Đề tài Hoạt động khuyến mãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam: Thực trạng và các định hướng phát triển

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 3

2. Mục đích nghiên cứu của đề tài: .3

3. Nội dung nghiên cứu của đề tài .3

4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài: .3

5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: 4

 

Phần 1.TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MÃI TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH DỊCH VỤ

 

1. Tổng quan về hoạt động khuyến mãi: . 5

a. Bản chất của hoạt động khuyến mãi: .5

b. Mục đích của hoạt động khuyến mãi . .5

c. Các hình thức khuyến mãi: .6

2. Mối quan hệ của khuyến mãi với các hoạt động khác .7

a. Mối quan hệ với quảng cáo: 7

b. Mối quan hệ với quan hệ công chúng: 7

c. Mối quan hệ với bán hàng trực tiếp :.7

d. Mối quan hệ với marketing trực tiếp :.7

3.Các nhân tố ảnh hưởng đến hình thức khuyến mãi

và công cụ khuyến mãi.7

4.Đặc trưng của khuyến mãi trong kinh doanh dịch vụ.8

 

Phần 2.THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DỊCH VỤ VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM

 

1.Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ

viễn thông ở Việt Nam.10

2.Thực trạng hoạt động khuyến mãi trong kinh doanh

dịch vụ viễn thông ở Việt Nam.12

a.Các chương trình khuyến mãi lớn.12

b.Khuyến mãi bằng gói cước mới.14

3.Đánh giá điểm mạnh yếu và nguyên nhân của thực trạng.14

a.Ưu điểm và đánh giá:.14

 Đối với Nhà nước:.15

 Đối với doanh nghiệp:.15

 Đối với người tiêu dùng.16

b.Hạn chế :

 Từ phía doanh nghiệp:.16

 Từ phía Nhà nước:.18

 

Phần 3.MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MÃI CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM

 

1.Các xu hướng phát triển của hoạt động kinh doanh

viễn thông ở Việt Nam trong tương lai

Thuê bao tăng: . 20

Sự phát triển của các công nghệ mới: . . .20

 

2.Một số định hướng vĩ mô

a.Giải pháp tổng thể.23

b.Giải pháp quản lý khuyến mãi cho các doanh nghiệp viễn thông.24

3.Một số định hướng khác .27

 

KẾT LUẬN.28

 

Danh mục tài liệu tham khảo . . 31

 

 

 

 

 

 

