LỜI MỞ ĐẦU 1
I, Những vấn đề lý luận chung về kỹ thuật phân tích 3
1, Khái niêm thủ tục phân tích 3
2. Tầm quan trọng của việc sử dụng các thể thức phân tích. 5
3. Nội dung của kỹ thuật phân tích. 7
3.1. So sánh giữa các thông tin tài chính kỳ này với các thông tin tài chính kỳ trước. 8
3.2. So sánh giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán. 9
3.3. So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với các chỉ tiêu bình quân trong ngành. 9
3.4. So sánh số hiệu của doanh nghiệp với các kết quả dự kiến của kiểm toán viên. 11
3.5. Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính. 11
4. Kỹ thuật phân tích được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán có hiệu lực. 12
4.1. Phân tích xu hướng ( Phân tích ngang) 12
4.2. Phân tích tỷ suất (phân tích dọc) 14
4.3. Kiểm tra tính hợp lý 16
5. Trình tự thực hiện thủ tục phân tích. 17
6. Ưu nhược điểm của kỹ thuật phân tích. 18
II. Thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. 19
1. Lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán tài chính. 19
2. Thực hiện thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. 21
3. Khái quát tình hình vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính khách hàng do công ty TNHH kiểm toán và tư vấn ACPA thực hiện. 24
III. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch trong kiểm toán báo cáo tài chính. 25
1. Thực trạng vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. 25
2. Giải pháp nhằm hoàn thiện vận dụng thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐÃ SỬ DỤNG 27
28 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1846 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo cáo tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i quy tắc. Chẳng hạn, khi so sánh tỷ lệ của mức dự phòng phải thu khó đòi với các khoản phải thu, với tỷ lệ đó của năm trước, giả sử tỷ lệ này đã giảm đi trong khi cùng lúc đó hệ số quay vòng các khoản phải thu cũng giảm đi. Tổng hợp hai mảng thông tin này sẽ chỉ rõ khả năng báo cáo dưới mức dự phòng. Khía cạnh này của các thể thức phân tích thường được gọi là sự quan tâm có định hướng vì nó dẫn đến các thể thức chi tiết hơn trong các lĩnh vực kiểm toán đặc thù mà ở đó có thể tìm thấy các sai số hoặc sai quy tắc.
- Giảm bớt các cuộc khảo sát chi tiết.
Khi một thể thức phân tích không làm bật lên các dao động bất thường thì có nghĩa là khả năng sai số hoặc sai quy tắc trọng yếu rất nhỏ. Trong trường hợp đó, thể thức phân tích cấu thành bằng chứng thực sự để chứng minh cho sự trình bày trung thực của các số dư tài khoản có liên quan và việc tiến hành khảo sát chi tiết tài khoản này có thể giảm bớt trong một số trường hợp khác một số thể thức kiểm toán nhất định có thể được loại trừ, quy mô mẫu có thể được giảm bớt hoặc thời hạn của các thể thức có thể được kéo dài hơn kể từ ngày lập bảng cân đối tài sản.
Các thể thức, phân tích thường không tốn kém như cuộc khảo sát chi tiết. Do đó, hầu hết kiểm toán viên thay thế các khảo sát chi tiết bằng các thể thức phân tích bất cứ khi nào có thể làm được.
Mức độ mà các thể thức phân tích có thể cung cấp bằng chứng hữu ích phụ thuộc vào tính toán tin cậy của chúng. Trong các tình huống đó, đối với một số mục đích kiểm toán và trong một số trường hợp, chúng có thể là những thể thức hiệu quả nhất để vận dụng. Những mục tiêu này có thể gồm sự xếp loại đúng đắn của các nghiệp vụ kinh tế, tính đầy đủ của việc ghi sổ nghiệp vụ kinh tế và tính chính xác của các phán xét, ước tính của ban quản trị trong một số lĩnh vực nhất định như dự phòng khoản phải thu khó đòi. Đối với các mục tiêu kiểm toán và ở trong những tình huống khác tốt nhất là xem các thể thức phân tích như sự quan tâm có định hướng và không được dựa vào đó để thu thập bằng chứng chính thức.
