Mở đầu 1
Chương 1: Cơ sở lý luận của kinh doanh xuất khẩu 3
1.1- Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu 3
1.2- Vai trò của xuất khẩu 4
1.2.1- Đối với nền kinh tế thế giới 4
1.2.2- Đối với nền kinh tế quốc gia 5
1.2.3- Đối với các doanh nghiệp: 9
1.3- Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp 10
1.3.1- Các yếu tố khách quan 10
1.3.2- Các yếu tố chủ quan 11
1.4- Nội dung hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp 14
1.4.1. Nghiên cứu thị trường 14
1.4.2- Lập phương án kinh doanh 16
1.4.3. Tạo nguồn hàng xuất khẩu. 17
1.4.4. Giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng. 18
1.4.4. Tổ chức thực hiện hợp đồng 19
1.4.5. Đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 19
1.5- Cơ sở lý thuyết cho việc xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 21
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu tại xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp 24
2.1- Khái quát về xí nghiệp sản suất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp 24
2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển của xí nghiệp 24
2.1.2- Chức năng và nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu của xí nghiệp. 25
2.1.2.1- Chức năng kinh doanh chủ yếu của xí nghiệp 25
2.1.2.2- Nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu của xí nghiệp 25
2.1.3- Cơ cấu tổ chức bộ máy của xí nghiệp 26
2.2- Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu của xí nghiệp 28
2.2.1- Nguồn vốn. 28
2.2.2- Nguồn nhân lực. 31
2.2.3- Đối thủ cạnh tranh. 31
2.2.4- Kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp giai đoạn 1999-2002 32
2.2.5- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp 34
2.2.6- Thị trường xuất khẩu 43
2.2.7- Phương thức kinh doanh xuất khẩu của xí nghiệp 47
2.2.8. Quy trình xuất khẩu của xí nghiệp. 48
2.3- Đánh giá chung về hoạt động Kinh doanh xuất khẩu của xí nghiệp. 51
2.3.1- Những điểm mạnh và cơ hội của xí nghiệp 51
2.3.1.1- Những điểm mạnh 51
2.3.1.2- Các cơ hội của xí nghiệp 57
2.3.2- Những điểm yếu và thách thức của xí nghiệp 59
2.3.2.1- Những điểm yếu của xí nghiệp 59
2.3.2.2- Thách thức đối với xí nghiệp 60
Chương 3: Phương hướng phát triển và các giải pháp thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp 62
3.1- Định hướng phát triển của xí nghiệp 62
3.2- Các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu tại xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp 65
3.2.1- Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường. 65
3.2.2- Thực hiện tốt công tác nguồn hàng 69
3.2.3- Đánh giá đúng hiệu quả do hoạt động xuất khẩu đem lại. 71
3.2.4- Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu đa ngành 71
3.2.5- Các giải pháp về vốn kinh doanh 72
3.2.6- Hạn chế rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu 73
3.2.7- Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi 74
3.2.8- Đẩy mạnh tham gia thương mại điện tử tại xí nghiệp trong tiến trình hội nhập. 74
Kết luận 79
Tài liệu tham khảo 80
85 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1113 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hà nước bị quản lý chặt trong khi các công ty tư nhân làm không cần xin phép. Một văn phòng đại diện nước ngoài tranh thủ kinh doanh “từ gốc đến ngọn” trong thị trường nội địa ngày càng làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt, nhiều rủi ro, lợi nhuận có xu hướng ngày càng thấp. Tình trạng buôn lậu còn nhiều nên nhiều mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp không cạnh tranh được. Nguồn cung ứng hàng xuất khẩu cũng như mạng lưới tiêu thụ hàng xuất khẩu bị phân tán thường thông qua nhiều đầu mối quản lý cũng như việc kinh doanh thiếu thông tin đầy đủ chính xác gây khó khăn cho việc thanh toán.
Các doanh nghiệp có vốn nước ngoài có lợi thế nhiều về tài chính, nghệ thuật tiếp thị, được hưởng chính sách ưu đãi, thâm nhập sâu vào thị trường xuất khẩu tạo sự cạnh tranh gay gắt và không cân sức.
