Để có thể tiếp tục hoạt động và phát triển trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng trở nên gây gắt, các doanh nghiệp trong nước cần phải có đủ năng lực tài chính để đáp ứng yêu cầu đầu tư và phát triển. Yêu cầu về vốn là yêu cầu mấu chốt của các yêu cầu khác. Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư trong nội bộ nền kinh tế có giới hạn, các doanh nghiệp cần chủ động để huy động nguồn vốn bổ sung. Chính vì thế mà đã xuất hiện nhiều hình thức huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Việc phát hành cổ phần là một hướng giải quyết khá thuận lợi được thông qua thị trường chứng khoán. Số vốn của cổ đông hiện hữu đã cạn kiệt, các nhà đầu tư mới trên thị trường trong nước thì có giới hạn nhất định, như vậy, việc phát hành cổ phiếu trực tiếp cho các doanh nghiệp khác (trong và ngoài nước) là một hình thức huy động vốn bằng cổ phiếu rất nhanh và tiện lợi.
101 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8142 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp trên thế giới và những bài học kinh nghiệm được rút ra cho doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, sáp nhập doanh nghiệp
Vấn đề khó khăn hiện nay của các doanh nghiệp là khi muốn bán không biết liên hệ với ai, bán cho ai, khi muốn mua không biết tìm công ty mục tiêu ở đâu. Để khắc phục vấn đề này, hiện nay trên thị trường Việt Nam đã có xuất hiện một số “sàn” giao dịch M&A trên web của các công ty tư vấn về hoạt động M&A như muabancongty.com.vn của Tiger Investment, muabandoanhnghiep.com.vn của JDC, hay ice.com.vn. Tuy nhiên, việc tạo ra các “sàn” giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp thực chất chỉ mang tính cung cấp thông tin về các doanh nghiệp có nhu cầu mua hay bán, tạo cơ hội gặp nhau cho các doanh nghiệp chứ chưa thể thực sự gọi là một sàn giao dịch. Cách thức hoạt động như vậy không phù hợp với đặc tính của hoạt động M&A là “bí mật tuyệt đối”. Theo thông lệ quốc tế các vụ giao dịch M&A thường phải được giữ bí mật cho đến giai đoạn cuối và quá trình giao dịch M&A không đơn giản như phương thức giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán hay các công cụ phái sinh chứng khoán khác, nên việc xây dựng sàn giao dịch không đơn giản. Để xây dựng một thị trường giao dịch M&A chuyên nghiệp không phải là chuyện xây dựng sàn giao dịch mà vấn đề phải có cơ chế để tạo điều kiện cho sự xuất hiện các công ty tư vấn chuyên nghiệp trong hoạt động này.
Tóm lại, trong thời gian vừa qua thị trường mua lại và sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam đã và phát triển nhanh và có những nét đặt trưng riêng của mình. Điểm nổi bật nhất của thị trường M&A Việt Nam, tạo nên sự khác biệt với thị trường M&A trên thế giới đó chính là thị trường M&A mang tính chất thân thiện, các chủ thể khi tham gia vào hoạt động M&A đều nhằm hướng đến lợi ích cho chính bản thân doanh nghiệp mình bên cạnh lợi ích của đối tác. Hầu hết các vụ giao dịch chưa có dấu hiệu tiêu cực. Những điểm khác biệt này của thị trường M&A Việt Nam cần phải được duy trì.