3. Nội dung của kỹ thuật phân tích.
Phân tích là quá trình so sánh, đối chiếu, đánh giá các mối quan hệ để xác định tính hợp lý của các số dư trên tài khoản. Các mối quan hệ bao gồm mối quan hệ giữa các thông tin tài chính với nhau và quan hệ giữa các thông tin tài chính và các thông tin phi tài chính. Do đó, kỹ thuật phân tích gồm 3 nội dung: dự toán, so sánh và đánh giá.
- Dự toán: Là việc ước đoán về số dư tài khoản, giá trị của các chỉ tiêu, tỷ suất hoặc xu hướng....
- So sánh: Là việc đối chiếu số dự đoán với số liệu trên báo cáo.
- Đánh giá: Là việc sử dụng các phương pháp chuyên môn và kỹ thuật khác (Phỏng vấn, quan sát) để phân tích và kết luận về các chênh lệch khi so sánh.
Phương pháp phân tích chủ yếu dựa vào quá trình so sánh các mối quan hệ giữa các thông tin tài chính với nhau hoặc giữa các thông tin tài chính với các thông tin phi tài chính. Cụ thể bao gồm những so sánh chủ yếu sau:
3.1. So sánh giữa các thông tin tài chính kỳ này với các thông tin tài chính kỳ trước.
Kiểm toán viên có thể so sánh các chỉ tiêu tài chính trên báo cáo tài chính kỳ này với báo cáo tài chính các kỳ trước. Hoặc có thể so sánh giữa số dư hoặc số phát sinh của các tài khoản cần xem xét giữa các kỳ. Mục đích của việc so sánh đó nhằm phát hiện những khoản mục, những chỉ tiêu hoặc tài khoản có sự biến động không bình thường để tập trung thẩm tra, xem xét. Thí dụ: Sự tăng đột ngột của chi phí sửa chữa tài sản cố định trong kỳ so với các kỳ trước đó, cần phải xem xét điều tra những chi tiết sai sót nếu có và xác định nguyên nhân hoặc lượng hàng tồn kho tăng đáng kể so với những kỳ trước đó, thì kiểm toán viên cần xem xét đến tỷ số giữa vòng quay hàng tồn kho kỳ này với kỳ trước có sự biến động lớn hay không và nếu có thì tìm nguyên nhân....
Việc so sánh chỉ có thể áp dụng đối với các thông tin có thể so sánh được, tức là các chỉ tiêu hay khoản mục có cùng nội dung và phương pháp tính toán.
3.2. So sánh giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch, dự toán.....
Thông qua việc so sánh các chỉ tiêu tài chính giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch hoặc dự toán sẽ giúp cho kiểm toán viên điều tra, phát hiện được những sai biệt lớn giữa số liệu thực tế với số liệu kế hoạch hoặc dự toán. Sẽ giúp cho kiểm toán viên điều tra, phát hiên được những sai biệt lớn giữa số liệu thực tế và kế hoạch hoặc dự toán. Từ đó có thể thấy những sai sót trong báo cáo tài chính hoặc những biến động lớn về sản xuất, kinh doanh mà kiểm toán viên cần xem xét, thí dụ: có sự chênh lệch quá lớn giữa giá thành thực tế và giá thành kế hoạch, hoặc hàng tồn kho thực tế với định mức hàng tồn kho, giữa giá trị sản lượng thực tế và kế hoạch.
3.3. So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị với các chỉ tiêu bình quân trong ngành.
Thông thường, trong phạm vi nhất định thì các chỉ tiêu của đơn vị và các chỉ tiêu bình quân của ngành có mối quan hệ tương đồng với nhau (Như các chỉ tiêu: mức lợi nhuận, hệ số vòng quay vốn, giá thành....) do vậy, kiểm toán viên có thể so sánh các chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của ngành, để phát hiện những sai biệt lớn, không bình thường, không hợp lý. Từ đó sẽ tìm ra nhưng sai sót hoặc giúp cho kiểm toán viên tìm hiểu kỹ hơn về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi so sánh giữa chỉ tiêu của đơn vị với chỉ tiêu bình quân của những ngành cần lưu ý đến nhân tố về quy mô cũng như tổ chức quản lý, phương pháp hạch toán khác nhau giữa các đơn vị trong ngành.