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5272 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động khuyến mãi của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam: Thực trạng và các định hướng phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấn đề tranh chấp nảy sinh là điều không thể tránh khỏi. Áp lực của quá trình cạnh tranh đòi hỏi bản thân mỗi doanh nghiệp viễn thông phải đổi mới tích cực và thích ứng để vận động đi lên. Có thể nói khuyến mãi viễn thông ở Việt Nam bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng sau đây em chỉ đi sâu nghiên cứu về vấn đề khuyến mãi viễn thông đối với các thuê bao di động. 2.Thực trạng hoạt động khuyến mãi trong kinh doanh dịch vụ viễn thông ở Việt Nam a.Các chương trình khuyến mãi lớn Để giữ chân khách hàng, các mạng di động liên tục tung ra khuyến mại lớn hoặc các chương trình chăm sóc khách hàng đặc biệt. Tuy nhiên, một lý do quan trọng khác là các chương trình này cũng nhằm tấn công đối thủ cạnh tranh Tháng 6/2009, ngay sau khi Viettel gặp rắc rối lớn với chương trình khuyến mại tặng 150% giá trị thẻ nạp (dành cho thuê bao trả trước) nhưng thông tin không rõ ràng cho khách hàng, VinaPhone và MobiFone lập tức "tung chiêu". Trong khi Viettel đưa ra rất nhiều hạn chế đối với đợt khuyến mại "khủng" của mình thì VinaPhone và MobiFone cho khách hàng thoải mái về thời gian nghe gọi và cũng không phải quy đổi ra phút gọi hay nhắn tin mà tặng tiền trực tiếp vào tài khoản. Về mức độ khuyến mại, tuy không "khủng" tới mức 150% giá trị thẻ nạp nhưng mức 130% cũng đủ làm cho các khách hàng dùng di động đổ xô đi nạp thẻ. Cũng bởi nguyên nhân này, không ít khách hàng trước vốn đang dùng Viettel đã chuyển sang dùng MobiFone và VinaPhone. Ngay sau khi bị các mạng khác "phản đòn", Viettel cũng thay đổi với việc khuyến mại đối với thẻ nạp tiền 130% giống hệt như MobiFone và VinaPhone. Liên tiếp các đợt khuyến mại thẻ cào sau đó, nếu như MobiFone, VinaPhone khuyến mại bao nhiêu, Viettel cũng khuyến mại từng đó. Mới đây nhất, khi Viettel tung ra chương trình chăm sóc khách hàng đặt biệt có tên gọi "Tưng bừng trò chuyện". Điểm nhấn của chương trình này là miễn phí cho khách hàng khi gọi nội mạng từ phút thứ 6 đến phút thứ 10. Tuy nhiên, điều oái ăm là số lượng khách hàng có cuộc gọi dài quá 5 phút là cực ít. Hệ quả là số lượng khách hàng được chăm sóc ít mà chủ yếu là… được nghe quảng cáo về việc được chăm sóc trong tháng 9. Ngay sau khi Viettel tung ra chương trình chăm sóc khách hàng nói trên, từ 11/9, MobiFone cũng lập tức tung ra một chương trình chăm sóc khách hàng dành cho thuê bao trả sau có nguyên lý tương tự. Điểm khác biệt lớn nhất là MobiFone miễn phí 3 phút gọi cho khách hàng nhưng từ phút thứ 3 trở đi (miễn phí từ phút thứ 3 đến phút thứ 5). Với ưu đãi này, nếu khách hàng trả sau gọi nội mạng 5 phút sẽ chỉ phải trả tiền 2 phút, được giảm tới 60% cước gọi. Theo ước tính của các nhà mạng, vào năm 2010, thị trường di động Việt Nam có thể gần đạt mức bão hòa nên đây là thời điểm để các mạng "tát vét" khách hàng. Mục tiêu mà MobiFone đặt ra trong 6 tháng cuối năm 2009 là sẽ có thêm 5 triệu khách hàng, đưa tổng số thuê bao trên mạng đạt 40 triệu vào cuối năm 2009. VinaPhone cũng không giấu mục tiêu "sẽ thu hút thêm được nhiều thuê bao hòa mạng mới bên cạnh việc đảm bảo lợi ích dài lâu cho hơn 20 triệu thuê bao thực đang hoạt động". Để đạt được mục tiêu này không phải dễ bởi khi mà chất lượng dịch vụ giữa các mạng đã "sêm sêm" thì giá cước vẫn là "vũ khí" lợi hại nhất để giành thị phần, bởi trong số hàng chục triệu người đang dùng điện thoại di động hiện nay số đông là người có thu nhập thấp. Sau thời gian dài thỏa hiệp