Tuy nhiên bên cạnh những khó khăn thì xí nghiệp cũng có những thuận lợi nhất định trong đó phải kể đến khả năng được nhà nước cấp hạn ngạch xuất nhập khẩu mà với hạn ngạch này thì xí nghiệp có quyền kinh doanh và khống chế về giá cả một số mặt hàng nhất định. Bên cạnh đó nhà nước đang có những biện pháp hữu hiệu nhằm kiểm soát buôn lậu và gian lận thương mại. Đây là một dấu hiệu tích cực cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của xí nghiệp trong các năm tới.
2.2.4- Kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp giai đoạn 1999-2002
Mặc dù hoạt động xuất khẩu có vị trí quan trọng trong số các hoạt động kinh doanh của xí nghiệp. Song mấy năm trở lại đây hoạt động này đang gặp phải một số khó khăn nhất định mà nguyên nhân của nó thì không thể giải quyết nhanh chóng được. Đứng trước rất nhiều khó khăn đã và đang diễn ra, hoạt động xuất khẩu vẫn đạt được một số thành tựu quan trọng để ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế đất nước nói chung và xí nghiệp nói riêng.
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp
Năm
1999
2000
2001
2002
Xuất
Khẩu
Giá trị
400.000
255.988
3.264.503
3.749.627
Tốc độ tăng
.................
-36%
1175%
14,8%
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ về kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp giai đoạn 1999-2002
Qua bảng số liệu trên ta thấy xu hướng chung là kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh trong giai đoạn 1999-2002 ngoại trừ năm 2000 không những kim ngạch xuất khẩu không tăng mà còn giảm bởi nguyên nhân: sau năm 1999 mức độ hoàn thành kế hoạch đạt thấp do đó bước sang năm 2000 xí nghiệp đã đặt kế hoạch về kim ngạch xuất khẩu là không cao(250.000 USD). Thêm vào đó là việc xí nghiệp rút ra khỏi thị trường xuất khẩu hàng nông sản, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp trong năm 2000.
Sang năm 2001, xí nghiệp đã quyết định đầu tư một cách mạnh mẽ vào hoạt động xuất khẩu với sự gia nhập của 2 loại mặt hàng mới là thủ công mỹ nghệ và hoá chất cùng với sự xuất khẩu trở lại của mặt hàng nông sản nên kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp đã tăng một cách đột biến.
Ngoài ra, sau năm 2000 kim ngạch xuất khẩu đạt thấp, xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp dưới sự chỉ đạo của chi bộ Đảng, ban giám đốc xí nghiệp đã có định hướng đúng đắn, nắm bắt kịp thời tình hình thị trường, có biện pháp tích cực, chủ động trong công tác kinh doanh nên bước đầu kinh doanh có hiệu quả. Mặt khác, nguyên nhân của việc kim ngạch xuất khẩu tăng hơn 10 lần so với năm 2000 còn do việc xí nghiệp đã quyết định đầu tư một lượng vốn lớn cho hoạt động xuất khẩu, và dần coi hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh chính của xí nghiệp.
Năm 2002, xí nghiệp tiếp tục đầu tư vào một số mặt hàng chủ lực(mặt hàng gia công, hàng tạm nhập tái xuất) nên kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng và có xu hướng tăng cao trong các năm tiếp theo.
2.2.5- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp
Trong những năm đầu thập kỷ 90 khi nhà nước chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thực hiện chủ trương mở cửa nền kinh tế và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất khẩu, vì vậy hoạt động xuất khẩu trở nên đa dạng và phong phú hơn. Cơ cấu giá trị các mặt hàng xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu có sự biến đổi theo sự chuyển đổi cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa. Tỷ trọng hàng công nghiệp tăng lên tương đối và giảm tỷ trọng các mặt hàng nông, lâm, thuỷ sản. Tốc độ tăng trưởng cao từ năm 1990-1999, nhất là các ngành công nghiệp định hướng xuất khẩu đã thúc đẩy công nghiệp hoá và chuyển dịch cơ cấu ngành hướng về xuất khẩu nó trực tiếp tạo ra sản phẩm xuất khẩu ngày càng lớn về số lượng và phong phú, đa dạng về chủng loại, tiến bộ về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng, làm cho nhiều sản phẩm nông nghiệp được xuất khẩu.
Xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp với vai trò kinh doanh xuất nhập khẩu các nguồn hàng trên thị trường trong và ngoài nước, trong những năm qua đã đạt được những tiến bộ trên lĩnh vực hoạt động xuất khẩu. Các mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp có nhiều thay đổi theo cơ cấu ngành xuất khẩu được khuyến khích của nhà nước. Giá trị xuất khẩu đã tăng nhanh qua các năm.
