Đề tài Hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Singapore

Kim nghạch buôn bán hai nước năm 2000 có xu hướng tăng so với năm 1999. Theo thống kê của TCHQ Việt Nam, 6 tháng đầu năm mặc dầu kim nghạch đứng thứ hai sau Nhật Bản nhưng so cùng kỳ năm 1999 tăng 45,3% đạt 17,3 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu tăng 19,4%, nhập khẩu tăng 57% nhưng Singapore vẫn là thị trường có kim nghạch buôn bán với ta đứng thứ hai sau Nhật Bản, ước cả năm 2000 đạt trên 3 tỷ USD. Dự kiến năm 2001 cũng sẽ đạt mức như năm 2000.

Như trên đã trình bày, buôn bán với Singapore thực chất là buôn bán với hầu hết các khu vực thị trường lớn trên thế giới cho nên đây là một thị trường nhạy cảm mang đặc điểm hướng ngoại. Do vậy, những mặt hàng truyền thống của ta vào thị trường này cũng sẽ bị ảnh hưởng theo như dầu thô, gạo, cà phê, cao su .

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Hoạt động thương mại giữa Việt Nam – Singapore, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động thương mại Việt Nam-Singapore. Phần I : lý luận chung về thương mại quốc tế và chính sách thương mại quốc tế I. Lý LUậN CHUNG Về THƯƠNG MạI QuốC Tế. Từ xa xưa loài người đã ý thức được những lợi ích của hoạt động trao đổi, buôn bán giữa các nước. Nói chung, người ta sớm tìm thấy những lợi ích trên thực tế của thương mại quốc tế ra đời. Tuy vậy, các lý thuyết thương mại quốc tế chỉ thực sự xuất hiện ở đầu thế kỷ XV và được phát triển liên tục qua mấy trăm năm nay. Cũng như quá trình buôn bán được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, các lý thuyết khác nhau về thương mại quốc tế phản ánh những bậc thang vận động khác nhau về tư duy loài người è buôn bán quốc tế. 1. Theo chủ nghĩa trọng thương : Xuất phát từ “chủ nghĩa trọng thương”. Tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa trọng thương thể hiện ở quan điểm cho rằng : Mỗi nước muốn đạt được sự thịnh vượng phải gia tăng khối lượng tiền tệ. Chính là các chính phủ chứ không phải cá nhân (những người không đáng tin cậy) nên tham gia vào việc trao đổi hàng hoá giữa các nước để tăng số của cải của mỗi nước. Của cải của mỗi nước được quan niệm là số kim loại tích luỹ được, đặc biệt là vàng. Lợi nhuận buôn bán, theo chủ nghĩa trọng thương là kết quả của sự trao đổi không ngang giá và lường gạt giữa các quốc gia. Thương mại quốc tế chỉ có lợi cho một bên và gây thiệt hại cho bên kia “dân tộc này làm giàu bằng cách hy sinh lợi ích của dân tộc kia”. Nhận thức của chủ nghĩa trọng thương chứa đựng hai sai lầm cơ bản : Thứ nhất, quan niệm không đúng cho rằng chỉ có vàng (hoặc các kim loại quý) mới có giá trị thực sự trong khi trên thực tế chúng không thể sử dụng được cho cả sản xuất lẫn tiêu dùng. Thứ hai, chủ nghĩa trọng thương bỏ qua khái niệm hiệu quả sản xuất đạt được nhờ chuyên môn hoá. Chủ nghĩa trọng thương mới khắc phục một phần sai lầm thông qua việc xem xét cán cân thương mại tổng thể có lợi hay bất lợi đối với tất cả các loại hàng hoá, nghĩa là các quốc gia phải cố gắng đạt được thặng dư trong cán cân thương mại để toàn bộ quy mô hoạt động xuất khẩu vượt qua quy mô hoạt động nhập khẩu. Nhìn chung, lý thuyết trọng thương đã sớm đánh giá được tầm quan trọng của thương mại quốc tế. Nó khác với trào lưu tư tưởng kinh