1. Tổng quan về thanh tra Ngân hàng. 2
1.1. Khái niệm. 2
1.2. Đ ối tượng của thanh tra Ngân hàng bao gồm: 2
1.3. Nội dung hoạt động của Thanh tra ngân hàng: 3
2. Phương thức thanh tra 4
2.1. Giám sát từ xa 5
2.2. Phương thức thanh tra tại chỗ 6
Nội dung của thanh tra tại chỗ 7
2.3. Xử lý kết quả thanh tra 7
3. Thực trạng hệ thống thanh tra ngân hang ở Việt Nam hiện nay 10
4. Một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả của thanh tra ngân hàng: 15
4.1. Về tổ chức: 16
4.2. Về phương thức thanh tra: 17
4.3 Tăng cường đào tạo lại nguồn nhân lực cho thanh tra ngân hàng 18
4.4. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra ngân hàng cũng như các quy định về hoạt động ngân hàng đạt chuẩn mực quốc tế 18
4.5 Tăng cường hợp tác quốc tế trong thanh tra ngân hàng 19
20 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN Việt Nam và tác động tới ổn định hệ thống tài chính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t động thanh tra chuyên về một ngành nào đó.Khoản 1, điều 50 luật NHNN Việt Nam quy định: TTNN là thanh tra nhà nước chuyên ngành về ngân hang, được tổ chức thành hệ thống bộ máy NHNN. Mục đích của thanh tra ngân hang là nhằm góp phần đảm bảo an toàn các tổ chức tín dụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ việc thực thi chính sách tiên tệ quốc gia.
1.2. Đ ối tượng của thanh tra Ngân hàng bao gồm:
1.2.1. Tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng:
- Các tổ chức tín dụng nhà nước (bao gồm: Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng chính sách và tổ chức tín dụng phi ngân hàng);
- Các tổ chức tín dụng cổ phần của nhà nước và nhân dân (gồm: Ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng phi ngân hàng);
- Các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam (gồm: tổ chức tín dụng liên doanh; tổ chức tín dụng phi ngân hàng 100% vốn nước ngoài, chi nhánh của ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, văn phòng đại diện của Tổ chức tín dụng nước ngoài đặt tại Việt Nam);
- Các tổ chức tín dụng hợp tác;
1.2.2. Hoạt động ngân hàng của các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép.
1.2.3. Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế xã hội và cá nhân trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng.
1.3. Nội dung hoạt động của Thanh tra ngân hàng:
+ Thực hiện giám sát thường xuyên việc thực hiện các quy chế an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng bằng phương pháp giám sát từ xa theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
+ Tiến hành các cuộc thanh tra, kiểm tra, phúc tra trong việc chấp hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, việc thực hiện các quy định trong giấy phép hoạt động ngân hàng đối với các đối tượng quy định tại điểm 2 của Thông tư này và theo quy định của pháp luật về thanh tra.
+ Thẩm tra, xác minh, kết luận, kiến nghị việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo liên quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng; tham mưu, giúp Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng trong ngành ngân hàng.
+ Phát hiện ngăn chặn và xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
+ Kiến nghị Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Giám đốc chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố và các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác thực hiện các biện pháp bảo đảm thi hành pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng.
2. Phương thức thanh tra
Trước yêu cầu đổi mới về hoạt động thanh tra ngân hang trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc đổi mới tổ chức, TTNH đang dần dần thay đổi phương thức hoạt động của mình, từ thanh tra từng vụ việc là chính sang thực hiện hai phương thức giám sát từ xa và thanh tra rại chỗ, từng bước kết hợp hai phương thức này thành công nghệ thanh tra hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của thanh tra ngân hang.