Những lợi ích do hoạt động mua lại, sáp nhập mang lại cho doanh nghiệp Việt Nam
Về mặt lý thuyết hoạt động M&A có thể mang đến rất nhiều lợi ích cho các chủ thể tham gia vào hoạt động này và nó cũng có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế, nhưng trong điều kiện có sự kiểm soát và giám sát một cách hợp lý đối với hoạt động đó. Trong thời gian đầu xuất hiện tại Việt Nam, hoạt động này có mang lại một số lợi ích cho phía doanh nghiệp, bao gồm:
Đa dạng hóa nguồn vốn huy động cho doanh nghiệp
Để có thể tiếp tục hoạt động và phát triển trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng trở nên gây gắt, các doanh nghiệp trong nước cần phải có đủ năng lực tài chính để đáp ứng yêu cầu đầu tư và phát triển. Yêu cầu về vốn là yêu cầu mấu chốt của các yêu cầu khác. Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư trong nội bộ nền kinh tế có giới hạn, các doanh nghiệp cần chủ động để huy động nguồn vốn bổ sung. Chính vì thế mà đã xuất hiện nhiều hình thức huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Việc phát hành cổ phần là một hướng giải quyết khá thuận lợi được thông qua thị trường chứng khoán. Số vốn của cổ đông hiện hữu đã cạn kiệt, các nhà đầu tư mới trên thị trường trong nước thì có giới hạn nhất định, như vậy, việc phát hành cổ phiếu trực tiếp cho các doanh nghiệp khác (trong và ngoài nước) là một hình thức huy động vốn bằng cổ phiếu rất nhanh và tiện lợi.
Với đặc điểm hoạt động mua lại doanh nghiệp Việt Nam luôn có sự tham gia của yếu tố nước ngoài, tức là các doanh nghiệp nước ngoài đang hoặc chưa hoạt động tại Việt Nam mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước thì việc bán cổ phiếu phát hành bổ sung cho các đối tác này là góp phần làm tăng nguồn vốn có thể huy động cho doanh nghiệp. Đây là lợi ích hiện nay của hoạt động M&A mang đậm màu sắc của nền kinh tế Việt Nam, một thị trường mới xuất hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Có thể nói rằng, trong bối cảnh nguồn vốn đầu tư trong nước đang khan hiếm, lãi suất vay các tổ chức tín dụng lại ở mức cao thì đây là một kênh huy động vốn rất tốt cho các doanh nghiệp trong nước. Lợi ích này chỉ có ở Việt Nam và trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế đó cũng là nguyên nhân khiến các doanh nghiệp trong nước hiện nay quan tâm đến hoạt động mua lại doanh nghiệp. Đến khi hoạt động M&A phát triển và hoạt động với đúng bản chất thực của nó thì có thể lợi ích này sẽ không còn nữa.
Khai thác được những lợi thế lẫn nhau
Hầu hết các giao dịch mua lại hay sáp nhập doanh nghiệp ở thị trường Việt Nam trong thời gian qua đều mang tính thân thiện và dựa trên tinh thần hợp tác giữa hai bên đối tác. Sự hỗ trợ lẫn nhau để khai thác những lợi thế của nhau cùng phát triển là điểm thành công của hoạt động M&A ở thị trường Việt Nam trong thời gian qua. Nhưng trong đó thường là sự khai thác lợi thế giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.
Đối với doanh nghiệp trong nước lợi thế mà họ có thể nhận được từ các đối tác nước ngoài đó là công nghệ, tính hiện đại trong công tác quản lý, tiếp thị mở rộng thị trường, sản phẩm, tính chuyên nghiệp trong việc khai thác và cung cấp các dịch vụ hiện đại, lợi thế về năng lực tài chính lớn,… Đổi lại doanh nghiệp trong nước chấp nhận sự tham gia của phía nước ngoài vào việc chia lợi nhuận kinh doanh trên một thị trường mới phát triển và phát triển với tốc độ khá nhanh. Đây là đều mà các doanh nghiệp nước ngoài rất mong muốn có được.
Điển hình cho sự khai thác lợi thế của nhau trong các thương vụ giao dịch M&A ở Việt Nam trong thời gian qua như:
Trong vụ HSBC mua cổ phần của Techcombank thì: HSBC đưa một số nhà quản lý có trình độ quốc tế tham gia bộ máy điều hành và một số hoạt động của Techcombank với vai trò tư vấn cao cấp, hỗ trợ Techcombank về công nghệ và kỹ thuật để ngân hàng này trở thành ngân hàng được ưa thích nhất Việt Nam. Mở rộng thị trường kinh doanh tại Việt Nam là điều mà HSBC mong muốn ở thương vụ này.