giảm liều lượng khuyến mãi, bỗng 3 doanh nghiệp đi đầu làng viễn thông quay sang soi xét nhau. Viettel và MobiFone cho rằng VinaPhone có biểu hiện phá vỡ cấu trúc thị trường khi cứ "thả giàn" khuyến mãi. Mấy năm gần đây, thị trường viễn thông VN chứng kiến cuộc đua sát nút giữa 3 ông lớn di động Viettel, MobiFone và VinaPhone. Giá cước được coi là lợi thế cạnh tranh và khi hôm nay Viettel giảm giá thì y như rằng ngày mai, anh em nhà VNPT VinaPhone và MobiFone cũng ấn định mức cước tương tự. Không có một quy ước chung nhưng cả 3 mạng di động đại gia đều "nhìn nhau" để đưa ra các gói cước và chương trình khuyến mãi. Khi thị trường bước vào giai đoạn gần bão hòa, cuối tháng 6 vừa qua, 3 mạng di động VinaPhone, MobiFone và Viettel đồng thỏa thuận giảm tần suất khuyến mãi, đồng thời rút bớt số tiền tặng vào tài khoản cho mỗi thẻ sim kích hoạt. Nghĩa là với mỗi bộ kít trả trước giá 65.000 đồng, khi kích hoạt, khách hàng sẽ có 100.000 đồng trong tài khoản thay vì các mức 105.000 đồng, 110.000 đồng và thậm chí là 140.000 đồng... như trước đây. Nguyên nhân khiến các đại gia di động “bắt tay” được lý giải là do doanh thu bị ảnh hưởng khi thực hiện đợt giảm cước mạnh 20% từ 1/6. Trong khi đó, việc khuyến mãi lớn đang làm tăng tỷ lệ thuê bao ảo tại hầu hết các mạng di động. Tuy nhiên, cuối tháng 7, VinaPhone lại phá vỡ “thoả thuận quân tử” đã được 3 bên xác lập. Đại gia di động này công bố trên webite về chương trình khuyến mại bắt đầu từ 1/8 với mức khuyến mại tăng rất mạnh so với trước. Khách hàng hòa mạng bộ kít 65.000 đồng sẽ có ngay 105.000 đồng vào tài khoản, cao hơn 5.000 đồng so với mức mà Viettel và MobiFone đang áp dụng. Chưa hết, VinaPhone còn chơi trội khi tặng thêm 20 phút gọi và 50 SMS nội mạng miễn phí. Nếu tính tổng cộng, tổng tài khoản của VinaPhone lên tới xấp xỉ 150.000 đồng. Không chịu nổi, 2 mạng Viettel và MobiFone phải có buổi "trao đổi kín" về động thái này của VinaPhone. Ngày cuối cùng của tháng 7, Viettel và MobiFone quyết định nâng mức khuyến mại từ 100.000 đồng lên 120.000 đồng cho bộ kit trả trước mệnh giá 65.000 đồng. Cả Viettel và MobiFone đều “rất không hài lòng” về quyết định đơn phương của VinaPhone. Lãnh đạo của một mạng di động lớn nói: “Xét mọi khía cạnh thì trong thời điểm hiện nay, chính VinaPhone mới là người phá vỡ mặt bằng thị trường vừa mới được xác lập, chứ không phải là Beeline. Giờ thì các doanh nghiệp đều phải theo lao chứ cũng chẳng còn cách nào khác. Nghĩa là phải đồng loạt tăng khuyến mãi để chạy theo VinaPhone”. Một trong những đặc điểm nổi bật trong các cuộc thoả thuận giữa 3 mạng là VinaPhone luôn yêu cầu: Nếu giảm khuyến mại thì VinaPhone vẫn phải có mức khuyến mại cao hơn so với Viettel và MobiFone. Thêm vào đó, nếu chương trình khuyến mại nạp thẻ của Viettel và MobiFone được tung ra thì VinaPhone được khuyến mại nhiều hơn. Điều này thể hiện cụ thể nhất ở trong chương trình tặng tài khoản cho các khách hàng nạp thẻ gần đây nhất: Viettel tặng 100% thẻ nạp, MobiFone tặng 120%, còn VinaPhone tặng 130%. Trước đó, tại TP HCM, VinaPhone còn cho các khách hàng trả sau được gọi nội mạng "thả giàn” cả năm mà không mất một đồng nào. b.Khuyến mãi bằng gói cước mới Cùng với khuyến mại tặng giá trị thẻ nạp, Viettel, MobiFone và VinaPhone tiếp tục cuộc đua khi liên tục ra mắt các gói cước mới. Cách đây 3 tháng, Viettel là mạng đầu tiên ra mắt gói cước dành cho sinh viên. Cuối tháng 8, MobiFone công bố 2 gói cước Q-Teen (dành cho các khách hàng từ 15 tới 18 tuổi) và Q-Student (dành cho sinh viên) với nhiều ưu đãi như miễn phí 15.000đ cước sử dụng GPRS/tháng; tặng thêm tin nhắn MMS, tặng thêm cước phí hàng tháng... thì chỉ vài ngày sau VinaPhone cũng ra mắt hai gói cước "Talk-Student"  và "Talk-Teen" dành cho hai đối tượng trên và những khuyến mại tương tự. Phó giám đốc Vinaphone Hồ Đức Thắng còn khẳng định, trong thời gian tới VinaPhone sẽ tiếp tục mở rộng và phát triển gói cước TalkEZ  dành cho các đối tượng khách hàng đặc biệt khác trong xã hội để "tất cả mọi người, không phân biệt thu nhập, sẽ có điều kiện tiếp cận và sử dụng dịch vụ điện thoại di động của VinaPhone một cách dễ dàng hơn". Điều đó cũng có nghĩa khách hàng sẽ còn tiếp tục "bội thực" vì các chương trình khuyến mại. 3.Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng a.Ưu điểm và đánh giá: Thị trường viễn thông đang chứng kiến cuộc cạnh tranh bằng khuyến mãi quyết liệt giữa các nhà cung ứng dịch vụ. Vũ khí cơ bản của cuộc cạnh tranh này là tung ra các chương trình khuyến mãi, đôi khi khác biệt mà đôi khi lại giống hoặc gần giống. Có thể nói, về mặt ưu điểm, cạnh tranh là một động lực để thúc đẩy phát triển chung của thị trường, mang lại lợi ích cho cả ba bên: Nhà nước, doanh nghiệp, người tiêu dùng Đối với Nhà nước: Cạnh tranh là một quy luật cơ bản của một nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh tạo ra động lực cho thị trường phát triển. Nhờ có cạnh tranh, hàng hoá ngày càng trở nên phong phú, đa dạng, giá cả ngày càng hạ, chất lượng ngày càng cao, dịch vụ khách hàng ngày càng tốt hơn. Hơn nữa, cạnh tranh giúp các doanh nghiệp nói chung và nền kinh tế nói riêng nâng cao khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh trên thị trường bưu chính viễn thông nói chung và thị trường viễn thông nói riêng tại Việt Nam cũng bắt đầu xuất hiện và ngày một quyết liệt hơn. Hoạt động cạnh tranh lành mạnh không chỉ có lợi với các doanh nghiệp mà còn góp phần làm tăng trưởng nền kinh tế quốc dân giúp nền kinh tế của đất nước phát triển. Để xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh, vai trò điều tiết của Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Vì thế sự giám sát của Nhà nước trong hoạt động cạnh tranh là vô cùng cần thiết. Đối với doanh nghiệp: Có thể nói khuyến mãi viễn thông đã thúc đẩy một bước thay đổi lớn trong các doanh nghiệp kinh doanh viễn thông tại Việt Nam. Đưa ra các chương trình khuyến mãi là cơ hội để các doanh nghiệp kinh doanh viễn thông có những thay đổi năng động hơn. Đây cũng là bước chuẩn bị cho hội nhập quốc tế, cạnh tranh với những tập đoàn viễn thông lớn. Hoạt động khuyến mãi nhằm cạnh tranh cũng đã tạo nên một thay đổi lớn trong lĩnh vực kinh doanh viễn thông đó là chấm dứt hoạt động kinh doanh độc quyền, giá cả đắt đỏ, mở rộng hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông đưa đến các cơ hội mới cho nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Đứng vững trong hoạt động cạnh tranh cũng giúp các doanh nghiệp khẳng định được vị thế của mình và ngày một trưởng thành hơn. -Khuyến mãi “tiếp thị” tốt hình ảnh của doanh nghiệp với người tiêu dùng. Thương hiệu lớn như Viettel, Mobifone, Vinaphone… đã trở nên quen thuộc hơn bao giờ hết với người Việt Nam. Hình ảnh về doanh nghiệp được người tiêu dùng hình dung phần lớn là tốt và đáng tin cậy. -Doanh nghiệp có khuyến mãi tốt giúp kéo lượng khách hàng về tay doanh nghiệp mình đông hơn. -Doanh thu tăng trưởng cao là điều không thể phủ nhận, chỉ tính riêng năm 2009, khách hàng viễn thông đã đóng góp vào mức doanh thu 140.000 tỷ đồng của các doanh nghiệp viễn thông. Những con số này cho thấy viễn thông Việt Nam có sự tăng trưởng mạnh cả về doanh thu và số lượng thuê bao. Đối với người tiêu dùng Trong những “cơn mưa” khuyến mãi đi đôi với chất lượng dịch vụ của cạnh tranh viễn thông hiện nay khách hàng là người được hưởng lợi nhiều nhất. Đối