2.1. Giám sát từ xa
Giám sát từ xa là quá trình thu thập, xử lý số liệu báo cáo của TCTD; tiến hành phân tích đánh giá tình hình hoạt động của tổ chức tín dụng, lập các báo cáo và ra các bản khuyến cáo với TCTD nhằm đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của TCTD, cảnh báo sớm ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra, có tác động định hướng cho thanh tra tại chỗ, đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hang. Phương thức GSTX phụ thuộc vào các yếu tố: khuôn khổ pháp luật, hệ thống kiểm toán, chế độ hạch toán, kỷ luật thông tin báo cáo, ở từng nước có vận dụng khác nhau về nội dung, về quy mô của phương thức này. Song có nét chung sau đây:
+ Việc giám sát được thực hiện tại trụ sở của cơ quan giám sát, không phải trụ sở của TCTD
+ Dựa vào nguồn thông tin từ chế độ thông tin báo cáo theo quy định, từ số liệu lịch sử và các nguồn thông tin khác.
+ Xử lý thông tin, phân tích rút ra những nhận xét về thực trạng của từng TCTD và của cả hệ thống;
+ Việc giám sát đựơc thực hiện liên tục theo các định kỳ ngắn, thường là hang tháng, hang quý;
+ Các chỉ số phân tích xếp loại đều dựa trên khuôn khổ CAMELS;
+ Các chương trình giám sát đều thực hiện trên mạng máy tính;
+ Giám sát từ xa kết hợp với thanh tra tại chỗ chỉ ra những đơn vị, những lĩnh vực cần thiết để thanh tra tại chỗ;
Tại Việt Nam công tác GSTX bắt đầu thực hiện từ năm 1991, qua các năm nghiên cứu củng cố và hoàn thiện chương trình GSTX, ngày 9/11/1999 thống đốc ngân hang nhà nước ban hành quyết định 398/1999/QĐ-NHNN3 về việc ban hành quy chế GSTX đối với các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam.
Từ khi quy chế giám sát ra đời, TTNH thực hiện giám sát TCTD theo 2 cấp gồm: Thanh tra NHNN; thanh tra chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Đối tượng giám sát và nội dung giám sát theo quyết định 398/1999/QĐ-NHNN3 ngày 9/11/1999 của thống đốc NHNN.
Nội dung giám sát
Giám sát từ xa là việc gián tiếp kiểm tra thông qua tổng hợp và phân tích để đánh giá các nội dung sau đây của tổ chức tín dụng:
Diễn biến về cơ cấu tài sản nợ và tài sản có
Chất lượng tài sản có.
Vốn tự có.
Tình hình thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh.
Việc thực hiện quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật.
Các vấn đề liên quan khác.
Việc đánh giá các nội dung trên dựa vào việc phân tích các chỉ số tài chính củaTCTD. Kết qủa thực hiện các nội dung giám sát có vai trò trong việc đánh giá, xếp loại,cácTCTD và đưa ra những cảnh báo cho các TCTD về những vấn đề quan tâm.
Hiện nay nhiều nước trên thế giới phương thức GSTX đối với các NHTM được chọn làm phương thức thanh tra chủ yếu. Phương thức này có tinh tích cực cao vì nó góp phần cảnh báo, phòng ngừa rủi ro với các NHTM.
2.2. Phương thức thanh tra tại chỗ
- Thanh tra tại chỗ là phương thức thanh tra truyền thống, là việc thanh tra được tổ chức tại nơi làm việc của đối tượng thanh tra và tại các tổ chức kinh tế, cá nhân là khách hàng của ngân hàng trên cơ sở kiểm tra xem xét các văn bản, thông tin chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện, quy chế của ngành; các báo cáo kế toán, thống kê, các chứng từ, tài liệu, sổ sách, hợp đồng có liên quan đến hoạt động huy động vốn- sử dụng vốn và công tác kế toán – tài chính của đối tượng được thanh tra.
2.2.1 Mục tiêu của thanh tra tại chỗ
_ Đánh giá tình hình chấp hành chính sách, pháp luật, các chế độ, thể lệ của ngành ngân hàng.
_ Giúp các tổ chức tín dụng thấy đựơc mặt tích cực, những mặt hạn chế còn tồn tại để tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tồn tại và kiến nghị những biện pháp chấn chỉnh, bảo đảm TCTD hoạt động đúng chính sách, pháp luật chế độ, thể lệ và hoạt động có hiệu quả hơn.