Tập đoàn Goldan Sachs trong thương vụ mua cổ phần của công ty Diana thì hữa sẽ hỗ trợ Diana trong việc xây dựng chiến lược phát triển kinh doanh ở Việt Nam và nước ngoài, nâng cao công sản xuất hiện tại và mở rộng sản xuất sang các mặt hàng khác. GS nhận lại từ Diana lợi nhuận xứng đáng cho khoản đầu tư của họ thông qua cổ tức và sự gia tăng giá trị cổ phần.
Sacombank bán cổ phần cho ngân hàng ANZ nhằm hướng đến việc tiếp cận với kỹ thuật quản lý và kinh nghiệm thị trường của ANZ, còn ANZ nhắm đến mạng lưới bán lẻ của ngân hàng, cổ tức và sự gia tăng giá trị cổ phần của ngân hàng Sacombank.
Thực hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp
Mục đích của việc tái cấu trúc lại doanh nghiệp là nhằm tháo gỡ bớt những khó khăn hiện tại của doanh nghiệp hoặc giúp doanh nghiệp tiến hành tổ chức lại các hoạt động trong doanh nghiệp để có thể khai thác tốt hơn hoặc bổ sung thêm các nguồn lực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Có rất nhiều hình thức để tiến hành tái cấu trúc lại doanh nghiệp, tiến hành mua lại, bán, hay sáp nhập với doanh nghiệp khác là một trong nhiều cách đó.
Hoạt động M&A ở thị trường Việt Nam trong thời gian qua đã thực hiện được lợi ích đó cho các doanh nghiệp, nhất là đối với các doanh nghiệp trong nước. Đây cũng chính là mục tiêu mà các doanh nghiệp đang kinh doanh ở thị trường Việt Nam muốn đạt được khi quyết định thực hiện hoạt động M&A (như đã phân tích trong phần 2.1.2.2). Các công ty chứng khoán tiến hành hoạt động M&A để thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp nhằm để khắc phục khó khăn hiện tại của chúng là kinh doanh thu lỗ, năng lực tài chính, cung cấp dịch vụ yếu nên làm cho khả năng cạnh tranh thấp. Hình thức các công ty chứng khoán thực hiện M&A là bán lại đa số cổ phần hiện tại của công ty cho đối tác. Các doanh nghiệp trong các lĩnh vực khác (sản xuất hành thực phẩm, tiêu dùng, kinh doanh bán lẻ và cả ngân hàng) thực hiện tái cấu trúc doanh nghiệp cũng chủ yếu bằng hình thức bán lại số cổ phần của công ty cho đối tác để bổ sung thêm một số nguồn lực hiện tại mà doanh nghiệp đang thiếu.
Như vậy, với 3 lợi ích mà hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường Việt Nam có thể mang lại cho các doanh nghiệp đang hoạt động ở thị trường này thì phải thừa nhận rằng, dù chỉ ở giai đoạn mới thâm nhập vào thị trường, còn rất mới mẻ đối với nhiều đối tượng trên thị trường nhưng bước đầu hoạt động M&A đã giúp doanh nghiệp có được những lợi ích rất quan trọng khi tiến hành hoạt động M&A. Có thế nói dù chỉ là 3 lợi ích nhưng đó là những lợi ích chính mà tất cả các chủ thể khi quyết định tiến hành hoạt động mua lại hay sáp nhập doanh nghiệp đều muốn đạt được. Tóm lại, bước đầu hoạt động M&A ở thị trường Việt Nam đã đạt được thành công. Tuy nhiên, cần luôn nhớ rằng hoạt động này luôn tiềm ẩn những tác động không tốt đối với doanh nghiệp và nền kinh tế.