Từ khi xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp được thành lập và hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước, xí nghiệp đã đẩy mạnh xuất khẩu từng bước thiết lập chiếm lĩnh các thị trường xuất khẩu trên thế giới. Với đặc tính là một doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu, tình hình thực hiện kế hoạch doanh số xuất khẩu của công ty phụ thuộc khá nhiều vào những biến động của các thị trường xuất khẩu.
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp
Năm 1999, khu vực mới thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ. Nhưng do ảnh hưởng của nó vẫn còn, thêm vào đó đây là 1 năm tăng trưởng chậm lại của nền kinh tế việt nam với tốc độ tăng trưởng gdp 4,5% nên xí nghiệp chỉ đạt 83,33% kế hoạch đặt ra. Tuy nhiên, đây cũng là một dấu hiệu đáng mừng cho đà tăng trưởng của các năm tiếp theo. Để đạt được tổng kim ngạch xuất khẩu 400.000 USD bằng 83,33% kế hoạch cả năm thì phải kể đến mức độ hoàn thành kế hoạch của một số mặt hàng tạm nhập tái xuất (89,93%) và mặt hàng gia công (85,65%). Song bên cạnh đó do sự biến động mạnh của thị trường thế giới nên mặt hàng nông sản của Việt Nam bị rớt giá vì kém về chất lượng cũng như mẫu mã chủng loại hàng hoá nên mức độ hoàn thành kế hoạch đạt mức tăng trưởng thấp chỉ đạt 61,78% tương ứng với 42.600 USD.
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực làm cho sức cạnh tranh hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của xí nghiệp nói riêng bị yếu đi trên thị trường quốc tế. Trong năm 1999, hoạt động xuất khẩu của xí nghiệp gặp nhiều khó khăn do xu hướng biến động của thị trường thế giới, xí nghiệp bị mất đi nhiều hợp đồng xuất khẩu. Do vậy, khối lượng hàng hoá xuất khẩu giảm xút. Trong năm này ngoài mặt hàng tạm nhập tái xuất và mặt hàng gia công đạt khá còn còn lại các mặt hàng khác đều hoàn thành kế hoạch ở mức thấp.
Bước sang năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp đã đạt và vượt chỉ tiêu đặt ra, các hợp đồng xuất khẩu được thực hiện đầy đủ và có hiệu quả. Tổng kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp đạt 255.988 USD bằng 102,39% kế hoạch. Trong số các mặt hàng xuất khẩu thì có mặt hàng gia công là mặt hàng có tỷ lệ thực hiện kế hoạch doanh số xuất khẩu cao nhất, các mặt hàng khác đều có tỷ lệ hoàn thành kế hoạch ở mức cao.
Để đạt được kết quả trên là do xí nghiệp đã có định hướng đúng đắn, nắm bắt kịp thời tình hình thị trường, có biện pháp tích cực, chủ động trong công tác kinh doanh, ngày càng có thêm những kinh nghiệm nên bước đầu kinh doanh có hiệu quả. Cũng từ sự chỉ đạo sát sao của ban giám đốc xí nghiệp, cùng với sự biến động mạnh của thị trường thế giới đối với một số mặt hàng nông sản nên xí nghiệp đã quyết định không tham gia xuất khẩu nông sản trong năm 2000. Đây là một quyết định đúng đắn do trong năm 1999 mức độ hoàn thành kế hoạch của xí nghiệp chỉ đạt 61,78%.
Năm 2001 là năm xí nghiệp có tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cao nhất trong giai đoạn 1999-2002, đạt 108,82% kế hoạch đặt ra bằng 3.264.503 USD. Đạt được những thành tựu như vậy là do những khó khăn về thị trường xuất khẩu đã được tháo gỡ, một mặt do tình hình kinh tế các thị trường xuất khẩu đã đi vào ổn định và tăng trưởng, mặt khác do xí nghiệp tích cực tiến hành các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, đa dạng hoá về chủng loại và mẫu sản phẩm kinh doanh - Đây cũng là một năm mà có sự tham gia xuất khẩu của hai mặt hàng mới đối với xí nghiệp đó là hàng thủ công mỹ nghệ và mặt hàng hoá chất. Nhưng không vì thế mà mức độ hoàn thành kế hoạch của hai mặt hàng này là kém, trái lại nó đã đạt tỷ lệ hoàn thành kế hoạch ở mức rất cao 104,99%. Điều đó đã mở ra cho xí nghiệp một hướng xuất khẩu mới với những mặt hàng đầy triển vọng, đem lại doanh lợi cao.