_ Phát hiện những vấn đề mới phát sinh, những quy định chưa hợp lý để kiến nghị sủa đổi, bổ sung và hoàn thiện theo quy định hiện hành.
Nội dung của thanh tra tại chỗ
_ Thanh tra nguồn vốn;
_ Thanh tra chất lưọng tín dụng;
_ Thanh tra nghiệp vụ bảo lãnh;
_ Thanh tra hoạt động kinh doanh ngoại tệ;
_ Thanh tra hùn vốn liên doanh;
_ Thanh tra nghiệp vụ tài chính, kế toán
Ở Việt Nam hoạt động thanh tra tại chỗ của NHNN đối với NHTM thực sự được chú trọng từ khi pháp lệnh thanh tra và pháp lệnh ngân hang ra đời. Trong điều kiện các phương tiện và việc xây dựng các tiêu chí cho việc giám sát từ xa còn bị hạn chế, các NHTM chưa xây dựng cho mình được một hệ thống kiểm tra, kiểm soát nội bộ hữu hiệu thì phương thức thanh tra, kiểm tra tại chỗ vẫn có vai trò quan trọng trong việc phát hiện sai phạm va ngăn ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hang.
2.3. Xử lý kết quả thanh tra
2.3.1. Xếp hạng các tổ chức tín dụng
Ở Việt Nam việc xếp loại các NHTM cổ phần đã bắt đầu thực hiện từ năm 1998 theo quyết định số 92/1998/QĐ-NHNN5 ngày 27 tháng 8 năm 1998 cuả thống đốc ngân hang nhà nước. Sau đó để phù hợp với các quy định hiện hành và tình hình hoạt động của các NHTMCP, ngày 16\4\2004 thống đốc NHNN đã ban hành quyết định sồ 100/2004/QĐ-NHNN thay cho quyết dinh 92\1998\QĐ-NHNN5 quyết định này đã đưa việc xếp loại các TCTD VN tương đối gần cách phân loại đánh giá các NHTM theo tiêu chi CAMELS.
Các chỉ tiêu đánh giá xếp loại theo quyết định trên của NHNN bao gồm:
_ Vốn tự có
_ Chất lượng hoạt động;
_ Công tác quản trị, kiểm soát, điều hành;
_ Kết quả kinh doanh;
_ Khả năng thanh khoản.
_ Vốn tự có: Mức điểm tối đa là 15 điểm, tối thiểu là -2
Các NHTMCP đạt 10 điểm về vốn tự có phải có đủ các điều kiện
Sau:
_ Vốn điều lệ đủ theo mức vốn pháp định;
_ Đảm bảo an toàn vốn, cụ thể:
+Duy trì vốn điều lệ thực có không thấp hơn vốn điều lệ đã đăng ký tại sở kế hoạch và đầu tư tỉnh, thành phố nơi NHTM đặt trụ sở chính;
+ Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu đặt mức quy định của NHNN;
+ Đảm bảo các quy định nhà nước về cổ đông, cổ phần, cổ phiếu.
Điểm thưởng tối đa là 5 điểm:
Các NHTMCP được cộng 5 điểm pahỉ có vốn điều lệ trên 300% vốn pháp định
_ Chất lượng hoạt động: Mức điểm tối đa 35 điểm.
_ Chất lượngtín dụng: Mức điểm tối đa 25 điểm, tối thiểu 0 điểm.
MHTMCP đạt tối đa 25 điểm về chỉ tiêu chất lượng tín dụng phải đảm bảo:
+ Tỷ lệ giữa tổng các khoản nợ xấu so với tổng dư nợ nhỏ hơn hoặc bằng 2.
+ Không có nợ khó đòi hoặc nợ khó đòi ròng nhỏ hơn hoặc bằng 0.
_ Chất lượng bảo lãnh: Mức điểm tối đa 5 điểm, tối thiểu 0.
NHTMCP đạt điểm tối đa 5 về chỉ tiêu chất lưọng bảo lãnh phải đảm bảo không có nợ bảo lãnh quá hạn.
_ Quản trị, kiểm soát, điều hành: Mức tối đa 15 điểm, tối thiểu 0 điểm.