Những tác động tiêu cực tiềm ẩn trong hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
Sự xuất hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là một xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế và thị trường chứng khoán. Hoạt động này đang trong xu hướng phát triển nhanh trên thế giới và cả ở Việt Nam. Những lợi ích mà hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp mang lại cho các chủ thể khi tham gia là rất nhiều. Tuy nhiên, trong hoạt động M&A còn tiềm ẩn rất nhiều cạm bẫy gây rủi ro cho cả nền kinh tế và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp, sự nôn nóng hay quá quyết tâm để thực hiện M&A sẽ dẫn đến những kết quả như trả giá quá cao khi mua hay chuyển hướng sang các lĩnh vực mà doanh nghiệp không nắm rõ, hay không đánh giá đúng về khả năng tương thích về chiến lược phát triển và văn hóa công ty, hoặc có thể trở thành người phụ thuộc và bị ảnh hưởng bởi đối tác – rơi vào tình thế đảo ngược, không thực hiện được mục tiêu ban đầu – và bị thâu tóm bởi đối tác. Về phía nền kinh tế hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp có thể đưa đến sự độc quyền, gây thiệt hại cho người tiêu dùng và cả nền kinh tế. Chính vì thế một sự quản lý chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý Nhà nước về các hoạt động M&A và sự cẩn trọng của doanh nghiệp khi quyết định thực hiện hoạt động M&A là cần thiết.
Hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua đã xuất hiện và phát triển khá nhanh. Tuy nhiên, số vụ giao dịch M&A và cả về giá trị giao dịch chưa thực sự quá nhiều so với tiềm năng cũng như so với các nền kinh tế khác. Và trong thời gian qua vẫn chưa thấy những biểu hiện tiêu cực của hoạt động M&A đối với nền kinh tế cũng như doanh nghiệp. Nhưng thông thường, tác động của hoạt động M&A chỉ phát huy sau vài năm kể từ khi kết thúc vụ giao dịch. Vì vậy quá sớm để khẳng định rằng hoạt động M&A không gây ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp và nền kinh tế trong nước.
Đánh mất thương hiệu sau các vụ M&A
Tuy các giao dịch M&A ở Việt Nam được đánh giá là thân thiện và chưa có dấu hiện tiêu cực nhưng trên thực tế đang diễn ra hiện tượng đánh mất thương hiệu của các doanh nghiệp trong nước khi tham gia vào hoạt động M&A có yếu tố nước ngoài. Đồng thời đó, việc hàng loạt các doanh nghiệp trong nước đổ xô tìm đối tác nước ngoài để bán cổ phần, ngoài tận dụng lợi thế từ hoạt động này như thu hút nguồn vốn đầu tư, công nghệ, khả năng quản lý, phát triển thị trường,…, thì việc làm này có thể là những dấu hiệu ban đầu cho sự thâm nhập, thâu tóm của các doanh nghiệp nước ngoài luôn mạnh hơn các doanh nghiệp trong nước về mọi mặt và có thể xảy ra hiện tượng độc quyền do hoạt động M&A trong thời gian tới.
Các giao dịch mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đã diễn ra trong thời gian qua hầu như đều có sự tham gia của phía các doanh nghiệp nước ngoài và chủ yếu là sự mua lại từ phía nước ngoài đối với các doanh nghiệp trong nước. Đó là một thực tế tất yếu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là các doanh nghiệp phải bất chấp mọi điều kiện hay bỏ qua một số điều khoản quan trọng trong các hợp đồng mua lại, sáp nhập. Một vấn đề trong thời gian vừa qua mà các doanh nghiệp trong nước khi tham gia vào hoạt động M&A không quan tâm hoặc xem nhẹ đó chính là thương hiệu của doanh nghiệp.
Thương hiệu doanh nghiệp là một tài sản quý giá, nó tạo nên một phần lớn giá trị trong tổng giá trị doanh nghiệp. Tuy nhiên, do sự thiếu kinh nghiệm của các doanh nghiệp trong nước về yếu tố này và hoạt động M&A nên họ thường xem nhẹ việc định giá thương hiệu hoặc dễ dàng chấp nhận sự mất đi thương hiệu của mình vì những lợi ích khác không tương xứng. Đánh mất thương hiệu là một thực tế của các thương vụ M&A ở Việt Nam trong thời gian qua cần được lưu tâm. Trong thời gian qua đã có rất nhiều bài học kinh nghiệm trong vấn đề đánh mất thương hiệu trong các vụ M&A.