tế phong kiến thời bấy giờ đề cao kinh tế tự cấp tự túc. Vai trò của nhà nước với tư cách là chủ thể điều chỉnh quan hệ buôn bán của một nước với nước khác đã được coi trọng. Tuy vậy, lý luận về thương mại quốc tế này còn đôn giản, ít tính chất lý luận, thường lập luận mang tính kinh nghiệm, chưa cho phép giải thích bản chất của thương mại quốc tế. 2. Lý thuyết của Adam Smith về lợi thế tuyệt đối Bước sang giai đoạn mới đầu thế kỷ XVIII, năm 1776 trong tác phẩm “Sự giàu có của các dân tộc” Adam Smith đã rũ bỏ quan niệm coi rằng vàng đồng nghĩa với của cải và quan niệm các nước thu được lợi ích lớn nhất khi tham gia trao đổi các loại hàng hoá có thể sản xuất với hiệu quả tối đa. Điểm then chốt của lập luận này là ở chỗ các loại chi phí sản xuất sẽ là căn cứ cho biết từng nước hoặc từng bạn hàng buôn bán nên sản xuất mặt hàng gì. Theo quan niệm về lợi thế tuyệt đối, một nước chỉ sản xuất các loại hàng hoá cho phép sử dụng tốt nhất các nguồn tài nguyên của nó. Các nguồn lực đó là đội ngũ lao động có tay nghề và được đào tạo thích hợp, nguồn vốn, toàn bộ công nghệ hoặc thậm chí cả truyền thống kinh doanh. Lý thuyết này giải thích rằng tiến hành thương mại giữa các quốc gia phải đảm bảo cho họ có lợi. Nếu một quốc gia có lợi và quốc gia khác bị thiệt hại từ thương mại thì họ từ chối ngay. Ngoại thương tự do sẽ là nguyên nhân làm cho các nguồn tài nguyên của thế giới được sử dụng một cách hiệu quả nhất và phúc lợi của thế giới nói chung sẽ được tạo ra ở mức tối đa. Tuy nhiên, ở đây có một số trường hợp đặc biệt phải loại trừ như khi bảo vệ một ngành công nghiệp non trẻ. 3. Lý thuyết về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối). Quy luật về lợi thế so sánh (lợi thế tương đối) là một trong những ý tưởng vĩ đại của kinh tế học cổ điển Anh do David Ricardo đề xướng. Theo quy luật lợi thế so sánh, nếu một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với các quốc gia khác trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Nghĩa là, nếu quốc gia này tham gia vào thương mại quốc tế thì nó có thể thu được lợi ích không nhỏ. Khi tham gia thương mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá có lợi thế tương đối) và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất chúng bất lợi nhất (đó là hàng hoá không có lợi thế tương đối). Mô hình giản đơn của David Ricardo dựa trên 5 giả thiết : - Thế giới chỉ có hai quốc gia và chỉ sản xuất hai mặt hàng. Mỗi quốc gia có lợi thế về một mặt hàng. - Lao động là yếu tố sản xuất duy nhất có thể di chuyển trong mỗi nước, nhưng không di chuyển giữa các nước. - Công nghệ sản xuất ở hai nước là cố định. - Chi phí sản xuất cố định, không có chi phí vận tải. - Thương mại hoàn toàn tự do giữa hai nước. Ví dụ : Lợi thế so sánh Việt Nam Singapore Thép (kg/1 giờ công) 1 6 Vải (m/1 giờ công) 2 4 Như vậy, Singapore có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam về cả 2 loại hàng hoá. Nhưng khi năng suất lao động ở nghành thép của Singapore gấp 6 lần của Việt Nam tnì năng suất lao động ở ngành dệt của Singapore chỉ gấp 2 lần. Như vậy giữa thép và vải thì Việt Nam có lợi thế tương đối trong sản xuất vải còn Singapore có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất cả hai loại hàng hoá so với Việt Nam, nhưng chỉ có lợi thế