Tuy nhiên, khi so sánh cần kết hợp so sánh trong một khoảng thời gian nhất định chứ không chỉ so sánh ở một thời điểm, để có những kết luận xác đáng hơn.
Giả sử, so sánh giữa hệ số vòng quay vốn của doanh nghiệp với hệ số vòng quay vốn bình quân của ngành, kiểm toán viên có kết quả.
Chỉ tiêu
Doanh nghiệp
Bình quân ngành
19 x4
19 x 5
19 x 4
19 x 5
Hệ số vòng quay vốn
3,5
3,4
4,1
4,3
Nếu chỉ nhìn vào hệ số vòng quay vốn của doanh nghiệp trong hai năm thì thấy rằng doanh nghiệp có vòng quay vốn tương đối ổn định và không có biểu hiện bất thường. Song nếu so sánh với tỷ lệ bình quân của ngành thì tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp có xu hướng xấu đi và thấp hơn nhiều so với tỷ lệ bình quân của ngành. Trên cơ sở đó, kiểm toán viên sẽ tiếp tục thu thập bằng chứng để chứng minh cho điều dự toán trên.
Hãng thông tấn DUN AND BRADSTREET, ROBERT MORRIS và nhiều nhà xuất bản khác trên thế giới cũng đang thu thập thông tin tài chính cho hàng ngàn công ty và soạn thảo dữ kiện cho rất nhiều ngành kinh doanh khác nhau. Nhiều công ty kiểm toán mua các bản tin này để sử dụng như một căn cứ của việc so sánh ngành trong các công cuộc kiểm toán của họ.
Những lợi ích quan trọng nhất của quá trình so sánh ngành là nó như một sự giúp đỡ để hiểu rõ công việc kinh doanh của khách hàng và thấy được dấu hiệu của khả năng phát triển hay thất bại về mặt tài chính của doanh nghiệp....
Nhược điểm chính khi sử dụng các tỷ số của ngành để kiểm toán là sự khác nhau giữa bản chất của thông tin tài chính của khách hàng với bản chất của các công ty được dùng để tính các kết quả của ngành. Vì các dữ kiện của ngành là các số bình quân chung nên các quá trình so sánh có thể không có ý nghĩa. Thường thì mặt kinh doanh của khách hàng không giống như các chuẩn mực của ngành. Ngoài ra, các công ty khác nhau sử dụng các phương pháp kế toán khác nhau và điều này ảnh hưởng đến tính so sánh được của dữ kiện. Nếu hầu hết các công ty trong ngành sử dụng phương pháp FIFO để đánh giá hàng tồn kho và phương pháp khấu hao là phương pháp được sử dụng khấu hao bình quân trong khi đó công ty khách hàng được kiểm toán lại sử dụng phương pháp LIFO và phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần, các quá trình so sánh sẽ không còn ý nghĩa. Điều này không có ý nghĩa là các quá trình so sánh ngành không được thực hiện. Đúng hơn, đó là một dấu hiệu của nhu cầu thận trọng khi diễn giải các kết quả.
3.4. So sánh số hiệu của doanh nghiệp với các kết quả dự kiến của kiểm toán viên.
Hình thức so sánh dữ kiện của doanh nghiệp với các kết quả dự kiến được sử dụng khi kiểm toán viên tính các số dự kiến đó để so sánh với số thực tế. Theo hình thức này kiểm toán viên ước tính số dư của một tài khoản nào đó bằng cách liên hệ nó với một hoặc một vài tài khoản khác trên bảng cân đối tài sản hoặc trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, hoặc bằng cách dự toán dựa trên xu hướng lịch sử nào đó. Ví dụ: Việc tính giá trị dự kiến dựa trên các mối quan hệ giữa các tài khoản là quá trình tính toán độc lập của phí tổn trả tiền lãi trên các phiếu nợ dài hạn phải trả bằng cách nhân số dư cuối kỳ hàng tháng trên các phiếu nợ phải trả với lãi suất bình quân hàng tháng. Nếu có sự khác biệt trọng yếu giữa số liệu ước tính với số liệu thực tế, thì cần điều tra, xem xét để xác định nguyên nhân cụ thể.