Điển hình nhất cho vấn đề này là sự kiện kem đánh răng Dạ Lan. Vào thời điểm những năm 80 và 90 của thế kỷ trước, thương hiệu kem đánh răng Dạ Lan chiếm đến 80% thị phần kem đánh răng trong nước và được tiêu thụ mạnh ở thị trường Campuchia, Lào, Trung Quốc. Con số 3 triệu USD vào năm 1995 là giá trị của kem đánh răng Dạ Lan dùng để góp vốn với tập đoàn Colgate. Với ý định không muốn phát triển tiếp thương hiệu kem đánh răng nội địa ở thị trường trong nước nên công ty nước ngoài đã mua lại thương hiệu này và thực hiện thu hẹp việc sản xuất sản phẩm mang thương hiệu Dạ Lan, đến nay thì thương hiệu này đã biến mất trên thị trường Việt Nam. Hay trong thời gian gần đây, hai vụ mua lại doanh nghiệp tiêu biểu ở thị trường trong nước đó là Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi (Nhật Bản) mua lại công ty Bảo hiểm Nhân thọ Bảo Minh CMG và hãng hàng không Jetstar Airways (JA) đơn vị thành viên của Tập đoàn hàng không Quantas, Australia mua 30% cổ phần của Pacific Airline (PA). Trong hợp đồng mua 30% cổ phần của hãng hàng không PA thì hãng hàng không JA sẽ giúp cho PA trong việc nâng cấp toàn diện về khai thác bay, đội bay, kỹ thuật, đào tạo, bảo dưỡng, an toàn, an ninh hàng không, tăng dần năng suất bay ở những đường bay nội địa có sẵn và giúp PA mở nhiều đường bay nội địa mới, tiếp tục mở thêm đường bay quốc tế. Nhìn bên ngoài hoạt động này ta nhận thấy JA chỉ hỗ trợ cho PA và PA là người có lợi hơn trong thương vụ này, PA vừa có nguồn lực tài chính để vượt qua giai đoạn khó khăn đồng thời tiếp cận được nhiều vấn đề mới về chuyên môn cho hoạt động công ty. Nhưng thực ra, JA đang phát triển hoạt động kinh doanh của mình bằng việc dựa vào PA. Hiện nay trên thế giới không mấy quốc gia cho phép các hãng hàng không nước ngoài khai thác đường bay nội địa. Ngoài ra, để nhận được tất cả những điều được cho là lợi ích trên thì PA phải chấp nhận sử dụng thương hiệu JA. Trên các chuyến bay quốc tế của PA kể từ sau thương vụ mua bán cổ phần đó đều mang thương hiệu là JA. Đối với Công ty bảo hiểm Nhân thọ Bảo Minh CMG thì kể từ khi bán cổ phần cho Công ty Bảo hiểm Nhân thọ Dai-ichi thì thương hiệu Bảo hiểm Nhân thọ Bảo Minh không còn xuất hiện trên thị trường.
Chúng ta thừa nhận rằng, sau các vụ mua lại, sáp nhập doanh nghiệp các doanh nghiệp có nguy cơ phá sản có được cơ hội mới để tiếp tục phát triển. Nhưng tên tuổi của doanh nghiệp đó thường sẽ bị lưu mờ, nhưng vẫn có trường hợp thương hiệu của doanh nghiệp vẫn tiếp tục tồn tại nếu thương hiệu đó là một thương hiệu mạnh trên thị trường. Ở thị trường thế giới cũng đã xuất hiện rất nhiều trường hợp như vậy. Đây là một qui luật tất yếu của thị trường, thương hiệu của doanh nghiệp nhỏ, yếu sẽ bị doanh nghiệp lớn hơn tiêu diệt. Trong thời gian quan, các doanh nghiệp Việt Nam, khi tham gia vào các thương vụ M&A thường là những doanh nghiệp bị mua và thường có thương hiệu yếu hơn so với doanh nghiệp đi mua nên sau khi bán cổ phần lại cho công ty nước ngoài thì dường như thương hiệu bị mất dần. Vấn đề này đang là một thực tế và có thể là một xu thế trong hoạt động M&A ở Việt Nam. Tuy nhiên vẫn có trường hợp doanh nghiệp trong nước vẫn giữ được thương hiệu của mình. Ví dụ như trường hợp của Ngân hàng thương mại cổ phần ACB, ngân hàng đã phát triển tốt thương hiệu ở thị trường trong nước nên mặc dù đã bán 8,5% vốn cổ phần cho Standar Chertered nhưng vẫn giữ được thương hiệu ngân hàng tiếp tục tồn tại.