tương đối trong sản xuất thép. Theo quy luật lợi thế tương đối thì cả hai quốc gia sẽ đều có lợi nếu Singapore chuyên môn sản xuất thép còn Việt Nam chuyên môn hoá sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi một phần thép lấy một phần vải cho nhau. II. chính sách thương mại quốc tế. 1. Khái niệm : Chính sách thương mại quốc tế là một hệ thống các nguyên tắc, công cụ và biện pháp thích hợp mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định nhằm đạt được các mục tiêu đã định trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của quốc gia đó. Mặc dù thương mại quốc tế nói chung đưa lại những lợi ích to lớn với nhiều lý do khác nhau, mỗi quốc gia có chủ quyền đều có chính sách thương mại quốc tế riêng thể hiện ý chí và mục tiêu của nhà nước đó trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế của quốc gia. Do sự phát triển không đồng đều giữa các quốc gia nên khả năng và điều kiện tham gia vào thương mại quốc tế của mỗi nước là không giống nhau, trong khi đó yêu cầu và nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội có những đặc điểm riêng đòi hỏi phải có sự hỗ trợ từ phía chính sách thương mại quốc tế. Nhiệm vụ của chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia có thể thay đổi qua mỗi thời kỳ nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, thể hiện qua hai mặt sau : Một là, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước. Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiệncho các doanh ngiệp trong nước và khả năng đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng cho yêu cầu lợi ích quốc gia. Để đáp ứng các nhiệm vụ nêu trên này, chính sách thương mại quốc tế của một quốc gia bao gồm nhiều bộ phận khác nhau và có liên quan hữu cơ với nhau, đó là : - Chính sách mặt hàng : bao gồm danh mục các mặt hàng được chú trọng trong việc xuất nhập khẩu, sao cho phù hợp với trình độ phát triển và đặc điểm của nền kinh tế đất nước cũng như các mặt hàng còn hạn chế hoặc phải cấm xuất nhập khẩu, trong một thời gian nhất định, do những đòi hỏi khách quan của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và yêu cầu của việc bảo đảm an ninh, an toàn xã hội. - Chính sách thị trường : bao gồm định hướng và các biện pháp mở rộng thị trường, xây dựng thị trường mới, xây dựng thị trường trọng điểm, các biện pháp có đi có lại giữa các quốc gia mang tính chất song phương, việc tham gia vào các hiệp định thương mại và thuế quan trong phạm vi khu vực hay toàn cầu nhằm tạo điều kiện cho hoạt động thương mại quốc tế phát triển phục vụ cho mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. - Chính sách hỗ trợ : bao gồm các chính sách và biện pháp kinh tế nhằm tác động một cách gián tiếp đến hoạt động thương mại quốc tế như : + Chính sách đầu tư. + Chính sách tín dụng. + Chính sách giá cả. + Tỷ giá hối đoái. + Chính sách đòn bẩy kinh tế. Các chính sách này có thể gây tác động thúc đẩy hay điều chỉnh sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế. 2. Công cụ của chính sách thương mại quốc tế. Để thực hiện chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia người ta có thể sử dụng nhiều công cụ và biện pháp khác nhau. Chúng có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức : - Theo tính chất có thể chia thành : + Các công cụ và biện pháp mang tính chất kinh tế. + Các công cụ và biện pháp mang tính chất hành chính. + Các công cụ và biện pháp mang tính chất kỹ thuật. - Theo mục đích có thể chia thành : + Các công cụ và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu. + Các công cụ và biện pháp hạn chế nhập khẩu. - Theo cách phân loại thông thường : + Công cụ thuế quan. + Công cụ phi thuế quan. Những công cụ thường sử dụng là : - Công cụ thuế quan : Bao gồm các biểu thuế xuất khẩu và biểu thuế nhập khẩu. - Công cụ hành chính : Bao gồm qui định về hạn ngạch (hạn chế số lượng) xuất và nhập khẩu, qui định về giấy phép ,biện pháp hạn chế xuất khẩu tự nguyện. - Các đòn bẩy kinh tế : Bao gồm các biện pháp về hỗ trợ đầu tư biện pháp tín dụng ưu đãi , biện pháp trợ giá , ký quĩ nhập khẩu , quản lý ngoại hối và tỷ giá hối đoái. - Các biện pháp kỹ thuật : Bao gồm các qui định về tiêu chuẩn kỹ thuật , tiêu chuẩn chất lượng , qui định về bao bì , qui định về mẫu mã , các tiêu chuẩn vệ sinh , bảo vệ môi trường sinh thái. Các công cụ của chính sách thương mại quốc tế tuy khác nhau nhưng sự hoạt động của chúng đều có thể gây tác động đến biến động của giá cả quốc tế đối với người tiêu dùng và người san xuất, hoặc đưa đến sự điều chỉnh cung và cầu trên thị trường về một loại hàng hoá nhất định. Phương thức và phạm vi tác đọng của các công cụ chính sách thương mại là rất khác nhau , cho nên phải tính toán một cách tỉ mỉ khi thiết kế chúng và đưa vào vận dụng trong thực tế. Phần II : THựC TRạNG THươNG MạI Quốc tế của hai nước Việt Nam - Singapore. I. Thực trạng xuất nhập khẩu Việt Nam - Singapore. Hàng hoá bán qua Singapore rất đa dạng, nhiều chủng loại nhưng phần lớn dưới dạng nguyên liệu hoặc sơ chế cho nên giá thành không cao, một số tiêu thụ tại Singapore thì đòi hỏi chất lượng rất nghiêm ngặt (đối với thực phẩm) và hoặc là những hàng gắn nhãn hiệu của các hàng nổi tiếng (đối với quần áo, giầy dép) cho nên cần có chính sách đầu tư thoả đáng vào khâu nuôi trồng, bảo quản, chế biến. Biểu 1: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Singapore Tên hàng 1999 2000 2001* Cà phê 61.193.070 49.151 tấn 65.000.000 50.000 tấn 68.000.000 52.000 tấn Cao su 30.399.315 55.681 tấn 15.000.000 20.000 tấn 15.000.000 20.000 tấn Giầy dép 9.334.255 6.000.000 7.000.000 Chè 1.590.792 1705 1.500.000 1.500 tấn 1.500.000 1.500 tấn Dầu thô 279.791.312 2.012.910 tấn 350.000.000 1.800.000 tấn 350.000.000 1.800.000 tấn Gạo 145.670.132 684.744 tấn 25.000.000 150.000 tấn 2.500.000 1.800.000 Hải sản 28.050.579 20.000.000 25.000.000 Dệt may 48.256.029 22.000.000 25.000.000 Rau quả 2.073.229 2.000.000 2.500.000 Linh kiện điện tử 5.327.251 8.000.000 9.000.000 Lạc nhân 6.129.135 11.113 tấn 3.000.000 5.000 tấn 3.000.000 5.000 tấn Thủ công mỹ nghệ 1.230.000 1.000.000 1.200.000 (Theo số liệu của tổng cục hải quan, * là số dự đoán) Nhìn vào bảng trên ta thấy : Cho đến nay khả năng cạnh tranh và thâm nhập thị trường của các mặt hàng thực phẩm, nông sản chế biến của ta vào thị trường này còn kém do yêu cầu của thị trường cao và nhà nước ta chưa có những chính sách, biện pháp cụ thể mặc dù những vấn đề đó đã nhiều lần được đề cập đến trong các cuộc họp của Uỷ ban hợp tác hai nước, đó là : 1. Muốn xuất khẩu thực phẩm vào Singapore ta phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt trên, tuy nhiên nếu triển khai được chương trình hợp tác quy hoạch nuôi trồng, chế biến nông sản với Singapore (chính phủ giao cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì) do Uỷ ban Hợp tác Việt Nam- Singapore đề ra thì sẽ có nhiều thuận lợi cho các sản phẩm được sản xuất và chế biến tại Việt Nam. 2. Ngoài chương trình hợp tác trong lĩnh vực nuôi trồng, chế biến nông sản hai nước cũng đã đề cập đến việc Singapore sẽ thành lập một hệ thống kho bảo quản, phân phối hàng hoá tại Việt Nam để từ hệ thống kho bảo quản này xuất thẳng đi các nước không phải tốn phí vận chuyển sang Singapore. Như vậy hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam sẽ luân chuyển nhanh hơn, các doanh nghiệp đỡ bị đọng vốn cho một chu trình xuất khẩu. II. Thực trạng nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore. Thực trạng nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore được thể hiện qua biểu sau : Biểu 2: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Singapore Tên hàng 1999 2000* 2001* Linh kiện xe máy CKD SKD 3.039.635 2.566 bộ 300.000 250 bộ Ôtô nguyên chiếc các loại 800.000 97 chiếc 600.000 50 chiếc 500.000 40 chiếc Phân bón 84.619.855 706.549 tấn 40.000.000 300.000 tấn 40.000.000 300.000 tấn Sắt thép 20.397.983 51.178 tấn 30.000.000 100.000 tấn 30.000.000 100.000 tấn Xăn dầu 796.432.711 5.792.795 tấn 850.000.000 4.600.000 tấn 850.000.000 4.600.000 tấn Linh kiện điện tử 157.352.807 160.000.000 180.000.000 Máy móc TB, PT 208.703.299 200.000.000 200.000.000 NPL dệt may da 9.782.621 3.500.000 4.000.000 Dược phẩm 27.964.085 18.000.000 20.000.000 (Theo số liệu của tổng cục hải quan, * là số dự đoán) Qua số liệu trên đây cho ta thấy : - Thị trường Singapore nhập khẩu từ Việt Nam những mặt hàng phục vụ tiêu dùng nội địa là chính, đây là nhóm hàng Việt Nam có thế mạnh, phải chịu nhiều quy định nhập khẩu rất nghiêm ngặt, rào cản ở đây chủ yếu là biện pháp điều tiết mang tính chất chủ quan, không phải là yếu tố kinh tế. - Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam gần giống với những nước trong ASEAN, do đó có biến động kinh tế thì Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. - Cơ cấu thị trường cuối cùng đa phần là thị trường trung gian, chưa phải là thị trường cuối cùng. Do lưu thông như vậy nên khó tiếp cận đến công nghệ nguồn, vì thế trong thời gian qua cũng như sắp tới khó có điều kiện để thay đổi công nghệ, tạo nên bước phát triển tăng trưởng GDP do công nghệ đưa lại, nó sẽ là vấn đề quan trọng trong định hướng phát triển, thay đổi cơ cấu thị trường mà các cấp quản lý điều hành phải tập trung giải quyết. III. quan hệ thương mại hai nước Việt Nam – Singapore. Kim nghạch buôn bán hai nước năm 2000 có xu hướng tăng so với năm 1999. Theo thống kê của TCHQ Việt Nam, 6 tháng đầu năm mặc dầu kim nghạch đứng thứ hai sau Nhật Bản nhưng so cùng kỳ năm 1999 tăng 45,3% đạt 17,3 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu tăng 19,4%, nhập khẩu tăng 57% nhưng Singapore vẫn là thị trường có kim nghạch buôn bán với ta đứng thứ hai sau Nhật Bản, ước cả năm 2000 đạt trên 3 tỷ USD. Dự kiến năm 2001 cũng sẽ đạt mức như năm 2000. Như trên đã trình bày, buôn bán với Singapore thực chất là buôn bán