Cũng trong năm 2001 có sự trở lại của mặt hàng nông sản với kim ngạch xuất khẩu đạt 347.669 USD bằng 108,65% kế hoạch cả năm. Đây là một sự trở lại đầy ấn tượng của mặt hàng này đối với tổng kim nghạch xuất khẩu của xí nghiệp.
Năm 2002 là năm xí nghiệp có tỷ lệ hoàn thành kế hoạch cao thứ hai trong giai đoạn 1999-2002 với kim nghạch xuất khẩu đạt 3.749.627 USD bằng 105,62% kế hoạch cả năm. Có được như vậy là do xí nghiệp đã thu hút được số lượng khách hàng với các phương thức kinh doanh linh hoạt, phù hợp với từng đối tượng khách hàng, chủng loại hàng hoá theo yêu cầu của thị trường. Trong hoạt động xuất khẩu, cơ chế quản lý giao dịch, xây dựng phương án, ký kết và thanh quyết toán hợp đồng được thực hiện lế nếp, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các phòng nghiệp vụ và các phòng quản lý. Do vậy các dịch vụ được thực hiện an toàn, hiệu quả.
Nhìn chung tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu của xí nghiệp là tương đối ổn định qua các năm, trong đó phải kể đến mặt hàng gia công luôn chiếm tỷ trọng lớn (59%) trong cơ cấu hàng xuất khẩu của xí nghiệp, đây cũng là mặt hàng cho doanh thu cao hàng năm.
Ngoài mặt hàng gia công, mặt hàng tạm nhập tái xuất cũng có tỷ trọng ổn định với mức trên dưới 13,4%. Đây là mặt hàng cần được đầu tư hơn nữa để có thể cho doanh thu cao hơn trong thời gian tới.
Nếu như các mặt hàng chủ lực của xí nghiệp có tỷ trọng ổn định thì các hàng hoá khác lại giảm dần tỷ trọng từ năm 1999-2002. Năm 1999 tỷ trọng các hàng hoá khác là 16,75% thì đến năm 2002 chỉ còn lại 1,8%. Điều này cũng thật dễ hiểu vì đây là những mặt hàng phụ thêm, ít ảnh hưởng đến doanh thu và gần như xuất khẩu các mặt hàng này là để tận dụng điều kiện của phương tiện vận chuyển, tiết kiệm tối đa chi phí chuyên chở.
Năm 2000, do có một số khó khăn về thị trường hàng xuất khẩu và tình hình nguồn hàng trong nước không ổn định nên kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 255.988 USD và tốc độ tăng trưởng là âm. Đây là một khó khăn đòi hỏi xí nghiệp phải vượt qua nhằm đạt doanh thu cao hơn trong các năm tiếp theo.
Sang năm 2001, xí nghiệp đã đưa ra những biện pháp mạnh mẽ, kịp thời, đầu tư một lượng vốn đáng kể vào hoạt động xuất khẩu do đó giá trị xuất khẩu đã đạt 3.264.503 USD. Xí nghiệp đã xác định hoạt động xuất khẩu chủ yếu dựa vào phương thức gia công xuất khẩu và phương thức tạm nhập tái xuất. Đây là một chủ trương đúng đắn của ban giám đốc xí nghiệp. Thể hiện ở việc tốc độ tăng trưởng của hàng gia công và hàng tạm nhập tái xuất đạt 1175%, đây là một con số thần kỳ mà nhiều doanh nghiệp mơ ước đạt được.
Năm 2002 là một năm tương đối thành công của xí nghiệp với giá trị xuất khẩu đạt 3.749.627 USD, tỷ trọng các mặt hàng ổn định (hàng gia công chiếm 59,1%, hàng tạm nhập tái xuất chiếm 14%, hàng nông sản chiếm 10,7%...), tốc độ tăng trưởng cao trung bình đạt 14,8% và có xu hướng tăng trong thời gian tới.
