Lời mở đầu
Nội dung
I./ KHÁI LUẬN CHUNG
1- Quá trình ra đời,vai trò và chức năng của ngân hàng thương mại
1.1- Quá trình ra đời của ngân hàng thương mại
1.2- Chức năng của ngân hàng thương mại
1.3- Vai trò của ngân hàng thương
2- Ngân hàng thương mại Việt Nam
II./ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1- Tình hình hoạt động
2- Các thành tựu của hoạt động tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam
3- Những khó khăn và tồn tại - nguyên nhân và giải pháp
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
Mục lục
25 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1191 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc thanh toán qua ngân hàng càng được mở rộng. Ngân hàng thực hiện chức năng này trên cơ sở chức năng trung gian tín dụng, bởi vì thông qua việc nhận tiền gửi, ngân hàng đã mở cho khách hàng tài khoản tiền gửi để theo dõi các khoản thu, chi. Sở dĩ các cá nhân, tổ chức muốn ngân hàng thực hiện những công việc này cho họ là vì việc thanh toán trực tiếp bằng tiền mặt giữa các chủ thể kinh tế có nhiều hạn chế như rủi ro do vận chuyển tiền, chi phí thanh toán lớn.. .. Đặc biệt đối với những khách hàng ở xa thì nhu cầu nhờ ngân hàng thanh toán hộ càng cao.
Với chức năng này, ngân hàng thương mại sẽ cung cấp cho khách hàng những công cụ thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ tín dụng.. .. Nhờ thế các chủ thể kinh tế tiết kiệm được rất nhiều chi phí lao động, thời gian lại đảm bảo được thanh toán an toàn. Do đó, chức năng này thúc đẩy lưu thông hàng hoá, đẩy nhanh tốc độ thanh toán và tốc độ lưu chuyển vốn, góp phần tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, việc thanh toán qua hệ thống ngân hàng không dùng tiền mặt đã làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông và tiết kiệm chi phí khác như in ấn, đếm nhận.. .. Đối với các ngân hàng thương mại, chức năng này góp phần tăng thêm lợi nhuận cho ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán đồng thời làm tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của ngân hàng thương mại.
c.Chức năng tạo tiền.
Chức năng này được thực hiện dựa trên nguyên tắc nếu các ngân hàng thực hiện việc cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản thì hệ thống ngân hàng sẽ tạo ra một lượng tiền gửi mới làm cho tổng cung ứng tiền của nền kinh tế tăng lên.
Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay. Khách hàng sử dụng số tiền cho vay để mua hàng hoá, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của họ vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch. Để thực hiện chức năng này, ngân hàng thương mại phải làm được chức năng trung gian thanh toán, mở tài khoản tiền gửi thanh toán cho khách hàng thì số tiền trên tài khoản này mới coi là một bộ phận của lượng tiền giao dịch.
Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại không thể tạo tiền một cách tuỳ ý, mà thực tế, khả năng tạo tiền còn bị giới hạn bởi tỉ lệ dự trữ dư thừa và tỉ lệ rút tiền của công chúng so voứi lượng tiền gửi thanh toán.
Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả xã hội. Chức năng nàycũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay làm tăng khả năng tạo tiền của nó, từ đó lượng tiền cung ứng cũng tăng thêm.
* Mối quan hệ giữa các chức năng.
Các chức năng có quan hệ chặt chẽ, bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Trong đó, chức năng trung gian tín dụng là cơ bản nhất, tạo cơ sở cho việc thực hiện các chức năng sau. Đồng thời, khi ngân hàng thực hiện tốt chức năng trung gian thanh toán và chức năng tạo tiền lại góp phần làm tăng nguồn vốn tín dụng, mở rộng hoạt động tín dụng.
1.3- Vai trò của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại có đối tượng đầu tư rộng rãi và có vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Trước hết, ngân hàng thương mại với ba chức năng là công cụ quan trọng thúc đẩy sự phát triển của sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá. Nhờ có chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng đã huy động dược số vốn nhàn rỗi trong xã hội đem cho vay dưới các hình thức khác nhau, đáp ứng nhu cầu vốn trong xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Các ngân hàng thương mại đã thực sự huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá. Còn chức năng trung gian thanh toán giúp cho ngân hàng thực hiện việc thanh toán giữa các chủ thể trong nền kinh tế một cách nhanh chóng, tiết kiệm. Đồng thời ngân hàng cũng giám sát được các hoạt động kinh tế góp phần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, tiến bộ, tạo sự ổn định trong đời sống kinh tế xã hội. Với chức năng tạo tiền, ngân hàng thương mại là công cụ thực hiện chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung Ương. Ngân hàng thương mại tạo ra khối lượng phương tiện thanh toán rất lớn cho nền kinh tế. Các công cụ của chính sách tiền tệ được thực hiện có hiệu quả với sự hợp tác tích cực của các ngân hàng thương mại thông qua việc chấp hành quy định dự trữ bắt buộc, quy chế thanh toán không dùng tiền mặt và việc tăng cường hiệu quả cho vay và đầu tư.