NHTMCP đạt tối đa 15 điểm phải đảm bảo các điều kiện sau:
_ Thành viên hội đồng quản tri, kiểm soát viên đủ số lưọng theo quy định; ban hành vả thực hiện tốt các quy chế nội bộ;
_ Hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ tương xứng với quy mô ngân hang và hoạt động hiệu quả, đảm bảo các rủi ro quan trọng luôn được nhận dạng, đo lường, kiểm tra, kiểm soát một cách liên tục;
_ Các thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, ban điều hành có năng lực đoàn kết, có ý thức chấp hành pháp luật, có trách nhiệm, thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn trong việc quản trị, kiểm soát điều hành NHTMCP.
_ Kết quả kinh doanh: Tổng số điểm 20
Kết quả kinh doanh: Tối đa 15 với điều kiện có lãi trước thuế so với vốn chủ sở hữu( bao gồm vốn điều lệ và các quỹ) đạt tư 20% trở lên.
Tỷ lệ thu dịch vụ trong tổng thu nhập đạt 40% trở lên đạt 5 điểm.
_ Khả năng thanh khoản: Mức điểm tối đa 15 điểm, tối thiểu -6 điểm
Khả năng thanh toán ngay = tài sản “có” có thể thanh toán ngay/ tài sản “nợ” phải thanh toán ngay.NHTMCP đảm bảo tỷ lệ khả năng chi trả theo quy định của NHNN đạt điểm tối đa là 9 điểm.
Tỷ lệ sử dụng vốn trung bình và dài hạn: Tổng dư nợ cho vay trung dài hạn/ nguồn vốn để cho vay trung, dài hạn đạt 100% hoặn nhỏ hơn 6 điểm.
Phương pháp định giá xếp loại:
_ Việc đánh giá xếp loại các TCTD được căn cứ vào số điểm của từng chỉ tiêu đã quy định.
_ Nguyên tắc tính điểm là lấy số điểm tối đa trừ đi số điểm bị trừ của từng chỉ tiêu. Những TCTD không có hoạt động nghiệp vụ theo các quy định tại quy định này thì không cho điểm với các chỉ tiêu tại quy định đó.
_ Số liệu được xem xét cho điểm được căn cứ:
+ Số liệu trên bảng cân đối tài khoản, số liệu báo cáo thống kê của TCTD tại thời điểm 31/12 hàng năm.
+ Số liệu qua công tác thanh tra, giám sát của NHNN
+ Các tài liệu khác có liên quan như kết quả kiểm toán, báo cáo tài chính của các tổ chức tín dụng
Hạng A ( tốt ) là TCTD có tổng số điểm 75 – 100
Hạng B ( khá ) là TCTD có tổng số điểm 60 – 74
Hạng C ( trung bình) là TCTD có tổng số điểm 45 – 59
Hạng D ( yếu kém ) là TCTD có tổng số điểm dưới 45
2.3.2. Các giải pháp đối với các TCTD
- Có kế hoạch chấn chỉnh hoạt động của TCTD
- Theo dõi TCTD gặp khó khăn có chế độ giám sát thường xuyên
- Quy định định kỳ báo cáo
- Thực hiện chuyển TCTD sang chế độ bảo tồn theo cơ chế kiểm soát đặc biệt nếu kế hoạch chấn chỉnh không có hiệu quả, tình hình tài chính tiếp tục sấu
- Thu hồi giấy phép hoạt động theo luật định và các giải pháp sau khi thu hồi giấy phép
3. Thực trạng hệ thống thanh tra ngân hang ở Việt Nam hiện nay
3.1. Về tổ chức thanh tra
Cũng như cơ quan giám sát ngân hang các nước, thanh tra Việt Nam có nhiệm vụ cư bản là đảm bảo các tổ chức tín dụng chịu sự giám sát tuân thủ các quy định của pháp luật, hạn chế rủi ro trong hệ thống các tổ chức tín dụng, bảo vệ người gửi tiền góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế quốc dân
Hệ thống thanh tra ngân hang đang được tổ chức theo hai cấp: Thanh tra NHNN và thanh tra NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Thanh tra chi nhánh chịu sự chỉ đạo về mặt nghiệp vụ của tránh thanh tra NHNN, đồng thời chỉ đạo của giám đốc chi nhánh NHNN trong phạm vi trách nhiệm quản lý của chi nhánh NHNN.