Qua các bảng số liệu trên cho thấy, mặc dù trong những năm qua, thị trường xuất khẩu có nhiều biến động lớn, giặp nhiều khó khăn, các công ty hoạt động xuất khẩu phải cạnh tranh gay gắt nhưng xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp đã mở rộng được thị trường xuất khẩu, phát huy năng lực sẵn có để duy trì tỷ trọng xuất khẩu. Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu của xí nghiệp còn tồn tại nhiều bất cập mà do tác động của những nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân chủ quan gây ra những biến động tới kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp.
Nguyên nhân khách quan:
Từ năm 1997, nền kinh tế Việt Nam gặp nhiều khó khăn và chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực làm cho sức cạnh tranh hàng hoá của Việt Nam nói chung bị yếu đi trên thị trường quốc tế. Trong khi đó, hạn hán và bão lụt ở miền trung đã gây ảnh hưởng đến sản xuất cà fê, hạt điều làm cho việc sản xuất hàng xuất khẩu bị ảnh hưởng nhiều. Những khó khăn chung của nền kinh tế đã tác động không ít đến hoạt động xuất khẩu của xí nghiệp trong các năm tiếp theo. Điều đó đã gây ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của xí nghiệp nên mức độ hoàn thành kế hoạch đạt được là không cao.
Sức cạnh tranh hàng hoá để xuất khẩu của xí nghiệp trên thị trường nội địa ngày một gia tăng. Những ưu thế trước đây về xuất khẩu của xí nghiệp đang bị mất đi do quá nhiều doanh nghiệp được phép kinh doanh xuất khẩu các mặt hàng truyền thống của xí nghiệp. Đây là một thách thức đòi hỏi xí nghiệp phải có giải pháp cơ bản và kịp thời trong thời gian tới.
Chính sách quản lý hoạt động xuất khẩu chưa thống nhất của nhà nước dẫn tới tình trạng hầu hết các đơn vị cá nhân hoạt động kinh doanh xuất khẩu mạnh ai nấy làm, chạy theo lợi nhuận, lợi ích riêng đã làm rối loạn hoạt động xuất khẩu, làm giảm giá cả xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Các thủ tục hành chính phiền hà đối với các doanh nghiệp tuy đã có nhiều sửa đổi theo hướng thông thoáng, nhưng vẫn còn nhiều phiền toán cho xí nghiệp, đặc biệt là khâu hải quan. Bên cạnh đó, môi trường kinh doanh trong nước chưa bình đẳng giữa các doanh nghiệp do nạn buôn lậu và gian lận thương mại vẫn diễn ra mạnh mẽ.
Nguyên nhân chủ quan:
Đây là nguyên nhân tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của xí nghiệp. Tuy có nhiều khó khăn do các nguyên nhân khách quan đem lại nhưng xí nghiệp vẫn đạt tỷ lệ hoàn thành kế hoạch ở mức tương đối dưới sự chỉ đạo sát xao của ban giám đốc xí nghiệp.
Mặt khác xí nghiệp vẫn chưa tìm ra biện pháp hiệu qủa hơn để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Sự trợ giúp của các đơn vị hữu quan đối với xí nghiệp vẫn chưa đạt được hiệu quả.
2.2.6- Thị trường xuất khẩu
Các thị trường xuất khẩu của xí nghiệp khá tương đồng với các thị trường truyền thống của hàng xuất khẩu Việt Nam nói chung. Thể hiện như trong bảng sau:
Bảng 2.5: Giá trị xuất khẩu của xí nghiệp sang các thị trường
ĐVT: USD
Năm
Thị trường
1999
2000
2001
2002
ASEAN
64.302
51.044
716.232
853.040
JAPAN
88.680
51.223
632.661
724.428
CHINA
86.960
50.839
661.388
776.548
EU
83.160
52.119
657.797
807.670
AMERICA
20.280
14.310
160.287
201.355
RUSSIA
4.120
2.202
36.562
53.620
Thị trường khác
51.760
34.251
399.576
332.966
Tổng
400.000
255.988
3.264.503
3.749.627
Nguồn: Báo cáo hoạt động kinh doanh qua các năm của xí nghiệp
Bảng 2.6 : Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của xí nghiệp sản xuất hàng xuât nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp(1999-2002)
Năm
Thị trường
1999
2000
2001
2002
Mặt hàng xuất khẩu
ASEAN
16,08%
19,94%
21,94%
22,75%
Hạt tiêu, cà phê...