với người tiêu dùng khi lựa chọn cho mình một nhà cũng cấp dịch vụ viễn thông thì 2 nhân tố quyết định đó là giá thành của dịch vụ và chất lượng của dịch vụ. Và trong chiến lược cạnh tranh của mình các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cũng luôn chú trọng hàng đầu đến những vấn đề này. Với hàng loạt các phương thức cạnh tranh: Khuyến mãi, giảm giá cước, chăm sóc khách hàng … các nhà cung ứng dịch vụ viễn thông đã đáp ứng được các nhu cầu của mọi người tiêu dùng. Ưu điểm rõ nét nhất của cạnh tranh viễn thông đó chính là đã mang đến cho người tiêu dùng nhiều cơ hội chọn lựa mới hấp dẫn với những chính sách chăm sóc khách hàng khiến người tiêu dùng vừa ý. Và đặc biệt nhờ có hoạt động cạnh tranh mà mạng viễn thông đã được phủ sóng rộng rãi giúp những người dùng có thu nhập thấp tiếp cận được với công nghệ số. - Những đợ khuyến mãi luôn được khách hàng tận dụng để tăng thêm tài khoản. Bằng nhiều cách khác nhau như dùng 2 máy, dùng nhiều sim, lựa chọn trong các gói cước đa dạng một gói cước phù hợp nhất với nhu cầu sử dụng…. Nhất là trong những đợt tặng thêm tài khoản thưởng 50%, 100%, thậm chí 200% hay hơn nữa, người tiêu dùng luôn co lợi nhất. b.Hạn chế : Bên cạnh những ưu điểm nổi bật khuyến mãi viễn thông đang ngày càng bộc lộ rõ những mặt hạn chế cần khắc phục cả từ phía doanh nghiệp và từ phía nhà nước. Từ phía doanh nghiệp: Trong bối cảnh lạm phát, giá cả tăng cao nhưng riêng viễn thông khuyến mãi rất nhiều và liên tục giảm cước, tăng ưu đãi cho khách hàng. Tuy nhiên trong cuộc chơi này, các doanh nghiệp áp dụng khá nhiều... “tiểu xảo”. Vì thế, sự cạnh tranh càng gay gắt. Theo những dẫn chứng cụ thể đã nêu ra ở phần trên ta có thể thấy hệ quả nhãn tiền của “cuộc chơi chưa có hồi kết”giữa các mạng viễn thông trong việc đua nhau giảm giá cước, gia tăng khuyến mãi đó doanh thu giảm, tiềm tàng nhiều mối nguy hiểm cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ mới gia nhập thị trường. Theo các chuyên gia viễn thông, mức giảm cước điện thoại quá nóng khiến doanh thu của doanh nghiệp sụt giảm ghê gớm. Thậm chí vừa qua, các doanh nghiệp viễn thông đã phải tổ chức hội thảo tìm cách tháo gỡ sự thất thu này. Thời gian vừa qua cũng là giai đoạn căng thẳng khi các doanh nghiệp đua nhau áp dụng “tiểu xảo”. Đầu tiên, các doanh nghiệp "tung hoả mù" khi tranh nhau tự nhận mình là "tốt nhất", "nhiều nhất"... Tiếp đó, VNPT "bật đèn xanh" cho MobiFone và VinaPhone áp dụng các gói cước nhóm với mức ưu đãi cước có thể giảm tới 90%. Cuối tháng 9.2008, VNPT lại cho phép 2 Cty con áp dụng biện pháp miễn cước chuyển tiếp cuộc gọi... Để đáp trả, Viettel lại phải đưa ra hàng loạt "chiêu" gồm cước kết nối GPRS, tặng cước phí cho người nộp cước sớm. Đặc biệt, doanh nghiệp này còn chơi "đòn hiểm" khi tặng tiền cho thuê bao mạng khác chuyển sang, khuyến mãi kết nối nhóm, khuyến mãi cước khi gọi nội mạng Viettel... Cho đến nay, doanh nghiệp thuộc công nghệ mạng CDMA như EVN Telecom, S-Fone đều đã hụt hơi. Cụ thể, trong khi 3 mạng di động GSM có tới gần 60 triệu thuê bao thì toàn mạng CDMS chưa có nổi 6 triệu thuê bao. HT Mobile đã phải ngừng hoạt động; S-Fone thì hụt hơi trong cuộc đua khuyến mãi và buộc phải tăng giá cước gói Forever Coupble. Hàng loạt các gói sản phẩm và công nghệ khác đang trong tình trạng "sống dở, chết dở" như CityPhone (mạng nội thị), hay như gói sản phẩm E-Phone của EVN Telecom... Cũng theo các chuyên gia viễn thông, có thể nói cuộc đua giữa các doanh nghiệp viễn thông đã "hạ màn" khi VN có đủ 3 doanh nghiệp "thế chân vạc" là Viettel, MobiFone và VinaPhone để dẫn dắt thị trường. Tuy nhiên, các chuyên gia cũng khuyến cáo, nếu việc giảm cước diễn ra quá nóng, nhiều