với hầu hết các khu vực thị trường lớn trên thế giới cho nên đây là một thị trường nhạy cảm mang đặc điểm hướng ngoại. Do vậy, những mặt hàng truyền thống của ta vào thị trường này cũng sẽ bị ảnh hưởng theo như dầu thô, gạo, cà phê, cao su ... Kim nghạch buôn bán giữa hai nước Việt Nam và Singapore trong năm 1999, 6 tháng năm 2000 và dự đoán như sau : 1999 6t/2000 2000* 2001* Việt Nam nhập 1.883.271.915 1.286.239.927 1,9 tỷ 1,9 tỷ Việt Nam xuất 822.098.751 443.902.347 1,1 tỷ 1.7 tỷ Tổng số 2.705.370.666 1.730.192.274 3,0 tỷ 3,1 tỷ Cán cân thương mại - 1.061.173.164 - 832.326.580 Tỷ phần thương mại 0,89 0,87 Biểu 3 (Theo số liệu của tổng cục hải quan, * là số dự đoán) Qua bảng số liệu cho ta thấy hoạt động thương mại giữa hai nước có xu hướng ngày càng tăng. Đây là một điều kiện hết sức thuận lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ thương mại nói riêng và các quan hệ khác nói chung với Singapore cũng như mở cửa và hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đang trở thành xu thế tất yếu đối với tất cả các nước trên thế giới như : Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN), mà trọng tâm là việc gia nhập vào khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á (AFTA), tham gia diễn đàn kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) và tổ chức thương mại thế giới (WTO) thu hút nguồn tài trợ và trợ giúp kỹ thuật từ NHTG (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)... IV. đánh giá chính sách xuất nhập khẩu Việt Nam - Singapore. Cũng như đối với các nước thành viên khác, AFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội mới, nhưng đồng thời cũng đặt ra nhiều thách thức to lớn cho Việt Nam, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp và kém hiệu quả sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, hầu hết các nghành công nghiệp còn non trẻ, xuất khẩu chủ yếu còn ở dạng nguyên liệu thô và thuế nhập khẩu còn là một nguồn thu quan trọng của Ngân sách. Việt Nam bắt đầu tham gia vào AFTA từ 1/1/1996 bằng việc đưa 875 mặt hàng vào thực hiện CEPT, song tất cả những mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế suất 0 – 0,5%. Mặt khác chúng ta cũng chưa đệ trình cho ASEAN danh mục các biện pháp phi thuế quan để tiến hành loại bỏ chúng, nên có thể nói trên thực tế đến nay AFTA vẫn chưa có tác động đối với Việt Nam trong quan hệ thương mại ASEAN nói chung và chính sách thương mại Việt Nam – Singapore nói riêng. Về nhập khẩu : Trong tổng kim nghạch nhập khẩu của Việt Nam đối với Singapore thì tỷ trọng lớn là máy móc và thiết bị, nguyên vật liệu dùng cho sản xuất. Do các mặt hàng này hiện đã có thuế suất dưới 5%, mặt khác, một số mặt hàng mà Việt Nam đang nhập khẩu với khối lượng khá lớn từ Singapore như : xăng dầu, xe máy... chưa được đưa vào danh mục cắt giảm thuế. Do AFTA chưa có tác động làm tăng đáng kể nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore. Tuy nhiên về lâu dài, do AFTA có tác động thay đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng chuyên môn hoá, do đó dẫn đén hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng hàng hoá ở Singapore nói riêng và các nước ASEAN nói chung, nên mặc dù các mức thuế nhập khẩu không đổi song do khả năng cạnh tranh của một số hàng hoá Singapore