JAPAN
22,17%
20,01%
19,38%
19,32%
Thủ công mỹ nghệ, hàng gia công may mặc...
CHINA
21,74%
19,86%
20,26%
20,71%
Dệt may, dày dép, hoá chất, nông sản...
EU
20,97%
20,36%
20,15%
21,54%
Dệt may, nông sản
AMERICA
5,07%
5,59%
4,91%
5,37%
Hàng gia công may mặc, phim màu, giấy ảnh...
RUSSIA
1,03%
0,86%
1,12%
1,43%
Nông sản, dệt may, pin, gỗ thành phẩm
Nước khác
12,94%
13,38%
10,24%
8,88%
Dêt may, dày dép, đồ chơi...
Tổng
100%
100%
100%
100%
(Nguồn: báo cáo tổng kết hoạt động các năm từ 1999-2002 của xí Nghiệp)
Khu vực Châu á là thị trường xuất khẩu lớn nhất và đầy triển vọng của xí nghiệp. Trong giai đoạn 1999-2002, hơn 70% kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp là sang thị trường các nước thuộc Châu á. Trong tương lai, kim ngạch xuất khẩu của xí nghiệp sẽ tăng đáng kể sang các nước Châu á(đặc biệt là các nước thuộc khối ASEAN). Bởi việc Việt Nam sẽ tham gia vào AFTA, WTO, APEC cũng như việc hạ thấp hàng rào thuế quan, phi thuế quan sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đẩy mạnh buôn bán với các nước khác. Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế Việt Nam vẫn còn gặp nhiều khó khăn, kim ngạch xuất khẩu tăng chậm. Trong khi đó danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam và các nước thuộc khối ASEAN có sự tương đồng khá lớn, hạn chế sự trao đổi với các nước này. Điều này có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu của xí nghiệp sang thị trường Châu á, thị trường ASEAN, do phải cạnh tranh gay gắt về giá cả và chất lượng.
Trong giai đoạn 1999-2002, hàng hoá xuất khẩu của xí nghiệp sang các nước ASEAN đều chiếm tỷ trọng lớn tuy có sự giảm sút trong năm 1999 và 2000 nhưng đã gia tăng trở lại vào năm 2001 và có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của xí nghiệp sang Nhật Bản và Trung Quốc chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thị trường xuất khẩu. Đây là hai quốc gia được coi như những thị trường truyền thống của xí nghiệp. Trong giai đoạn 1999-2002, hàng hoá xuất khẩu của xí nghiệp sang hai thị trường này tương đối ổn định. Trong tương lai, đây vẫn là thị trường xuất khẩu lớn của xí nghiệp.
Thị trường các nước thuộc EU hiện đang là khu vực thị trường lớn thứ ba của Việt Nam. Vừa qua Việt Nam đã ký kết hiệp định khung và hiệp đình hàng dệt may, hiệp định da giầy và hiệp định thuỷ sản với EU. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và cho xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp nói riêng đi sâu vào khai thác tiềm năng trên thị trường này. Ngoài các sản phẩm xuất khẩu truyền thống là may mặc, giầy dép, thuỷ sản, xí nghiệp có thể tận dụng cơ hội để khai thác xuất khẩu các mặt hàng khác. Tuy vậy, hầu hết các hợp đồng xuất khẩu của xí nghiệp sang thị trường EU đều phải thông qua các nước trung gian như Đài Loan,Trung Quốc nên bị thiệt thòi về giá cả từ 10-15%. Trong giai đoạn từ 1999-2002, tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá của xí nghiệp sang thị trường EU nhìn chung không có nhiều thay đổi đáng kể. Đây vẫn được coi là thị trường xuất khẩu khá ổn đinh của xí nghiệp trong thời gian qua và cả trong tương lai sau này.
Khu vực Bắc Mỹ ( chủ yếu là Mỹ) là thị trường mới đầy triển vọng của hàng xuất khẩu Việt Nam nói chung và của xí nghiệp nói riêng. Hiện nay, đối với các nước đang phát triển Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng lớn các sản phẩm tiêu thụ của họ (khoảng 30%). Việc ký kết hiệp đình thương mại Việt- Mỹ đã tạo ra nhiều thuận lợi về trước mắt cũng như lâu dài của xí nghiệp trong việc xuất khẩu hàng hoá sang thị trường này. Tuy chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng hoá của xí nghiệp (từ 4,91-5,59%) nhưng đây vẫn là khu vực thị trường mang tiềm năng phát triển lớn.