Tuy các ngân hàng thương mại đều có chức năng và vai trò như nhau nhưng ở mỗi nơi, hoạt động của ngân hàng thương mại lại có các hình thức khác nhau. Vậy ở Việt Nam, ngân hàng thương mại hoạt động như thế nào?
2- Ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trước đây, do đất nước bị đô hộ nên nền kinh tế nước ta bị kìm kẹp trăm bề. Ngân hàng Đông Dương được xây dựng để phục vụ cho lợi ích của quân Pháp xâm lược. Vì thế, đại đa số nhân dân không thể trông chờ gì ở các chính sách của ngân hàng mà ngược lại, việc phát hành tiền tuỳ tiện lại càng gây khó khăn cho người dân.
Từ năm 1947, hệ thống tín dụng của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà bắt đầu được xây dựng và đi vào hoạt động. Nhiệm vụ đầu tiên của nó là góp vốn cho nhân dân phát triển sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, làm giảm tình trạng cho vay nặng lãi... Vốn hoạt động dựa vào ngân sách Nhà nước.
Năm 1951, chính phủ ra sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam nhằm thực hiện chức năng quản lí Nhà nước về tiền tệ, tín dụng, ngoại hối... Đây là ngân hàng đầu tiên thực sự là của nhân dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Ngân hàng quốc gia Việt Nam được tổ chức theo quy mô lớn, quản lý hoạt động kinh doanh theo nguyên tắc tập trung thống nhất, giữ vị trí trụ cột trong hệ thống tiền tệ, tín dụng của nước ta. Ngân hàng quốc gia Việt Nam đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh. Hoạt động của ngân hàng đã góp phần đáng kể trong xây dựng, củng cố và hoàn thiện hệ thống tiền tệ, tín dụng, thích ứng với yêu cầu của từng thời kì phát triển, phát huy vai trò là công cụ có hiệu lực của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế.
Tiếp theo sự ra đời của Ngân hàng quốc gia là sự ra đời của hàng loạt ngân hàng mới dưới sự kiểm soát của nó. Những ngân hàng này hoạt động dựa trên ba chức năng của ngân hàng thương mại, thực hiện những nhiệm vụ dưới sự chỉ đạo của Ngân hàng quốc gia góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng thương mại từ lúc ra đời đến nay đã đóng vai trò vô cùng quan trọng trong nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại Việt Nam với nhiều hoạt động đa dạng, phong phú đã đóng góp ngày càng nhiều vào nền kinh tế, giúp cho kinh tế đất nước có nhiều bước tiến đáng kể. Trong đó, điển hình phải kể đến hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Đây là một hoạt động phức tạp, đòi hỏi phải được thường xuyên cập nhật theo những chuyển biến của môi trường kinh tế. Nhưng nếu thực hiện tốt, hoạt động này sẽ đem lại lợi ích rất lớn cho nền kinh tế đất nước. Ngân hàng thương mại Việt Nam với hoạt động tín dụng của nó trong thời gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, song cũng không thể trành khỏi những khó khăn, hạn chế cần khắc phục. Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải đánh giá một cách đúng đắn những mặt tốt để phát huy và những điểm yếu để tìm ra phương hướng sửa chữa. Có thế mới giúp được cho hoạt động tín dụng phát triển đầy đủ lợi ích của nó, góp phần ngày càng nâng cao chất lượng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế nước ta.
II- Thực trạng hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam.
1- Tình hình hoạt động.
Từ khi thành lập, ngân hàng nhà nước đã thực hiện chức năng cải tiến và mở rộng tín dụng bằng cách thực hiện cho vay vốn lưu động và vay vốn đầu tư xây dựng cơ bản, tổ chức mở rộng cho vay. Ngoài ra, ngân hàng còn tiến hành cho vay tiền cũ, phát hành tiền mới nhằm thống nhất hệ thống tiền tệ trong cả nước, thúc đẩy kế hoạch hoá tổ chức sản xuất, phân công mới lao động xã hội.