Việc xây dựng một văn bản pháp luật qui định chặt chẽ về hoạt động mua lại, sáp nhập chỉ là việc hợp thức hóa về mặt pháp lý đối với hoạt động M&A ở thị trường Việt Nam chứ không thể ngăn chặn được hiện tượng này. Bởi lẽ đây là một xu hướng tất yếu của thị trường M&A, thương hiệu mạnh sẽ thôn tính và triệt tiêu thương hiệu yếu hơn. Vấn đề là để tránh được hiện trượng này các doanh nghiệp cần thận trọng hơn trong việc nhận thức về thương hiệu và cố gắng xây dựng một thương hiệu mạnh cho doanh nghiệp của mình, cẩn trọng trong đàm phán M&A để nhằm giữ lại thương hiệu của mình.
Tiềm ẩn khả năng thâu tóm giữa các doanh nghiệp
Một tác động xấu từ hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp có thể tác động đến các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động này là bị thâu tóm bởi doanh nghiệp khác. Bởi vì bản chất cơ bản của các giao dịch mang tính chất M&A là giành quyền kiểm soát doanh nghiêp. Những doanh nghiệp có ý định thâu tóm sẽ đóng vai là đối tác trong các giao dịch M&A. Một sự minh bạch, rõ ràng về qui trình thực hiện, thông tin được công bố, thủ tục thực hiện và sự giám sát của cơ quan quản lý cho các giao dịch M&A sẽ tạo nên một nguồn thông tin đáng tin cậy giúp doanh nghiệp nhận định chính xác hơn về đối tác, từ đó có chiến lược phòng thủ tránh sự thâu tóm của doanh nghiệp khác trong các giao dịch mua lại hay sáp nhập doanh nghiệp là giải pháp thích hợp để hạn chế tác động này.
Tuy nhiên, hoạt động của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở nước ta hiện tại đang còn thiếu sự quản lý, điều tiết, giám sát của cơ quan quản lý, thiếu những qui định cần thiết cho sự vận hành của thị trường như vấn đề công bố thông tin, kỹ thuật định giá doanh nghiệp,… thiếu những chủ thể liên quan cần thiết như nhà tư vấn, công ty tư vấn,… do đây là một hoạt động mới xuất hiện trên thị trường. Chính điều đó là cho quá trình tìm hiểu và đánh giá về đối tác của các doanh nghiệp tham gia còn rất nhiều hạn chế và đó chính là nguyên nhân tiềm ẩn khả năng thâu tóm lẫn nhau giữa các doanh nghiệp.
Hiện tại, chúng ta rất đề cao hoạt động M&A vì nhờ đó mà các doanh nghiệp nhỏ có điều kiện tiếp tục phát triển, nhưng cần lưu ý rằng các doanh nghiệp sau khi bán lại một phần vốn hoặc sáp nhập với các doanh nghiệp khác thì doanh nghiệp có còn tiếp tục hoạt động với những mục tiêu ban đầu hay không, người chủ sở hữu cũ của doanh nghiệp có vai trò như thế nào sau khi doanh nghiệp tiến hành bán hoặc sáp nhập với một doanh nghiệp khác. Từ đó để nhìn nhận bản chất của vụ giao dịch M&A một cách rõ hơn, đánh giá chính xác về mục tiêu của công ty tiến hành mua lại doanh nghiệp để tránh tình trạng bị thâu tóm. Đó là giải pháp để đối phó lại sự ruir ro này mà doanh nghiệp có thể thực hiện trong thời điểm hiện nay. Đối với cơ quan quản lý thì cần nhận ra những biểu hiện về sự thâu tóm của doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp khác để có những can thiệp kịp thời và hợp pháp.