Khu vực thị trường SNG và các nước thuộc Đông Âu đặc biệt là với Nga, trong những năm 90 là khu vực thị trường truyền thống có khả năng tiêu thụ nhiều hàng hoá Việt Nam như: nông sản, rau quả, may mặc, hàng tiểu thủ công nghiệp - Sau một thời kỳ dài bị gián đoạn, hiện nay nhà nước đã có văn bản tạo khuôn khổ pháp lý cho việc buôn bán với các nước thuộc khu vực thị trường này cho thời kỳ mới và cơ bản đã được ký kết. Xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp đã tìm được chỗ đứng trên thị trường này. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của xí nghiệp sang thị trường SNG và Đông Âu là hàng dệt may, thuỷ sản, cao su, cà phê. Tuy còn nhiều khó khăn và trở ngại do Việt Nam và các nước này chưa hình thành được chính sách thị trường và bạn hàng với nhau, hàng hoá của xí nghiệp cũng phải cạnh tranh gay gắt về giá cả, chất lượng với các nước khác trên thị trường nhưng chắc chắn đây là thị trường mà xí nghiệp phải mở rộng khai thác có hiệu quả hơn trong những năm tới nhằm duy trì quan hệ bạn hàng truyền thống và khai thác tiềm năng thị trường ở các nước này.
Hoạt động xuất khẩu là một trong những lĩnh vực được chú trọng và quan tâm của xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp. Trong những năm qua hàng hoá xuất khẩu của xí nghiệp là may mặc hàng thủ công mỹ nghệ,hóa chất, hàng nông sản. Những mặt hàng này đã có uy tín ở thị trường Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore...Tuy giá trị xuất khẩu của xí nghiệp không lớn lắm so với tổng doanh thu hàng năm nhưng lại là hoạt động không thể thiếu được trong quá trình kinh doanh.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu của xí nghiệp ở các thị trường là khá ổn định. Từ khó khăn chung của nền kinh tế cộng thêm ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực nên hoạt đông xuất khẩu của xí nghiệp có sự giảm sút trong năm 1999. Để khắc phục khó khăn và phát triển, xí nghiệp đã đề ra nghị quyết mở rộng kinh doanh. Hướng kinh doanh mới đẩy mạnh hoạt dộng xuất khẩu hàng hoá ra thị thị trường nước ngoài, mở rộng đối tác, cử cán bộ đi tìm kiếm nguồn hàng.... Đối với thị trường xuất khẩu, chủ trương của xí nghiệp là đẩy mạnh hoạt đông xuất khẩu sang thị trường các nước thuộc Châu á ( Nhật bản, Singapore, Đài loan, Hàn quốc ). Ngoài ra là thị trường Đông âu, EU, Mỹ....
2.2.7- Phương thức kinh doanh xuất khẩu của xí nghiệp
Hiện nay xí nghiệp thực hiện 3 phương thức kinh doanh chính đó là:
-Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu:
Đây là phương thức kinh doanh chính của xí nghiệp. Trong phương thức này, xí nghiệp chủ yếu tiến hành các thủ tục xuất nhập khẩu, làm khâu trung gian thực hiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu cho bên uỷ thác và hưởng lợi nhuận theo phần trăm do bên uỷ thác trả (thông thường là 1%doanh thu).
- Gia công hàng xuất khẩu:
Đây là hình thức kinh doanh đem lại khá nhiều lợi nhuận cho xí nghiệp. Với phương thức này, xí nghiệp nhận vật liệu gia công cho khách (chủ yếu là của khách nước ngoài), sau đó thuê nhân công và nhận thành phẩm xuất lại cho khách hàng đó.
- Tự doanh:
Đây là hình thức kinh doanh đang có tỷ trọng ngày càng tăng trong tổng doanh thu hàng năm của xí nghiệp. Chủ yếu là khi khách hàng có nhu cầu và đặt hàng thì xí nghiệp mới tiến hành tìm nguồn cung, do đó thị trường của phương thức này không ổn định, mang tính manh mún.