Mới đầu, trong hệ thống ngân hàng thương mại chỉ có ngân hàng đầu tư và xây dựng được cho vay dài hạn. Các ngân hàng khác chủ yếu là cho vay ngắn hạn để phụ vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nguyên tắc có hiệu quả và phải được hoàn trả là đảm bảo cho việc kinh doanh của ngân hàng và có tác động tích cực đến việc củng cố hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa của các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian dài các ngân hàng thương mại không cho vay dài hạn bởi vì thiếu các công cụ để quản lý rủi ro nảy sinh. Không những thế, cho vay dài hạn còn dẫn đến tình trạng thiếu nguồn vốn lâu dài và khó huy động vốn.
Để thực hiện các nghiệp vụ dài hạn, ngân hàng thương mại để cho các tổ chức chuyên ngành như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... được tự do hoạt động với các nguồn vốn vay chủ yếu qua phát hành trái phiếu và tài trợ cho đầu tư qua huy động tiết kiệm gián tiếp. Các ngân hàng này có những nhiệm vụ khác nhau nhưng chủ yếu là củng cố và phát triển các ngàng kinh tế, từ công nghiệp đến nông nghiệp. Từ lúc ra đời, các ngân hàng này đã hoạt động hết sức tích cực, thực hiện cho vay vốn đối với các cá nhân, tổ chức trên toàn quốc. Đồng thời, nó cũng thực hiện đúng các chủ trương, chính sách cho Nhà nước và luôn hoạt động dưới sự kiểm soát, quản lý của Nhà nước và của Ngân hàng Trung Ương.
Nhu cầu tài trợ cho đầu tư nếu không được sự trợ giúp của hệ thống ngân hàng thì sẽ không thể nào thoả mãn được. Vì vậy, các ngân hàng thương mại luôn cố gắng tìm các thể thức phù hợp và không ngừng mở rộng các khoản cho vay trung hạn và dài hạn để tiếp tục đổi mới hoạt động tín dụng của mình.
Cho đến hết năm 1994, một loạt thị trường mới ra đời hoạt động qua hệ thống ngân hàng thương mại dưới sự quản lý của Nhà nước và tạo ra công cụ gián tiếp giúp ngân hàng Nhà nước điều hành chính sách tiền tệ theo tín hiệu thị trường. Đó là những thị trường như thị trường tiền gửi, thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ liên ngân hàng.. .. Từ đó đến nay, nhiều hình thức huy động vốn mới được áp dụng để tạo ra nguồn vốn trung hoặc dài hạn như phát hành trái phiếu ngân hàng thương mại, phát triển việc thanh toán thông qua hệ thống ngân hàng... làm cho hoạt động tín dụng tăng cả về số lượng và loại hình. Khối lượng tín dụng của hệ thống thương mại hiện nay đã tăng gấp 4-5 lần so với những năm đầu đổi mới, đáp ứng một nguồn vốn lớn cho sự tăng trưởng kinh tế. Các ngân hàng thương mại không chỉ cho vay mà còn mở nhiều dịch vụ khác để phục vụ khách hàng như thuê mua, chiết khấu thương phiếu, tư vấn đầu tư.. ..
Chiết khấu thương phiếu giữ một vị trí then chốt trong các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Ngân hàng ứng trước trị giá của một thương phiếu chưa đến hạn và đổi lại, ngân hàng nắm quyền sở hữu thương phiếu đó. Ngân hàng được trả lại khoản đã ứng trước đây bằng cách truy đòi khi thương phiếu đến hạn. Đầu năm 2000, pháp lệnh thương phiếu được ban hành. Tuy nhiên, pháp lệnh này chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện nên tính chất của chiết khấu thương phiếu vẫn chưa được sử dụng có hiệu quả.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại thường xuyên được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh, quản lý và luôn hướng cho hệ thống này ngày càng phát triển hơn nữa để hội nhập vào thị trường ngân hàng quốc tế, mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại. Hệ thống ngân hàng thương mại đã được ngân hàng nhà nước đầu tư và xây dựng, tạo lập cơ sở vật chất, kĩ thuật tiên tiến và hiện đại, nhằm hiện đại hoá hệ thống ngân hàng thương mại. Kết quả, năm 1993, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã được trang bị những thành tựu của khoa học kĩ thuật. Hệ thống máy vi tính hiện đại đã lần lượt được đưa vào sử dụng trong ngân hàng để thu thập, xử lý, khai thác, truyền dẫn, lưu trữ thông tin, dữ liệu. Nhiều phần mềm ứng dụng do các ngân hàng tự thiết lập đã được sử dụng có hiệu quả. Nhờ có sự thay đổi to lớn này mà hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại ngày càng phát triển mang lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Sự thay đổi trong hoạt động tín dụng thể hiện ở:
Hệ thống thanh toán chuyển tiền điện tử trong cả nước và thanh toán bù trừ qua máy vi tính giúp cho việc lưu thông tiền mặt được hạn chế. Nhờ vậy bảo đảm được an toàn khi vận chuyển, tiết kiệm chi phí giao dịch và đặc biệt là duy trì được nguồn vốn lớn để cho vay.