Với mô hình tổ chức hai cấp như vậy. Thanh tra chi nhánh NHNN bị hạn chế về tính độc lập, bởi họ còn chịu sự chỉ đạo của giám đốc chi nhánh NHNN, trong khi về nguyên tắc, tính độc lập của TTNH càng được đảm bảo thì hiệu quả giám sát càng cao.
Về nhân lực, thanh tra viên ngân hang chiếm cố lượng khá đông, tất cả đều có trình độ đại học chở lên, được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ thanh tra nhưng để hội nhập quốc tế trong thời gian này thì nhữn gì thanh tra viên đã được đào tạo là chưa đủ đòi hỏi phải được đào tạo liên tục, được tiếp cận với kiến thức ngân hang hiện đại thì mới đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ trong tương lai.
3.2 Về phương pháp thanh tra
3.2.1. Thực trạng công tác giám sát từ xa
_ Hệ thống thông tin số liệu sử dụng trong GSTX còn sơ sài, chưa có chương trình giám sát cảnh báo sớm, kết quả đánh giá phân tích đối với TCTD chỉ có tác dụng để báo cáo, và mới chỉ dừng ở việc cung cấp số liệu để tham khảo khi xây dựng chính sách, cơ chế và hỗ trợ một ít cho hoạt động TTTC trong việc đánh giá khái quát tình hình hoạt động của TCTD, kết quả đó gần như chưa phát huy được tác dụng phát hiện rủi ro, để cảnh báo và có biện pháp phòng ngừa.
_ Mặc dù hoạt động GSTX đã phân tích, đánh giá TCTD theo CAMELS, nhưng các tiêu chí đánh giá còn chưa đạt chuẩn mực quốc tế về nội dung và chưa đảm bảo tính kịp thời. Chẳng hạn, theo chuẩn mực quốc tế, GSTX được tự động hoá bằng phần mềm chuyên dụng được thực hiện hàng ngày, trong khi ở Việt Nam, được thực hiện hàng tháng, chỉ tiêu hệ số an toàn vốn CAR lại không gửi cho thanh tra ngân hàng mà chỉ gửi cho vụ các ngân hàng hàng quý. Do đó chức năng cảnh báo sớm những rủi ro có thể xảy ra của TCTD của GSTX gần như không thực hiện được một cách hiệu quả.
_ Nội dung giám sát phân tích còn rườm rà, bao gồm: thống kê số liệu trong kỳ, so sánh tăng giảm một số chỉ tiêu thuộc nguồn vốn, sử dụng vốn, khả năng thanh khoản, thu nhập, chi phí
_ Phối hợp giữa GSTX và TTTC còn bất cập nên xử lý những vấn đề tồn tại đối với TCTD còn chậm. GSTX hầu như chưa phát hiện và chỉ ra TCTD nào cần thanh tra, kiểm tra. GSTX đối với các chi nhánh của TCTD ở các địa phương khá tốn kém nhưng chưa phát huy hiệu quả.
Chưa thực hiện được việc đánh giá xếp loại TCTD, do chưa xác
định nguồn
thông tin để tính toán các chỉ tiêu và chưa xây dựng được hệ thống
chỉ tiêu
làm chuẩn mực trong đánh giá xếp loại TCTD.Có thế nói, hoạt
động GSTX chưa thực hiện được nhiệm vụ quan trọng nhất
Theo chuẩn mực quốc tế là đánh giá rủi ro và đưa cảnh báo rủi ro
sớm.
3.2.2. Thực trạng thanh tra tại chỗ
* Công tác thanh tra tại chỗ của ngân hang nhà nước được thực hiện bởi năm phòng thanh tra tại chỗ, các tổ chức tín dụng được phân chia thành năm nhóm theo hình thức sở hữu và đựơc phân công cho mỗi phòng thực hiện chức năng thanh tra tại chỗ. Nói chung các phòng thanh tra tại chỗ tại thanh tra NHNN thực hiện việc thanh tra trực tiếp đối với hội sở chính của các TCTD, TCTD nước ngoài và liên doanh. Thanh tra chi nhánh ngân hang nhà nước thực hiện việc thanh tra tại chỗ với các tổ chức tín dụng và các TCTD trên địc bàn.