Với thực trạng hoạt động M&A trên thị trường Việt Nam còn đang bỏ ngõ rất nhiều vấn đề, nhất là trong vấn đề hành lang pháp lý bảo hộ cho sự hoạt động của thị trường này, thì khả năng các doanh nghiệp khi tham gia hoạt động M&A bị thâu tóm bởi doanh nghiệp đối tác luôn tiềm ẩn. Một sự chuẩn bị từ phía cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp ngây từ khi thị trường mới đi vào hoạt động là thực sự cần thiết.
Độc quyền là kết quả tất yếu của việc phát triển thị trường M&A không có sự kiểm soát chặt
Độc quyền là một hậu quả khác của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nếu như không có sự quản lý chặt chẽ từ phía cơ quan quản lý thị trường. Thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam đang hoạt động trong tình trạng đó, thiếu khung hành lang pháp lý cho sự vận hành của thị trường, hay nói một cách khác đó là thiếu sự quản lý của cơ quan có thẩm quyền đối với hoạt động M&A. Do đó, vấn đề độc quyền do hậu quả của thị trường M&A là có rất nhiều khả năng đe dọa nền kinh tế trong nước nếu không có sự nhìn nhận và kiềm chế từ bây giờ.
Do đặc tính của nền kinh tế nước ta là có rất nhiều doanh nghiệp có qui mô nhỏ nên sẽ có rất nhiều vụ mua lại sáp nhập doanh nghiệp được diễn ra. Trong đó do có qui mô quá nhỏ nên các doanh nghiệp này rất dễ dàng bị thâu tóm bởi các doanh nghiệp lớn hơn và các doanh nghiệp nước ngoài. Các công ty nước ngoài khá mạnh về năng lực tài chính sẽ dễ dàng mua lại 100% vốn cổ phần của các công ty nhỏ (sau khi giới hạn về việc nắm giữ vốn trong các công ty cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài bị dỡ bỏ). Sau đó tận dụng một số lợi thế khác của các doanh nghiệp để tiếp tục phát triển mạnh ở thị trường nước ta và tiến hành mua dần các doanh nghiệp với qui mô lớn dần hoạt động trong cùng một ngành nghề. Kết quả là đi đến độc quyền. Doanh nghiệp và cơ quan quản lý cần chú tâm nhiều hơn đến hiện tượng này.
Tóm lại, những mặt trái của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp chưa xuất hiện hoặc xuất hiện chưa rõ nét trên thị trường Việt Nam nhưng những nguyên nhân gây nên các tác động tiêu cực đó đang tồn tại. Như vậy những tác động tiêu cực của thị trường M&A đang tiềm ẩn trong nền kinh tế Việt Nam, đe dọa đến các doanh nghiệp có đã và đang hoặc có ý định tham gia thị trường này. Trước thực tế đó, một số giải pháp nhằm khắc phục cần được đưa ra một cách kịp thời là đòi hỏi cấp thiết hiện nay để cho thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam được vận hành và phát triển bền vững.
Những vấn đề hạn chế sự phát triển của thị trường mua lại, sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam
Sự hiểu biết về hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp còn hạn chế
Hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là một hoạt động rất mới ở thị trường Việt Nam. Mặc dù theo đánh giá tốc độ tăng trưởng các giao dịch M&A thị trường này đang phát triển khá nhanh nhưng thực chất lượng giao dịch chưa tương xứng với tiềm năng. Một trong những nguyên nhân là do sự hiểu biết hạn chế của các đối tượng có thể liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Các đối tượng đó là doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước.