3.5. Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính.
Các thông tin phi tài chính là các dữ kiện kinh tế, kỹ thuật do các hệ thống hạch toán cung cấp như số lượng nhân viên, số lượng phòng, giá phòng, hiệu suất phòng của một khách sạn, hoặc diện tích kho hàng của một doanh nghiệp. Với số liệu này việc xác định tổng thu từ các phòng để so sánh với doanh thu ghi sổ tương đối dễ. Hoặc xem xét, thẩm tra quỹ lương, mức lương bình quân, kiểm toán viên sẽ xem xét mối quan hệ của nó với số lượng công nhân của doanh nghiệp.
4. Kỹ thuật phân tích được sử dụng để thu thập bằng chứng kiểm toán có hiệu lực.
Trong quá trình thực hiện thủ tục phân tích, kiểm toán viên sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để thu thập bằng chứng kiểm toán có hiệu lực theo cách phân chia này kỹ thuật phân tích gồm có 3 loại: Phân tích xu hướng, phân tích tỷ suất và kiểm tra tính hợp lý.
4.1. Phân tích xu hướng ( Phân tích ngang)
Là sự phân tích những thay đổi theo thời gian của số dư tài khoản, nghiệp vụ phân tích xu hướng thường được kiểm toán viên sử dụng qua so sánh thông tin tài chính kỳ này với thông tin tài chính kỳ trước hay so sánh thông tin tài chính giữa các tháng trong kỳ hoặc so sánh số dư (Số phát sinh của các tài khoản cần xem xét giữa các kỳ, nhằm phát hiện những biến động bất thường để qua đó kiểm toán viên tiến hành kiểm tra chi tiết.
Phân tích xu hướng được xem làm rất hữu dụng trong việc phân tích về thu thập và chi phí. Thực chất của phân tích xu hướng là so sánh số liệu thực tế của khách hàng với số liệu của các chỉ tiêu này ở các kỳ trước hoặc giữa các kỳ với nhau, qua đó kiểm toán viên thấy được những biến động bất thường và xác định những lĩnh vực cần quan tâm. Kiểm toán viên có thể so sánh số dư của tài khoản tổng hợp, chi tiết của các số dư tổng hợp hoặc so sánh mối quan hệ tỷ lệ giữa các năm với nhau.
Khi vận dụng phương pháp phân tích xu hướng trong kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên có nhiều cách tiếp cận: Phương pháp tiếp cận dự đoán và phương pháp tiếp cận nhân quả. Phương pháp tiếp cận dự đoán là phương pháp so sánh số liệu hiện tại và xu hướng biến động của chúng qua các thời kỳ trước nhằm xem xét tính hợp lý. Theo phương pháp này kiểm toán viên không phải đưa ra các con số ước tính cụ thể đối với số dư hoặc tổng số phát sinh của phần hành đang được kiểm toán cũng như không phải giả định có vấn đề tồn tại, nếu số tài khoản không có sai lệch so với xu hướng biến động. Phương pháp tiếp cận dự đoán nhìn chung là đơn giản và dễ áp dụng, tuy nhiên kiểm toán viên sẽ không thể kiểm soát được hoàn toàn các sai sót còn tồn tại trong phần hành đang được kiểm toán bởi vì không thể loại bỏ khả năng xảy ra sai sót đối với phần hành đó ngay cả khi số dự hoặc tổng số phát sinh biến động theo đúng xu hướng.