tiểu xảo như trên thì các doanh nghiệp nhỏ gần như không còn cơ hội cạnh tranh. Điều này thực tế là bất lợi cho tất cả các doanh nghiệp, khi mà tiềm năng kinh doanh đã bị khai thác quá mức. Giữa các doanh nghiệp còn thiếu sự liên kết hỗ trợ lẫn nhau cùng cạnh tranh lành mạnh nhất là giữa những doanh nghiệp lớn và những doanh nghiệp nhỏ mới thành lập. Vì thế trong hoạt động cạnh tranh không tồn tại sự bình đẳng cho các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường. Các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong việc quy hoạch dung lượng mạng, chất lượng mạng chưa ổn định do băng tần không sạch bị nhiễu nặng. Ngoài ra còn phải đối mặt với nhiều trở ngại như giá thiết bị cao, thiết bị đầu cuối đắt. Cụ thể như EVNTelecom và S-Fone vẫn đang gặp khó khăn về thiết bị đầu cuối Vietnammobile và Beeline thì khó khăn về vùng phủ sóng và phân khúc khách hàng. Bên cạnh đó bản than các doanh nghiệp này chắc chắn đi sau các doanh nghiệp lớn trong việc cung cấp dịch vụ 3G. Việc phát sinh số lượng thuê bao ảo lớn dẫn đến một hậu quả nghiêm trọng đó là khiến chất lượng dịch vụ bị giảm sút. Số lượng thuê bao tăng nhanh hơn so với sự phát triển của mạng, và cùng một lúc, nhiều thuê bao sử dụng sẽ làm cho tốc độ truyền tải của mạng kém đi... Như thế, ngày càng xuất hiện nhiều hiện tượng lỗi mạng, chậm mạng, khiến nhiều khách hàng bức xúc. Điều này tất cả các mạng di động đều hiểu nhưng lại đang cố tình phớt lờ những hậu quả tiêu cực ấy. Bên cạnh đó, do mải chạy đua nhằm tăng số lượng khách hàng đến với mạng đi động của mình, các mạng di động chỉ chăm chút tăng khuyến mại để thu hút khách hàng mới mà bỏ quên các khách hàng cũ. Khi áp dụng nhiều biện pháp khuyến mại cho các thuê bao hoà mạng mới, chỉ có các thuê bao mới là người được lợi, còn các khách hàng chỉ chung thành với 1 sim là những người phải chịu thiệt nhiều nhất. Lẽ ra những khách hàng lâu năm phải được chăm sóc một cách chu đáo với nhiều mức ưu đãi nhất thì họ gần như không nhận được khuyến mại gì và bị thiệt hơn nhiều nếu so sánh với các khách hàng trả trước mới chỉ cần mua sim, dùng xong là vứt bỏ.   Lãnh đạo doanh nghiệp viễn thông cho biết: Thị trường di động đã tiến đến ngưỡng bão hòa nên tăng khuyến mãi để nâng cao sức cạnh tranh là điều tất yếu. Tuy nhiên, cái gì quá nhiều cũng gây ra tác dụng ngược. Doanh nghiệp đang phải đối mặt với nhiều vấn đề như việc khách hàng chuyển đổi thuê bao trả sau sang trả trước, sử dụng nhiều sim của các mạng khác nhau để hưởng khuyến mãi nên khó có thể thống kê được số lượng khách hàng trung thành. Đến nay, có thể nói về chất lượng các mạng lướn cũng đã ngang ngửa nhau, giá cước rẻ vốn là lợi thế cạnh tranh nay đã trở nên mơ hồ vì khuyến mãi tràn lan. Để chiến thắng trong cạnh tranh đòi hỏi doanh nghiệp phải có chính sách phát triển đúng hướng về người tiêu dùng. Về lâu dài, lãnh đạo các doanh nghiệp sẽ phải ngồi lại với nhau để cùng đưa ra một giải pháp tối ưu hơn. Từ phía Nhà nước: Những hạn chế trong lĩnh vực khuyến mãi viễn thông không chỉ bộc lộ từ phía doanh nghiệp mà còn bộc lộ từ phía Nhà nước. Trong cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt trên lĩnh vực viễn thông hiện nay, các cơ quan quản lý cạnh tranh chưa có các chế tài quản lý giám sát và xử lý đủ mạnh với các hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp mà chủ yếu nếu có vấn đề gì xảy ra tự các doanh nghiệp phải tìm hướng giải quyết với nhau. Các doanh nghiệp nhỏ gặp khó khăn là vậy nhưng nhà nước lại chưa có một chính sách hữu hiệu nào để tạo điều kiện nâng đỡ các doanh nghiệp mới phát triển, làm cho môi trường đầu tư và tài nguyên cho các doanh nghiệp mới khai thác trở nên ít ỏi. EVN