Về nguyên tắc giám sát tư xa cũng như thanh tra tại chỗ cần được thực hiện với các TCTD trên cơ sở tổng hợp, nghĩa là chỉ cần giám sát đối với hội sở chính của TCTD mà không nhất thiết phải giám sát với các chi nhánh của TCTD, bởi các chi nhánh của TCTD không hạch toán độc lập, mọi chỉ tiêu cầc giám sát chỉ mang đầy đủ ý nghĩa khi chúng được tổng hợp tại hội sở chính. Vì vậy việc GSTX với các chi nhánh của TCTD tại các tỉnh thành phố không đem lại hiệu quả còn gây tốn kém. Và việc thanh tra tại chỗ với chi nhánh các TCTD cũng không đem lạ bức tranh toàn cảnh của TCTD, việc đánh giá một chi nhánh trong khi TCTD có rất nhiều chi nhánh không đem lại nhiều ý nghĩa, tuy nhiên đây là vấn đềmang tính đặc thù của Việt Nam, nhất là đối với các TCTD nhà nứơc, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng để đưa ra phương án cải cách.
* Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa GSTX và thanh tra tại chỗ
Vể nguyên tắc, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa GSTX và thanh tra tại chỗ, nhưng sự phối hơpk này tại thanh tra ngân hang chưa được như mong muốn, bởi kết quả GSTX không cập nhật, không phục phụ đắc lực cho không tác thanh tra tại các phòng thanh tra tại chỗ, ngựơc lại kết quả thanh tra tại chỗ cũng không được thông báo cho phòng GSTX.
* Việc áp dụng phương pháp thanh tra tại chỗ chưa hợp lý
Trong thanh tra tị chỗ, hiện tại thanh tra ngân hang đamg nỗ lực cải tiến phương pháp thanh tra, nhưng chưa đến đích cần đạt tới. Trong hầu hết các cuộc thanh tra, TTNH vẫn tiến hành theo phương pháp truyền thống, đó là phương pháp thanh tra cụ thể, nghĩa là thường tập trung vào xem xét liệu các TCTD có tuân thủ các quy định của luật pháp và quy chế hay không vào việc đánh giá chất lượng tài sản, nội và ngoại bảng, của TCTD tại một thời điểm nào đó. Trong khi đó, rủi ro tổng thể mà TCTD đang và sẽ đối mặt chưa được TTNH đánh giá và cảnh báo sớm. Đây là một trong những tồn tại và hạn chế lớn nhất của TTNH. Mặc dù phương pháp truyền thống đó cũng có thể giúpTCTD giảm rủi ro nhưng ngày nay việc xem xét kiểm tra những vấn đề đó là chưa đủ khi mà sự cải cách tài chính đã đem lại nhiều thị trường và công cụ tài chính mới khiến cho các TCTD và nhân viên của họ có thể dễ dàng đầu cơ một cách mạo hiểm. Trong môi trường tài chính này, một TCTD thực sự mạnh tại thời điểm nhất định nào đó có thể bị đẩy vào tình trạng mất khả năng thanh toán rất nhanh chóng do những thua lỗ lớn trong kinh doanh, khi mà hệ thống quản lý của TCTD không phát huy được hiệu lực hay yếu kém. Do đó việc kiểm tra nếu chỉ tập trung vào tình trạnh của TCTD tại một thời điểm nào đó có thể không khẳng định được liệu trong thực tế sẽ phải chịu rủi ro quá mức trong tương lai gần hay không. Vì vậy cần áp dụng phương pháp thanh tra hệ thống ( hay còn gọi là thanh tra kiểm tra quy trình) là chính, kết hợp với phương pháp thanh tra cụ thể để đem lại hiệu quả tôt nhất.