tại thị trường Việt Nam vẫn có thể cao hơn trước kia mà nhờ đó có thể chiếm được thị phần. Cũng về lâu dài, chắc chắn Việt Nam sẽ phải đưa thêm những mặt hàng từ danh mục loại trừ tạm thời có thuế suất cao trên 20% vào diện cắt giảm thuế và loại trừ dần các hàng rào phi thuế quan nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu. Khi đó rất có thể nhập khẩu những mặt hàng tiêu dùng từ Singapore vào Việt Nam sẽ tăng lên như những mặt hàng cùng loaị sản xuất trong nước không canh tranh lại được. Về xuất khẩu: Về lý thuyết và về lâu dài AFTA có tác động làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường Singapore nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Song trên thực tế, khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singpore trước mắt không lớn do các nguyên nhân sau: - Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam hiện nay là dầu thô ,nông lâm hải sản chưa qua chế biến hoặc mới sơ chế, dệt may dầy dép và các sản phẩm hàng thủ công mỹ nghệ, một số khoáng sản thô... - CEPT dành ưu đãi chủ yếu cho chế biến trong khi đó có hàng hoá chế biến xuất khẩu của Việt Nam chiếm phần không lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong những mặt hàng có khả năng xuất khẩu thì những mặt hàng chưa được S ingapore đưa vào danh mục cắt giảm thuế quan như : Dầu thô, nông sản... Tuy có một số mặt hàng nông sản mới được bổ sung vào thực hiện CEPT, song tỷ trọng của nó trong xuất khẩu của hàng Việt Nam lại rất nhỏ. Mặc dù 2/3 doanh số bán của Việt Nam với ASEAN là Singapore nhưng trong khi đó thuế xuất nhập khẩu của Singapore được tái xuất đi các thị trường khác. Tuy nhiên như trên đã nói , về lâu dài AFTA có tác đọng làm biến đổi cơ cấu công nghiệp ở các nước ASEAN nói chung và Singapore nói riêng. Một số nghành sử dụng nhiều lao động như dệt may, chế biến thực phẩm sẽ giảm đi trong khi đó Việt Nam lại có lợi thế phát triển các nghành này và như vậy sẽ dẫn đến khả năng Việt Nam có thể tăng xuất khẩu các sản phẩm thuộc nghành này sang thị trường Singapore. Về lâu dài, AFTA sẽ có tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trườnh Singapore do chạy được đầu vào cho sản xuất xuất khẩu từ Singapore với giá rẻ hơn. Phần iii : ý kiến và giải pháp hoạt động thương mại việt nam - singapore 1. ý kiến: Trong quá trình đổi mới nền kinh tế của Việt Nam bằng các chính sách đối nội và đối ngoại khác nhau đã làm cho nền kinh tế từng bước tăng trưởng và phát triển trong đó chiến lược hướng vào xuất nhập khẩu và nội dung chính trong chính sách mở cửa. Hoạt động thương mại quốc tế giữa Việt Nam và Singapore đã góp phần lớn cho Việt Nam tiến hành công cuộc xây dựng và phát triển đất nước . Singapore là một trong ‘‘ Bốn con rồng Châu á’’ , vừa là thành viên của nhóm các nước NICS Châu á, vừa là thành viên tích cực của hiệp hội ASEAN .Trên thực tế Singapore là thành viên của ASEAN có quan hệ rất sớm với Việt Nam kể từ sau năm 1973 và là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam kể từ sau 1975 và là bạn hàng lớn nhất của Việt Nam thay thế vị trí Liên Xô kể từ sau năm 1991. Lý do chủ yếu : Singapore có một nền kinh tế hướng tới xuất khẩu , có tiềm lực công nghiệp vào nhóm các nước tiên tiến Châu á. Nhưng lại thiếu tài nguyên lao động trở nên quá