Về phía doanh nghiệp
Sự nhận thức của nhà quản trị doanh nghiệp đối với hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp: Với bối cảnh hiện nay của nền kinh tế Việt Nam thì một xu hướng phát triển của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp là tất yếu. Do số lượng doanh nghiệp trong nước rất nhiều nhưng lại chủ yếu là các doanh nghiệp với qui mô nhỏ, thiếu năng lực cạnh tranh lâu dài nên việc tiếp tục tồn tại và phát triển của những doanh nghiệp này là rất khó nếu không có một định hướng phát triển rõ ràng, dài hơi. Để tránh con đường phá sản thì sáp nhập là một phương thức lựa chọn đáng được các doanh nghiệp lưu tâm. Trong khi đó theo khảo sát gần đây chỉ có 30% doanh nghiệp trong nước có định hướng phát triển bằng con đường mua lại doanh nghiệp khác và chỉ có 3% doanh nghiệp có ý định bán lại doanh nghiệp của mình. Con số này thấp hơn so với thế giới là 44%. Theo nhận định nguyên nhân của hiện tượng trên là do:
Rất nhiều nhà quản trị của các doanh nghiệp nhỏ và vừa xem hoạt động M&A là sự thâu tóm doanh nghiệp khác, chưa xem nó như là một công cụ hữu hiệu để tái cấu trúc lại doanh nghiệp khi cần thiết, là một công cụ để giải thoát doanh nghiệp trước những khó khăn phải dẫn đến sự phá sản, là một phương thức để là gia tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh thường xuyên thay đổi và khắt nghiệt. Ngoài ra, nhà quản trị doanh nghiệp không có một sự chuẩn bị tốt cho quá trình để tiến hành hoạt động M&A này ngây từ các khâu đầu tiên như lập chiến lược phát triển công ty, tìm xác định mục tiêu và công ty mục tiêu, trong việc định giá doanh nghiệp, đàm phán và hợp nhất sau khi đã tiến hành M&A. Điều đó là gia tăng tỷ lệ thất bại, là e ngại các nhà quản trị khác.
Đồng thời theo số liệu điều tra của Công ty First Asia Limited thì sẽ có hơn 50% doanh nghiệp Việt Nam phải đóng cửa sau 6 năm hoạt động. Kết hợp hai con số thống kê này lại chúng ta nhận thấy rằng, các nhà quản trị doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự quan tâm nhiều hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp. Các nhà quản trị chưa nhận thấy được những tác động tích cực của hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp đó chính là một công cụ để thực hiện tái cấu trúc lại doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện mới của thị trường.
Trong giai đoạn đầu mới xuất hiện thì việc của nhiều người chưa biết hay chưa nắm rõ được những nguyên tắc cần thiết trong quá trình thực hiện cũng như những tác động của nó là điều có thể cảm thông. Tuy nhiên vấn đề này cần nhanh chóng được giải quyết bởi vì nó là nguyên nhân gây nên những tác hại cho chính doanh nghiệp do không nắm rõ nó khi thực hiện. Sự hạn chế về kiến thức của nhà quản trị đối với hoạt động M&A đã làm hạn chế cung cầu cho thị trường. Còn đối với các doanh nghiệp rơi vào tình huống phải thực hiện hoạt động M&A thì sự không hiểu biết cặn kẽ về hoạt động này hay thiếu sự chuẩn bị đã gây nên những hậu quả khó lường cho doanh nghiệp và làm cho hoạt động M&A không thành công như mong muốn. Chẳng hạn như phải gánh quá nhiều nghĩa vụ của công ty mục tiêu, hay bị thiệt hại trong quá trình tham gia như mua với giá cao hoặc phải bán với giá thấp hơn giá trị thực tế, xuất hiện những tranh chấp không đáng có đối với người tư vấn,…
Về phía cơ quan quản lý nhà nước
Vấn đề mấu chốt trong những bất cập của hoạt động mua lại, sáp nhập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Giải pháp để phát triển hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp Việt Nam.doc