Phương pháp tiếp cận nhân quả, tức là kiểm toán viên phải đưa ra một con số ước đoán cụ thể bằng cách xem xét và phân tích nguyên nhân, các yếu tố gây ra biến động và căn cứ vào đó đưa ra một con số dự kiến để so sánh với số liệu thực tế. Phương pháp tiếp cận này giúp kiểm toán viên kiểm soát tốt hơn phần hành mà mình đang kiểm toán vì kiểm toán viên hiểu rõ mọi nguyên nhân dẫn tới những biến động hợp lý của phần hành. Những chênh lệch so với con số dự kiến của kiểm toán viên có thể được khẳng định là có khả năng chứa đựng sai sót cao. Tuy nhiên, chi phí vận dụng cho phương pháp tiếp cận này cao hơn so với phương pháp tiếp cận dự đoán, vì thế kiểm toán viên cần cân nhắc khi vận dụng các phương pháp tiếp cận phù hợp với từng phần hành và từng khách hàng.
Phân tích xu hướng có thể được chia làm hai dạng:
- Phân tích xu hướng giản đơn: Là xác định con số ước tính dựa trên số dư tài khoản kỳ trước.
- Phân tích hồi quy: Là sử dụng phương pháp toán học trong phân tích tài chính để biểu hiện và đánh giá mối quan hệ tương quan giữa các chỉ tiêu kinh tế.
Tức là, kiểm toán viên sẽ xây dựng một mô hình hồi quy cho tài khoản cần kiểm tra dựa trên kết quả phân tích biến động qua nhiều năm và dựa trên bản chất của mỗi tài khoản.
Như vậy phân tích hồi quy tương đối phức tạp, để phân tích đòi hỏi kiểm toán viên phải có kinh nghiệm, trình độ cao hơn so với phân tích xu hướng giản đơn.
4.2. Phân tích tỷ suất (phân tích dọc)
Là cách thức so sánh các số dư tài khoản hoặc các loại hình nghiệp vụ. Phân tích tỷ suất cũng giúp so sánh tính hợp lý về tình hình tài chính của một công ty nào đó với công ty khác trong cùng một tập đoàn hay với ngành đó. Thông thường khi phân tích tỷ suất cũng phải xem xét xu hướng của tỷ suất đó.
Trong phân tích tỷ suất, kiểm toán viên quan tâm nhiều hơn tới mối quan hệ vốn có giữa các chỉ tiêu tài chính. Có hai loại phân tích tỷ suất là phân tích tỷ suất theo chuỗi thời gian và phân tích tỷ suất theo ngành. Phân tích tỷ suất theo thời gian là việc so sánh các tỷ suất của đơn vị qua các thời kỳ, tìm hiểu nguyên nhân biến động và đánh giá biến động của các tỷ suất đó theo thời gian. Phân tích tỷ suất theo ngành là việc so sánh các tỷ suất giữa các đơn vị cùng ngành tại cùng một thời điểm hoặc cho cùng một thời kỳ. Để phân tích tỷ suất theo ngành đòi hỏi kiểm toán viên phải có hiểu biết, có các thông tin đầy đủ về ngành, việc phân tích tỷ suất theo ngành chỉ mang tính tương đối bởi vì các doanh nghiệp dù trong cùng một ngành nhưng lại có quy mô khác nhau, tốc độ phát triển khác nhau, uy tín khác nhau.... việc phân tích này chủ yếu dùng để tham khảo riêng cho kiểm toán viên. Kiểm toán viên có thể đánh giá các tỷ suất theo các tỷ suất tài chính hoặc đánh giá theo quy mô.
Phân tích tỷ suất tài chính là so sánh số dư tài khoản, của nghiệp vụ phát sinh trên báo cáo tài chính, phân tích mối quan hệ giữa các chỉ tiêu đó, từ đó đưa ra đánh giá về sự biến động tỷ suất giữa các năm hoặc các đơn vị cùng ngành.
Phân tích tỷ suất theo quy mô được thực hiện trên cơ sở số dư của các tài khoản trên bảng khai tài chính được tính theo tỷ lệ phần trăm.