3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trên
Do chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu giám sát theo các chuẩn mực quốc tế hệ thống các chỉ tiêu giám sát còn thiếu và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, công nghệ thông tin còn chắp vá, lạc hậu chưa đáp ứng được nhu cầu giữa bộ phận GSTX và TTTC, chưa tiến hành đánh giá xếp hạnh các TCTD theo tiêu chuẩn quốc tế CAMELS.
Trình độ cũng như sự phát triển của các TCTD nội địa chưa đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế. Hệ thống tài khoản kế toán mà các TCTD nước ta đang áp dụng chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Trình độ cán bộ thanh tra vẫn còn bất cập, chưa được trang bị đầy đủ các kiến thức và điều kiện theo tiêu chuẩn thanh tra viên quốc tế; các quy định liên quan đến thanh tra ngân hàng vẫn chưa được bổ sung điều chỉnh kịp thời.
Tính độc lập của thanh tra NHNN còn hạn chế. Thanh tra NHNN chịu sự can thiệp của thanh tra nhà nước. Hiện tượng chống chéo và kém hiệu quả của thanh tra còn phổ biến, thanh tra chi nhánh NHNN vừa chịu sự điều hành trực tiếp của giám đốc chi nhánh vừa phải tổ chức thực hiện kế hoạch thanh tra hàng năm của thanh tra NHNN do thống đốc NHNN phê duyệt, chánh thanh tra NHNN triển khai.
Cùng thực hiện chức năng kiểm tra giám sát hoạt động của các TCTD nhưng giữa các đơn vị liên quan( các vụ, cục ở NHTW, các chi nhánh NHNN) chưa có sự phối hợp chặt chẽ vừa gây ra tình trạng chồng chéo, trùng lặp, vừa tạo nên những lĩnh vực bị bỏ sót trong thanh tra giám sát. Do đó, không thể tránh khỏi tình trạng đùn đẩy trách nhiệm của các bộ phận liên quan còn có trường hợp vi phạm không bị kiểm tra, phát hiện xử lý kịp thời.
4. Một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả của thanh tra ngân hàng:
Cùng với sự hội nhập ngày càng giă tăng của nền kinh tế nước ta vào nền kinh tế thế giới, buộc hệ thống ngân hàng Việt Nam phải có những chuyển biến mạnh mẽ và nhanh chóng để có thể nắm bắt được các cơ hội và đối phó có hiệu quả với những nguy cơ; đảm bảo các điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và phát triển vững mạnh cho hệ thống tài chính, tiền tệ nước nhà trong mội trường mở cửa và tự do hoá hệ thống tài chính. Là công cụ quan trọng trong quản lý nhà nước về lĩnh vực tài chính ngân hàng, do đó yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra ngân hàng là hết sức cấp bách khẩn trương, đòi hỏi một sự thay đổi sâu sắc và toàn diện để có thể ngang tầm với khu vực và quốc tế. Tại thông báo kết luận số 191-TB/TW của Bộ chính trị về mục tiêu, giải pháp phát triển ngành ngân hàng đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, đã khẳng định: “nghiên cứu hệ thống thanh tra trực thuộc NHNN về lâu dài, có thể trực thuộc chính phủ để làm nhiệm vụ thanh tra cho cả lĩnh vực tài chính, bảo hiểm, chứng khoán và hoạt động tín dụng”
Mục tiêu đổi mới là phải tạo ra một tổ chức thanh tra chuyên ngành độc lập và hiệu lực. Tổ chức mới này phải khắc phục được những nhược điểm đã nêu trên của mô hình tổ chức, của cơ chế chỉ đạo điều hành trong hoạt động thanh tra giám sát đối với lĩnh vực tiền tệ và hoạt động không chỉ của hệ thống ngân hàng mà tiến tới đối với cả hệ thống tiền tệ quốc gia. Ngoài ra, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập với khu vực và với thế giới trong lĩnh vực ngân hàng cũng đòi hỏi đổi mới của thanh tra ngân hàng Việt Nam về tổ chức bộ máy, nội dung nghiệp vụ, cách thức phương pháp cũng như cơ chế điều hành, giám sát của thanh tra ngân hàng phải phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
4.1. Về tổ chức:
_ Nâng cao tính độc lập của thanh tra ngân hàng: làm thế nào để nâng cao tính độc lập của thanh tra ngân hàng là một vấn đề quan trọng, với định hướng tổ chức lại hệ thống NHNN gọn nhẹ hơn theo khu vực có thể giảm bớt tốn kém trong GSTX, thanh tra chi nhánh NHNN không thực hiện công tác GSTX mà nhiệm vụ này chỉ để thanh tra NHNN thực hiện đối với hội sở chính của các TCTD. Đồng thời, nên tổ chức hệ thống thanh tra NH theo ngành dọc, chỉ chịu sự chỉ đạo cả về mặt nghiệp vụ và tổ chức của thanh tra NHNN.