đắt. Đặt quan hệ với Việt Nam, Singapore tiến tới việc tìm kiếm cho họ một thị trường có dung lượng lớn để xuất khẩu hàng công nghiệp , nhập khẩu nguyên liệu , thực hiện chuyển dịch các nghành sản xuất, dùng nhiều lao động thông qua đầu tư...Do đó, những năm gần đây Singapore đã có một chiến lược cụ thể thâm nhập thị trường. Chưa có một nước nào ngoài đội ngũ các nhà doanh nghiệp đông đảo trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, các quan chức chính phủ đã liên tục sang thăm Việt Nam và từng bước thực hiện sự cởi mở các trở ngại trong quan hệ đầu tư và thương mại giữa hai nước. Để thúc đẩy hơn nữa buôn bán với Việt Nam, vào đầu năm 1992, chính phủ Singapore đã xoá bỏ mọi cấm đoán đầu tư vào nền kinh tế Việt Nam. Vào cuối tháng 4 năm 1992, giữa hai nước đã ký hiệp định về nghành vận tải biển và thống nhất những qui chế có lợi cho mỗi nước trong việc sử dụng hải cảng của nhau để phát triển thương mại. Với tư cách là thương cảng quốc tế quan trọng, Singapore mở rộng các ưu đãi với Việt Nam, là điều kiện quan trọng nhất cho Việt Nam trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới. Những chuyển động này đã thúc đẩy quan hệ ngoại thương giữa hai nước một cách nhanh chóng, là nước đứng đầu về khối lượng buôn bán của các nước ASEAN với Việt Nam. Mặc dù Việt Nam đạt được thành công rất lớn nhưng cũng không tránh khỏi những thiếu sót, yếu kém đã diễn ra trong quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Singapore. 2. giải pháp: Đề xuất chính sách, biện pháp thâm nhập thị trường cho các mặt hàng nông sản và thực phẩm chế biến . Vì mặt hàng thực phẩm, chính phủ Singapore có qui định chung về chất lượng thực phẩm nhãn hiệu, bao bì thương phẩm hàng thực phẩm nhập khẩu và tiêu dùng ở Singapore nên khi xuất khẩu thực phẩm sang thị trường này cần chú ý. Singapore ban hành một đạo luật riêng về hàng thực phẩm (The sale of food act) nhằm quản lý và bảo đảm chất lượng về vệ sinh hàng thực phẩm nhập khẩu và tiêu dùng tại Singapore. Cho đến nay Singapore vẫn là nước không có các bệnh dịch lớn phát sinh từ thực phẩm do các loại thịt, rau quả, trứng và cá nhập khẩu gây ra. Nhằm đảm bảo nguồn cung cấp liên tục và an toàn về thực phẩm cho người tiêu dùng, chính phủ Singapore đã áp dụng chiến lược 3 nội dung chính : Một là : Đảm bảo tiêu chuẩn an toàn cao về thực phẩm thông qua hệ thống tổng hợp về cấp giấy phép, kiểm nghiệm và giám định. Hai là: Đa dạng hoá nguồn cung cấp nông phẩm từ bên ngoài Ba là : Tăng khả năng tự cung cấp nông phẩm thông qua việc phát triển hệ thống nông trại hiện đại và toàn diện. Để đảm bảo tiêu chuẩn an toàn về thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, thực phẩm nhập khẩu được kiểm nghiệm một cách có hệ thống, loại bỏ các nguồn bệnh ngay từ nguồn cung cấp trước khi đưa vào hệ thống phân phối trong nước. Ta nên hợp tác với Singapore và mời các cơ quan thẩm quyền của Singapore vào để : - Đánh giá hệ thống và thực tiễn sản xuất ở nơi sản xuất. - Kiểm nghiệm và cấp giấy phép cho các nhà sản xuất nông phẩm và cơ sở chế biến. - Gắn nhãn cho từng lô hàng nông phẩm nhập khẩu nhằm truy nguyên nguồn gốc. - Kiểm tra chất lượng sản phẩm tại cửa khẩu nhập khẩu nông phẩ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc79170.DOC
Tài liệu liên quan