Một số tỷ suất được kiểm toán viên áp dụng trong phân tích gồm:
- Nhóm chỉ tiêu về thanh toán:
+ =
-> Chỉ tiêu này là thước đo phản ánh khả năng thanh toán nợ ngắn hạn, nếu hệ số này bằng 1 thì vừa đủ thanh toán, nếu hệ số này lớn hơn 1 nhưng bé hơn 3 thì tốt, nếu hệ số này lớn hơn 3 thì dẫn tới ứ đọng vốn.
+ =
+=
Tỷ suất này bằng 0,5 là tốt, lớn hơn 0,5 thừa, nhỏ hơn 0,5 là thiếu.
+ =
+ =
- Nhóm chỉ tiêu về cấu trúc tài chính:
Tỷ suất tài trợ =
Tỷ suất nợ =
Hai chỉ tiêu này thể hiện mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp.
=
-> Tỷ suất này được đánh giá tuỳ thuộc vào ngành nghề kinh doanh của khách hàng.
=
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời.
=
=
4.3. Kiểm tra tính hợp lý
Thường bao gồm những so sánh cơ bản như: so sánh số liệu thực tế và số liệu hạch toán, dự toán....từ kết quả so sánh tiến hành điều tra các chênh lệch lớn giữa thực tế và kế hoạch giúp kiểm toán viên phát hiện những sai sót trong hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Các so sánh chủ yếu bao gồm:
- So sánh giữa các chỉ tiêu của đơn vị và các chỉ tiêu bình quân của ngành.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính.
- So sánh số liệu của khách hàng với số liệu ước tính của kiểm toán viên.
Trong ba loại hình phân tích trên, kiểm tra tính hợp lý kết hợp các dữ liệu hoạt động, dữ liệu tài chính và được lập ra để kiểm tra sự tương ứng giữa hai loại dữ liệu này. Do đó mức độ chính xác hay độ tin cậy của bằng chứng thu thập được khi kiểm tra tính hợp lý được xem là cao nhất. Phân tích tỷ suất dựa trên mối quan hệ giữa các báo cáo khác nhau có mối liên quan nên việc phân tích các tỷ suất cũng có thể cung cấp các thông tin có giá trị. Phân tích xu hướng được xem là cung cấp dữ liệu có độ tin cậy thấp nhất vì kỹ thuật này dùng nhiều vào việc xem xét dữ liệu năm trước. Tuy nhiên nếu có cả sự phân tích lùi thì các bằng chứng tập hợp được trở nên có ý nghĩa hơn.
5. Trình tự thực hiện thủ tục phân tích.
Thứ nhất; Chọn loại hình phân tích phù hợp
Nhìn chung các loại hình phân tích áp dụng hiệu quả đối với các tài khoản trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và các nghiệp vụ liên quan hơn là đối với các tài khoản trong bảng cân đối kế toán. Vì các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh dễ dự đoán hơn, các nghiệp vụ mang tính chất thời kỳ. Trong khi đó, các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán thường kết hợp nhiều loại nghiệp vụ phức tạp, lại phát sinh mang tính thời điểm.
Thứ hai, đưa ra mô hình để dự toán những số liệu tài chính hoặc những xu hướng hay những tỷ suất về số liệu tài chính và số liệu hoạt động. Vấn đề này gồm các công việc sau:
- Xác định các biến tài chính và các biến hoạt động cũng như mối quan hệ có thể dự đoán được giữa hai loại biến này.
- Đưa ra mô hình kết hợp thông tin: Kiểm toán viên phải xác định mô hình về mối quan hệ giữa các biến, phù hợp với đơn vị được kiểm toán.
- Thu thập số liệu cơ sở: Kiểm toán thu thập số liệu về các biến đã xác định ở trên từ thực tế của đơn vị được kiểm toán.
- Xem xét tính độc lập và độ tin cậy của những số liệu cơ sở về hoạt động và về tài chính.
- Đưa ra dự toán sử dụng mô hình mà kiểm toán viên đã triển khai.