Ngoài các hợp đồng mua xuất nhập khẩu uỷ thác, đặt gia công, với phương thức thanh toán và giao hàng hết sức linh hoạt nhưng đảm bảo hạn chế tối đa rủi ro, xí nghiệp còn thử nghiệm loại hình kinh doanh mới là thuê mua đã bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao của xí nghiệp
2.2.8. Quy trình xuất khẩu xuất khẩu của xí nghiệp.
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ quy trình xuất khẩu của xí nghiệp
Ký hợp đồng xuất khẩu
Kiểm tra L/C
Chuẩn bị hàng xuất khẩu
Vận chuyển hàng hoá vào kho chỉ định
Thuê tàu
Mua bảo hiểm
Làm thủ tục hải quan
Giao hàng cho người chuyên chở
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết khiếu nại
- Ký kết hợp đồng xuất khẩu: Đối với xí nghiệp sản xuất hàng xuất nhập khẩu và kinh doanh tổng hợp thì việc ký kết hợp đồng xuất khẩu chủ yếu được thông qua đàm phán trực tiếp giữa đại diện của xí nghiệp và đối tác nước ngoài. Bên cạnh đó đôi khi việc ký kết này cũng được thực hiện một cách gián tiếp.
- Sau khi ký kết hợp đồng thì xí nghiệp thường phải đốc thúc phía người nhập khẩu mở L/C (Letter of credit) nhằm đảm bảo quyền lợi cho xí nghiệp. Và xí nghiệp thường sử dụng phương pháp đôn đốc trực tiếp bằng điện thoại hay bằng FAX.
- Chuẩn bị hàng xuất khẩu: Để thực hiện khâu này xí nghiệp thường gom hàng của các đơn vị sản xuất trong nước bằng các hợp đồng nội địa, nhận hàng từ các đơn vị gia công thuê cho xí nghiệp... với số lượng, chất lượng hàng hoá... được quy định trong hợp đồng xuất khẩu.
- Sau khi chuẩn bị song hàng hoá thì xí nghiệp vận chuyển hàng hoá vào kho chỉ định để sẵn sàng giao cho người mua. Kho chỉ định thường là kho ngoại quan để chờ làm thủ tục xuất khẩu tại đây thường diễn ra các dịch vụ như: Phân loại, bao bì, đóng gói, kẻ ký mã hiệu, bảo quản hàng hoá...
- Thuê tàu, mua bảo hiểm.
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và xí nghiệp nói riêng thường mua theo điều kiện FOB (Free on Boad) và bán theo điều kiện CIF (Cost Insurance freight) nhưng đôi khi xuất khẩu sang các nước ASEAN hoặc các nước có vị trí địa lý gần Việt Nam thì xí nghiệp thực hiện việc bán CIF nhằm thu lợi nhuận cao do đó xí nghiệp phải mua bảo hiểm cho hàng xuất khẩu và phải thuê tàu để chuyên chở hàng hoá - thường là thuê tàu chợ do đó xí nghiệp phải thực hiện các bước:
+ Liên hệ với người môi giới thuê tàu.
+ Lưu khoang.
+ Nhận lệnh xếp hàng.
+ Sơ đồ xếp hàng.
+ Trả cước thuê tàu.
- Làm thủ tục hải quan.
Để được làm thủ tục hải quan thì xí nghiệp phải xuất trình được các giấy tờ như:
+ Hợp đồng xuất khẩu.
+ Hoá đơn thương mại.
+ Giấy chứng nhận xuất xứ.
+ Bản chính hoặc bản sao L/C.
........
- Sau khi làm song thủ tục hải quan thì xí nghiệp tiến hành giao hàng cho người chuyên chở tại cảng của Việt Nam hoặc nước ngoài tuỳ thuộc vào điều kiện Incoterms đã thoả thuận trong hợp đồng.
- Giao hàng xong, xí nghiệp thành lập bộ chứng từ thống nhất và gửi cho ngân hàng thông báo. Ngân hàng thông báo có trách nhiệm gửi bộ chứng từ này cho ngân hàng mở L/C và nhận số tiền của hợp đồng xuất khẩu sau đó thanh toán với xí nghiệp.
- Khi có sự vi phạm hợp đồng từ phía người mua ảnh hưởng đến quyền lợi của xí nghiệp thì xí nghiệp tiến hành khiếu nại tại c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37013.doc