_ Sắp xếp lại chức năng thanh tra tại chỗ: hiện tại, các phòng thanh tra thực hiện thanh tra theo các nhóm TCTD, được phân theo hình thức sở hữu. Được biết để thực hiện theo các quy định mới của Basel 2, thanh tra NH tại Đức thực hiện phân khối thanh tra tại chỗ thành các khối thanh tra theo loại hình rủi ro (khối rủi ro tín dụng, khối rủi ro thị trường, khối rủi ro tác nghiệp). Như vậy, tính chuyên môn hoá của thanh tra tại chỗ được nâng cao. Đây cũng là 1 gợi ý thanh tra NHVN nên xem xét, nhất là khi tiến tới áp dụng các chuẩn mực của Basel 2.
_ Cho phép thanh tra NH được uỷ nhiệm một số công việc cho kiểm toán độc lập: với nhân lực có hạn trong khi khối lượng thanh tra của NH ngày càng nhiều, cần có quy định thanh tra NH được uỷ nhiệm một số công việc của mình cho kiểm toán độc lập như ở một số nước phát triển, tất nhiên một khi kiểm toán độc lập đạt được chuẩn mực nhất định.
4.2. Về phương thức thanh tra:
4.2.1. Đối với GSTX:
Đối vơí GSTX, nâng cao hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho công tác giám sát là hết sức quan trọng, có như vậy hệ thống GSTX mới có được tính kịp thời. Bên cạnh đó, chúng ta tiến tới việc hoàn thiện các chỉ tiêu giám sát theo tiêu chuẩn Basel 1.
Cần nghiên cứu việc thực hiện các tiêu chuẩn Basel 2, những gì có thể áp dụng được phù hợp với thực tế VN. Rõ ràng, việc áp dụng các tiêu chuẩn của Basel 2 tại VN là hết sức khó khăn, chẳng hạn như các công ty tại VN chưa được xếp hạng, các TCTD chưa có thống kê về các loại hình rủi ro, chưa hiểu biết rõ về các mô hình rủi ro.
4.2.2. Đối với TTTC:
Đối với TTTC, cần cải cách phương pháp thanh tra, xử dụng phương pháp thanh tra hệ thống là chủ yếu, với phương pháp thanh tra cụ thể mang tính bổ xung cho phương pháp thanh tra hệ thống. Để làm được việc này, thanh tra viên phải hiểu rõ về chuẩn mực của các hệ thống quản lý rủi ro. Đến nay vẫn chưa có văn bản nào quy định để thanh tra viên đánh giá về quản lý rủi ro một cách hệ thống, ta có thể tìm thấy một vài khía cạnh về vấn đề này tại một số văn bản nhưng phân tán, chưa đầy đủ và chưa đạt chuẩn quốc tế.
4.2.3. Tăng cường sự phối kết hợp GSTX với TTTC:
Thực chất sự phối kết hợp giữa GSTX và TTTC đã có quy định, nhưng chưa hiệu quả do các nguyên nhân đã nói ở trên. Một khi GSTX đạt được chuẩn mực, nhất thiết phải có sự nối mạng giữa GSTX và các phòng TTTC để TTTC hàng ngày nắm được tình hình của các TCTD.
4.3 Tăng cường đào tạo lại nguồn nhân lực cho thanh tra ngân hàng
Để đạt được các mục tiêu trên vấn đề đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực là hết sức cần thiết. Thanh t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4762.doc