- Thứ ba: Dự toán và so sánh dự toán của kiểm toán viên với số liệu của đơn vị được kiểm toán.
Nếu có chênh lệch, có thể do các nguyên nhân như cs sai sót trong mô hình của kiểm toán viên hoặc có sai sót đáng kể trong số dư tài khoản. Để tìm hiểu chênh lệch kiểm toán viên có thể phỏng vấn nhà quản lý của công ty, thu thập các thông tin để hoàn thiện mô hình dự đoán. Đồng thời, kiểm toán viên cần theo dõi, kiểm tra những thông tin này. Có thể phỏng vấn nhiều nhân viên trong đơn vị và kiểm tra xem những câu trả lời của họ có thống nhất với nhau hay không, hoặc kiểm tra các chứng từ có liên quan.
Thứ tư: sử dụng đánh giá chuyên môn để rút ra kết luận về bằng chứng kiểm toán thu thập được
Nếu có chênh lệch giữa số liệu thực tế so với số liệu theo kế hoạch là rất lớn, kiểm toán viên không thu thập được bằng chứng như kế hoạch, khi đó kiểm toán viên cần tìm hiểu nguyên nhân chênh lệch, những ảnh hưởng của chênh lệch đó tới kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Nếu chênh lệch ít, kiểm toán viên kết luận rằng mục tiêu kiểm toán đã đạt được. Nếu chênh lệch này xấp xỉ độ chênh lệch theo kế hoạch, kiểm toán viên sẽ sử dụng đánh giá của mình có nên:
+ Chấp nhận chênh lệch này là chênh lệch kiểm toán và chuyển nó vào bảng tóm tắt những chênh lệch kiểm toán chưa được điều chỉnh.
+ Tiếp tục hoàn thiện dự đoán của mình, đưa vào nhiều biến hơn và đưa ra ít số xấp xỉ hơn cho đến khi chênh lệch có thể chấp nhận được.
- Tiến hành kiểm tra chi tiết.
6. Ưu nhược điểm của kỹ thuật phân tích.
- Ưu điểm: Dựa trên phương pháp phân tích, kiểm toán viên đánh giá các thông tin nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán. Thủ tục phân tích là tương đối đơn giản, có hiệu quả cao và ít tốn thời gian; chi phí cho kiểm toán thấp mà vẫn có thể cung cấp bằng chứng về sự đồng bộ, chuẩn xác và có giá trị về mặt kế toán, giúp kiểm toán viên đánh giá được tổng thể, không bị sa vào nghiệp vụ cụ thể. Thủ tục phân tích được sử dụng rộng rãi trong các cuộc kiểm taón và được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quy trình kiểm toán và được xem là rất hữu ích.
- Tuy nhiên khi sử dụng kỹ thuật phân tích cần lưu ý:
+ Mối quan hệ bản chất giữa các chỉ tiêu được so sánh, các chỉ tiêu so sánh phải đồng nhất về nội dung và phương pháp tính, giữa chúng phải có mối quan hệ với nhau
+ Những khoản mục hoặc chỉ tiêu trọng yếu không chỉ sử dụng phương pháp phân tích để kiểm toán mà cần kết hợp với các phương pháp khác để tìm bằng chứng thích hợp.
+ Nếu trong điều kiện hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém cần thận trọng khi phân tích và nên kết hợp với nhiều bằng chứng khác.
+ Đánh giá chênh lệch khi phân tích sẽ sai lầm nếu kiểm toán viên thiếu hiểu biết về mức chuẩn ngành kinh doanh của đơn vị được kiểm toán.
II. Thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
1. Lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán tài chính.
- Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các kiểm toán viên cần thực hiện trong mỗi cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý và các điều kiện cần thiết khác cho cuộc kiểm toán. Việc lập kế hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu chính của cuộc kiểm toán, nhằm chuẩn bị những điều kiện cơ bản trong công tác kiểm toán, cho cuộc kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác kiểm toán đã được quy định thành chuẩn mực và đòi hỏi các kiểm toán viên phải tuân theo đầy đủ nhằm đảm bảo tiến hành công tác kiểm toán có hiệu quả và chất lượng.
- Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc kiểm toán có vai trò quan trọng, chi phối tới chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Ý nghĩa của giai đoạn này được thể hiện qua một số điểm sau:
+ Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá trị làm cơ sở để đưa ra các ý kiến xác đáng về các báo cáo tài chính, từ đó giúp các kiểm toán viên hạn chế những sai sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ vững được uy tín nghề nghiệp đối với khách hàng
+ Kế hoạch kiểm toán giúp các kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau cũng như phối hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan như kiểm toán nội bộ, các chuyên gia bên ngoài...Đồng thời qua sự phối hợp hiệu quả đó, kiểm toán viên có thể tiến hành các cuộc kiểm toán theo đúng chương trình đã lập với các chi phí ở mức hợp lý, tăng cường sức mạnh cạnh tranh cho công ty kiểm toán và giữ uy tín với khách hàng trong mối quan hệ làm ăn lâu dài.
+ Kế hoạch kiểm toán thích hợp là căn cứ để công ty kiểm toán tránh xảy ra những bất đồng đó với khách hàng. Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm toán viên thống nhất với các khách hàng về nội dung công việc sẽ thực hiện, thời gian tiến hành kiểm toán cũng như trách nhiệm của mỗi bên.....
Điều này tránh xảy ra những hiểu lầm đáng tiếc giữa hai bên
+ Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm toán viên có thể kiểm soát và đánh giá chất lượng công việc kiểm toán đã và đang thực hiện, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc kiểm toán, từ đó càng thắt chặt hơn mối quan hệ giữa công ty kiểm toán với khách hàng.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung cũng như hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng là những hoạt động hết sức mới mẻ, trong đó hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán chưa đầy đủ, nội dung, quy trình cũng như phương pháp được vận dụng trong các cuộc kiểm toán của Việt Nam mới ở giai đoạn đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về số lượng, tính đồng bộ và hạn chế về mặt chất lượng. Do vậy, kế hoạch kiểm toán cần được coi trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của kiểm toán: Thực tiễn hoạt động kiểm toán ở nước ta trong những năm vừa qua cho thấy kế hoạch kiểm toán đầy đủ, chu đáo là một trong những nhân tố, hàng đầu đưa đến sự thành công của các doanh nghiệp.
Lập kế hoạch kiểm toán tổng quát gồm các bước côn việc sau:
- Chuẩn bị kế hoạch kiểm toán
- Thu thập thông tin cơ sở
- Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng.
- Thực hiện thủ tục phân tích.
- Đánh giá trọng yếu và rủi ro
- Nghiên cứu hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng và đánh giá rủi ro kiểm soát.
2. Thực hiện thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán.
Những nguyên tắc cơ bản xuyên suốt một cuộc kiểm toán, đòi hỏi một cuộc kiểm toán phải được lập kế hoạch phù hợp để kiểm toán viên thu thập được các bằng chứng kiểm toán đầy đủ, thích hợp làm căn cứ cho các nhận xét của mình. Phương pháp phân tích được coi là một dạng của phương pháp kiểm toán cơ bản nhằm thu thập bằng chứng kiểm toán. Nguyên tắc này yêu cầu sư dụng phương pháp phân tích trong giai đoạn lâp kế hoạch và soát xét lại toàn bộ các bước công việc của một kiểm toán. Nguyên tắc này cũng hướng dẫn việc sử dụng phương pháp phân tích như là các biện pháp kiểm tra cơ bản.
Thủ tục phân tích được sử dụng trong tất cả các giai đoạn của quy trình kiểm toán đó là: Trong giai đoạn chuẩn bị kiểm toán, trong giai đoạn thực hiện kiểm toán và trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán.
Trong đó phương pháp phân tích được sử dụng trong giai đoạn lập kế hoạch giúp kiểm toán viên nắm rõ quá trình kinh doanh của doanh nghiệp và thấy rõ những khu vực có khả năng xảy ra rủi ro bằng cách nêu ra các khía cạnh về sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K1299.doc