Telecom cho rằng đây là nguyên nhân làm cho tốc độ phát triển thuê bao tại nhiều tỉnh thành bị chậm do quỹ tần số không đủ để cung ứng trong thời gian đầu. Trong hoạt động cạnh tranh chất lượng dịch vụ khách hàng của các doanh nghiệp ngày càng cần được hoàn thiện.Nhưng tốc độ xây dựng cơ bản chậm do có quá nhiều thủ tục quy định xây dựng không thể bỏ qua Mặc dù nhà nước đã có khuôn khổ pháp lý về quản lý cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông và đang tiến hành xây dựng luật viễn thông nhưng để có một môi trường cạnh tranh viễn thông thực sự lành mạnh vẫn còn là câu hỏi bỏ ngỏ. èNguyên nhân của những hạn chế trên Một trong các nguyên nhân khiến tình trạng khuyến mại vượt khỏi tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng là các văn bản quy định nhiều song chưa đầy đủ thống nhất và chính xác. Do chế tài xử lý của pháp luật chưa đủ mạnh, chưa đủ sức răn đe, các doanh nghiệp sẵn sàng lách luật, vi phạm luật vì mục tiêu lợi nhận và với ý định chiếm lĩnh thị trường Có thể nói rằng nhu cầu quảng bá thương hiệu, kích cầu tiêu dùng luôn được các đơn vị tổ chức khuyến mại đặt lên hàng đầu. Chính vì vậy, số lượng các chương trình khuyến mại theo đó cũng tăng lên từng năm. Một số doanh nghiệp khi thực hiện chương trình khuyến mại bị phát hiện ra có dấu hiệu vi phạm, thực chất nhiều trường hợp do những doanh nghiệp này không nắm hết các quy định về khuyến mại nên đã vô tình vi phạm. Trên thực tế, việc kiểm tra kiểm soát các hoạt động khuyến mại là hầu như không thể thực hiện được trong tình trạng số lượng doanh nghiệp tham gia quá nhiều, phạm vi, hình thức khuyến mại đa dạng trong lúc cán bộ quản lý ít, quy định không rõ ràng. Khi phát hiện đơn vị tổ chức vi phạm Sở Thương Mại đã có công văn nhắc nhở đồng thời yêu cầu lực lượng quản lý thị trường kiểm tra, giám sát chặt việc sửa sai của đơn vị tổ chức. Tuy nhiên do số lượng chương trình khuyến mại quá dày mà cán bộ có hạn nên với những chương trình khuyến mại không mang tính may rủi, cán bộ phụ trách không thể bao quát hết. Phần 3.MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KHUYẾN MÃI CHO CÁC DOANH NGHIỆP VIỄN THÔNG Ở VIỆT NAM 1.Các xu hướng phát triển của hoạt động kinh doanh viễn thông ở Việt Nam trong tương lai Thuê bao tăng: Theo dự báo của Nhóm nghiên cứu Vietnam Report, đến năm 2012 số thuê bao di động sẽ tăng lên đến 124 triệu thuê bao và mật độ thuê bao di động trên 100 dân sẽ tăng vượt mốc 120. Điều này thể hiện một tốc độ tăng trưởng sẽ rất ấn tượng của thị trường điện thoại di động. Song song với đó, trong thời gian tới với việc 4 nhà cung cấp dịch vụ viễn thông vừa trúng tuyển giấy phép 3G, bao gồm Vinaphone, Mobifone, Viettel, EVN Telecom liên danh với HT Mobile, dự báo thị trường di động sẽ có chiều hướng cạnh tranh và phát triển rất đáng kể. (Nguồn: Cổng thông tin điện tử của sở thông tin và truyền thông) Sự phát triển của các công nghệ mới: Gần đây, cũng có nhiều thay đổi đáng kể trong lĩnh vực viễn thông. Các công nghệ mới như là Internet và GMPCS đã được đưa vào thị trường do vậy cần có các chính sách, quy định và các tổ chức chịu trách nhiệm trong vấn đề khai thác. Vấn đề tự do hoá và bãi bỏ các quy định cũ đã được đưa ra đối với thị trường dịch vụ viễn thông mới. Các vấn đề mới nảy sinh đối với các nước thành viên như là cam kết của họ đối với WTO và đã mở rộng đến phạm vi quốc gia quan tâm về viễn thông. Các nước thành viên đã tự mình có những thay đổi về cơ cấu tổ chức để đáp ứng các thách thức mới như là chia sẻ khai thác kinh doanh và các quy định viễn thông. Tác động trước mắt của Internet và thương mại điện tử đã thúc đẩy hơn nữa những thay đổi cho cơ chế đang tồn tại về chính