao vì chỉ là phí uỷ thác nhưng lại đảm bảo tránh rủi ro, mạo hiểm đạt được mức độ an toàn, chắc chắn trong kinh doanh của đơn vị ngoại thương tiến hành nhập khẩu hàng hoá.
3. 3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Bất kì quốc gia nào cũng không thể tự sản xuất để đáp ứng một cách đầy đủ mọi nhu cầu trong nước, đặc biệt trong xu thế ngày nay, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao, nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thoát khỏi nền kinh tế tự cung tự cấp, lạc hậu. Mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân dựa rất nhiều về lợi thế so sánh, ở đó mỗi quốc gia sẽ đẩy mạnh sản xuất có lợi thế để phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu đi các quốc gia khác. Trong thực tế không có quốc gia nào là có lợi thế về tất cả các mặt hàng, các lĩnh vực, sự bổ sung hàng hoá giữa các quốc gia đã đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Những quốc gia phát triển thường xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu rất nhiều và ngược lại những nước kém phát triển thì kim nghạch nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu.
Với Việt Nam, một quốc gia mới chuyển sang nền kinh tế thị trưường gần 20 năm lại chịu nhiều hậu quả từ sự tàn phá chiến tranh. Do đó hoạt dộng nhập khẩu đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình khôi phục nền kinh tế và tiến tới quá trình CNH – HĐH đất nước. Cụ thể những vai trò những vai trò được thể hiện rõ nét như sau:
+ Trước hết nhập khẩu sẽ bổ xung kịp thời những hàng hoá còn thiếu mà trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất không đủ tiêu dùng làm cân đối kinh tế, đảm bảo cho sự phát triển ổn định và bền vững, khai thác tối đa khả năng và tiềm năng của nền kinh tế.
+ Nhập khẩu làm đa dạng hoá hàng tiêu dùng trong nước, phong phú chủng loại hàng hoá, mở rộng khả năng tiêu dùng, nâng cao mức sống của người dân.
+ Nhập khẩu xoá bỏ tình trạng độc quyền toàn khu vực và trên thế giới, xoá bỏ nền kinh tế lạc hậu tự cung, tự cấp. Tiến tới sự hợp tác giữa các quốc gia là cầu nối thông suốt của nền kinh tế tiên tiến trong và ngoài nước, tạo lợi thế để phát huy lợi thế so sánh trên cơ sở CNH.
+ Nhập khẩu sẽ thúc đẩy sản xuất trong nước không ngừng vươn lên, không ngừng tìm tòi nghiên cứu để sản xuất ra hàng hoá có chất lượng cao, đảm bảo, tăng cường sức cạnh tranh với hàng ngoại.
+ Nhập khẩu sẽ tạo ra quá trình chuyển giao công nghệ, điều này tạo ra sự phát triển vượt bậc của nền sản xuất hàng hoá, tạo ra sự cân bằng giữa các quốc gia về trình độ sản xuất, tiết kiệm chi phí và thời gian.
Ngoài ra nhập khẩu còn có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao giá trị cũng như chất lượng hàng hoá xuất khẩu thông qua trao đổi hàng hoá đối lưu, giúp Việt Nam nhanh chóng hoà nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới tham gia nhiều tổ chức kinh tế đặc biệt vững bước để tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO.
Những vai trò to lớn đó của nhập khẩu mỗi quốc gia luôn luôn cố gắng để tận dụng tối đa, đem lại sự phát triển vượt bậc trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên để vận dụng tối đa vai trò đó là cả một vấn đề đặt ra với đường lối phát triển của mỗi quốc gia, với những quan điểm của Đảng lãnh đạo.
Ở Việt Nam, có nền kinh tế xuất phát điểm rất kém, trước kia lại vận hành trong cơ chế quan liêu bao cấp, nền kinh tế chỉ là tự cung, tự cấp, công nghệ trang thiết bị lại lạc hậu, quan hệ kinh tế lại không phát triển, hoặc chỉ phát triển trong hệ thống các nươớc Xã Hội Chủ Nghĩa trong khi đấy các nước này cũng có nền kinh tế kém phát triển. Vận hành trong nền kinh tế như thế sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra với kim nghạch nhỏ bé, bó hẹp trong một vài quốc gia cùng chế độ. Đặc biệt là quan hệ kinh tế Việt Nam với Liên Xô cũ dưới hình thức viện trợ và mua bán theo nghị định thư hoặc trao đổi hàng hoá đối lưu, cộng thêm vào đó là sự quản lí cứng nhắc của nhà nước làm mất đi sự năng động linh hoạt trong quan hệ kinh tế quốc dân chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước với cơ cấu tổ chức bộ máy cồng kềnh, bị độc quyền, hoạt động theo tư tưởng quan liêu, tốc độ công việc nhập khẩu diễn ra trì trệ kém hiệu quả hoạt động nhập khẩu phải trải qua nhiều công đoạn đòi hỏi sự tham gia của nhiều cơ quan chức trách. Trong khi trên khu vực và trên thế giới nền kinh tế đã phát triển mạnh mẽ, linh hoạt và đem lại hiệu quả cao. Xu thế tất yếu ấy đã đòi hỏi Việt Nam phải thay đổi để phù hợp với nền kinh tế trên thế giới, những tư tưởng lạc hậu ấy cần được cải tiến và xoá bỏ thay thế vào đó là những cái mới tiến bộ hơn, linh hoạt hơn. Đó chính là vận hành theo cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN.
Từ khi nền kinh tế thị trường thay thế nền kinh tế tự cung, tự cấp đã có nhiều thay đổi tiến bộ theo hướng có lợi cho đất nước. N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5165.doc