sách, quy định và thương mại trong lĩnh vực viễn thông. Thị trường thế giới về lĩnh vực viễn thông đang ngày càng mở rộng. Nó không còn là vấn đề 'kéo cầu' hay 'đẩy cung', cả hai điều này đang xảy ra. Sự tác động lẫn nhau của hai yếu tố này khiến cho viễn thông trở thành một trong những lĩnh vực có sự tăng trưởng hàng đầu trong nền kinh tế thế giới. Nó cũng khiến cho viễn thông trở thành một trong những ngành quan trọng nhất của hoạt động xã hội, văn hoá và chính trị. Điều này đặt ra những vấn đề quan trọng có liên quan đến viễn cảnh về xã hội thông tin toàn cầu (GIS). Viễn cảnh này đã là chủ đề tranh luận trong gai đoạn 1995-1999, ban đầu là các nước công nghiệp tiên tiến G7, sau đó là trong cộng đồng quốc tế. Ngày nay những ý tưởng cơ bản ẩn sau khái niệm GIS đang được chấp nhận một cách rộng rãi. Trong viễn cảnh này, mọi hình thức hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị sẽ ngày càng phụ thuộc vào việc truy nhập những dịch vụ viễn thông và thông tin của cơ sở hạ tầng thông tin toàn cầu (GII). Sự phát triển nhanh chóng của thương mại điện tử trên Internet là một ví dụ làm thế nào để GIS trở thành hiện thực. Thách thức cộng đồng quốc tế đang phải đối mặt đó là phải tìm ra được những hướng đi đảm bảo GIS thực sự mang tính toàn cầu và rằng mọi người ở mọi nơi có thể chia sẻ những quyền lợi của no. Tốc độ thay đổi trong lĩnh vực viễn thông là rất lớn và các ứng dụng của nó đang trở nên rộng rãi hơn. Công nghệ, kinh doanh thương mại, môi trường và các tổ chức quốc tế về viễn thông đang thách thức khả năng của xã hội trong lĩnh vực quản lý. Các giải pháp lâu dài cho vấn đề truy nhập trong các khu vực vùng sâu, vùng xa đó là các công nghệ mới như là Cellular, vệ tinh, cáp quang và DSL và chúng đang tăng đáng kể trong toàn bộ thị trường. Dù sao vẫn có khác biệt lớn tồn tại như độ khả dụng của dịch vụ bên trong các nước và giữa các nước. Công nghệ mới có khả năng làm tăng thêm hoặc làm giảm sự mất cân bằng giữa các nước. Việc truy nhập tới các dịch vụ mới sẽ đòi hỏi không chỉ đối với vấn đề cân bằng mà còn đòi hỏi về vấn đề thành công trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin. Các vấn đề mới như là truy nhập quốc tế và tính cân bằng, thương mại quốc tế và xuyên suốt các biên giới đối với thông tin và các chính sách thương mại nội địa đang nổi lên để thực hiện viễn thông cho hầu hết các lĩnh vực không kiểm soát được. Việc tư nhân hoá, quy định lại, toàn cầu hoá, sắp xếp lại thương mại và cạnh tranh là một số thay đổi đang được thực hiện trong các thay đổi lớn về thị trường và công nghệ. Các vấn đề liên quan đến xã hội và văn hoá của cuộc cách mạng này vẫn chưa được nhận thức đầy đủ mà đang được quản lý đơn lẻ. Tổ chức phát triển CMDA (CDG) và 3GPP2 vào tháng 9 năm 2007 đã ban hành quy phạm giao diện không gian của băng rộng siêu di động (Ultra Mobile Broadband - UMB). UMB là tiêu chuẩn băng rộng di động toàn cầu đầu tiên dựa trên IP, là phiên bản nâng cấp thăng tiến của tiêu chuẩn hệ thống cdma 2000, cũng là Rev.C sau EV.DO Rev.A/B, là công tác giai đoạn hai của AIE mà 3GPP2 tiến hành. Để dung hợp với cdma 1x và 1x EV.DO, UMB hỗ trợ hệ thống cdma 2000 1x và 1x EV.DO hiện có tiến hành chuyển mạng (switchover) không gián đoạn giữa các hệ thống. Hệ thống UMB dùng OFDMA làm kỹ thuật đa tiếp nhập, có thể làm cho tốc độ của IP thuần tuý và truyền đưa dữ liệu của các loại gói có thể biến đổi độ dài đạt đến cấp số cao hơn hệ thống thương dụng hiện tại, trên căn bản nâng cao được thể nghiệm của hộ dùng và tăng cường khả năng lợi nhuận của nhà kinh doanh. Các mặt về tốc độ truyền đưa dữ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110947.doc
Tài liệu liên quan