áp dụng công nghệ mới trong thanh toán, nhất là việc áp dụng các loại thẻ tín dụng quốc tế như Master Card, Visa. JCB.. .. với doanh số gần 100 triệu USD mỗi năm.
Hệ thống vi tính trong thị trường liên ngân hàng, thị trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường mua bán ngoại tệ đã xử lý kịp thời các giao dịch kinh doanh trên các lĩnh vực này.
Việc mở rộng dịch vụ ngân hàng trong dân cư, đặc biệt là công tác thanh toán không dùng tiền mặt thông qua các công cụ: ngân phiếu thanh toán, séc cá nhân, thẻ tín dụng.. .. đã được thực hiện ngày càng có hiệu quả. Cuối năm 1995 đã có hơn 30000 tài khoản các nhân được mở tại các ngân hàng và kho bạc, tăng tổng số dư lên tới trên 700 tỷ VNĐ, doanh số thanh toán qua tài khoản cá nhân lên tới hàng nghìn tỷ VNĐ.
Song song với việc cải tạo và nâng cấp cơ sở vật chất, ngân hàng thương mại còn đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác tín dụng nhằm trang bị cho họ những kiến thức phù hợp, giúp họ cập nhật được những thông tin về nghiệp vụ. Đồng thời, hàng ngàn người còn được cử đi học tập, bồi dưỡng ở nước ngoài, đi khảo sát ở các ngân hàng trên thế giới về hoạt động tín dụng. Công việc này góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển mạnh cả về phạm vi lẫn quy mô. Ngân hàng thương mại không ngừng cung cấp các dịch vụ mới làm cho hoạt động tín dụng trở nên phong phú đáp ứng nhu cầu của đông đảo dân chúng. Ngân hàng một mặt đưa ra nhiều loại hình tiết kiệm mới với các mức lãi suất và kì hạn khác nhau với mục đích thu hút những nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân cư, huy động vốn cho sản xuất kinh doanh. Mặt khác, sử dụng số vốn huy động được đem đầu tư cho các doanh nghiệp, hộ gia đình... làm kinh tế, phát triển sản xuất. Từ việc bị động, trông chờ vào sự tự giác của dan chúng, ngân hàng thương mại đã chủ động tìm đến những người thừa vốn và người thiếu vốn nhằm đem lại nguồn lợi ích cho chính những người này. Hoạt động tín dụng được phát triển rộng rãi khắp các vúng trong cả nước, từ thành thị đến nông thôn, đến cả những vùng miền núi xa xôi, ở đâu cán bộ tín dụng cũng có mặt. Do quán triệt các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, các chủ trương của Chính phủ về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn, vùng sâu vùng xa, hệ thống ngân hàng đã đầu tư hàng chục tỷ đồng vào lĩnh vực này. Bên cạnh đó, ngân hàng còn cho vay phục cụ các đối tượng chính sách và chương trình phát triễn kinh tế của Chính phủ đã mang laị hiệu quả rõ rệt về mặt xã hội,thông qua các chương trình như: cho vay khắc phục hậu quả cơn bão số 5, cho vay tôn nền và làm sàn nhà trên cọc, chương trình một triệu tấn đường, chương trình đánh bắt cá xa bờ…
Chất lượng tín dụng được nâng cao tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế đều có thể vay vốn để sản xuất, kinh doanh bằng nhiều cách. Ngân hàng thương mại có thể cho vay bằng nhiều hình thức như vay thế chấp, vay vốn có bảo lãnh… Nhờ đó mà mọi người dân, đặc biệt là những người nghèo đều có thể vay vốn để sản xuất, phát triển kinh tế.
Hoạt động tín dụng mở rộng đòi hỏi phải nắm được các thông tin tín dụng nhằm đảm bảo an toàn cho ngân hàng khi cho vay. Theo quy chế hoạt động thông tin tín dụng trong ngành ngân hàng do thống đốc ban hành tại quyết định số 415/1999/QD NHNH23 ngày 18/11/1999 thì các tổ chức tín dụng nhất thiết phải thu thập mọi thông tin co liên quan đến khách hàng để cung cấp cho trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước (CIC) một cách chính xác, đầy đủ. Việc này giúp cho ngân hàng quyết định có nên cho vay hay không, vay nhiều hay ít, thời gian bao lâu… đồng thời đảm bảo cho hoạt động tín dụng được phát huy một cách có hiệu quả nhất .
Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam dần dần đã lập được quan hệ với rất nhiều tổ chức trên thế giới . Nhờ những mối quan hệ này mà càng học hỏi được nhiều kinh nghiệm trong các lĩnh vực, đặc biệt là trong hoạt động tín dụng. Đầu tư từ nước ngoài ngày càng nhiều, việc này làm nguồn vốn tăng lên rõ rệt, giúp cho ngân hàng thương mại có thể cho vay nhiều hơn để đổi mới nền kinh tế.
2- Các thành tựu của hoạt động tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.
Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ sự đóng góp không ngừng của hàng ngàn cán bộ công nhân viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước, ngân hàng Trung ương và hệ thống ngân hàng thương mại, hoạt động tín dụng đã thu được nhiều thành tựu đáng kể.
Một là: Đẩy mạnh huy động vốn và cho vay phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát huy nội lực, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài, giải phóng sức sản xuất, khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển trong đó nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Góp phần tích cực vào công cuộc xoá đói giảm nghèo, từng bước thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Hai là: Từng bước hoàn thiện tín dụng ngân hàng. Tạo ra những chuyển biến tích cực và củng cố lòng tin của nhân dân vào ngân hàng. Đưa ra nhiều vụ mới, mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế trong xã hội sản xuất kinh doanh hoặc đầu tư sinh lợi.
Ba là: Ngành ngân hàng đã đưa công nghệ ngân hàng phát triển với tốc độ nhanh chóng, nhiều ứng dụng công nghệ tiên tiến được áp dụng như nối mạng thanh toán toàn cầu SWIFT, phát hành thể nhựa (tiền điện tử) Vietcombank, từ làm đại lý cho các tổ chức thẻ tín dụng Master, Visa, American, JCB đến phát hành thẻ Master và Visa, đưa máy rút tiền tự động ATM phục vụ khách hàng sử dụng thẻ tín dụng ở Vietcombank, tổ chức tốt hoạt động kinh doanh chuyển đổi - một loại hình kinh doanh mới ở Việt Nam.
Trong điều hành vốn, hệ thống ngân hàng thương mại đã tập trung chủ yếu cho sự nghiệp xuất nhập khẩu của đất nước, đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các ngành hàng quan trọng và các tổ chức kinh tế then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với nhiều hình thức mới, biết sử dụng lợi thế của ngân hàng trong việc điêu hành vốn cả nội tệ và ngoại tệ, tín dụng bảo lãnh, sử dụng công nghệ ngân hàng tiên tiến để đáp ứng vốn, bảo đảm an toàn vốn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án quốc gia về cơ sở hạ tầng như viễn thông, hàng không, xi măng, vật liệu xây dựng, dệt may, da giày, sản xuất , chế biến, thu mua xuất khẩu hàng nông, lâm, hải sản như càphê, hạt điều, cao su, cá, tôm, mực,…
Từ năm 1990 đến nay, trong nền kinh tế thị trường đầy thử thách và khắc nghiệt, hệ thống ngân hàng đã tạo ra không khí cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng trong nước và đã thu được những kết quả cơ bản như đã nói ở trên. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam cho đến nay đã có nhiều loại hình đã và đang phát triển và cũng đã được pháp luật thừa nhận, khẳng định vị trí của nó. Cụ thể là có 6 Ngân hàng Quốc doanh, 43 Ngân hàng thương mại cổ phần (trong đó có 25 NHTMCP Đô thị và 18 NHTMCP Nông thôn), 4 ngân hàng liên doanh, 25 chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Điều này chứng tỏ sự phát triển lớn mạnh và rộng khắp của ngân hàng thương mại Việt Nam so với các tổ chức tài chính khác. Đồng thời, hoạt động tín dụng của nó ngày càng phát huy được những lợi ích vốn có.
3- Những khó khăn và tồn tại - nguyên nhân và giải pháp.
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, hoạt động tín dụng của ngành thương mại vẫn còn tồn tại nhiều thiếu sót cần phải sửa chữa, nhiều khó khăn cần phải khắc phục.
3.1- Chưa có sự ăn khớp giữa Cung - Cầu vốn.
Trong khi tại một số ngân hàng đang có hiện tượng thừa vốn thì nhiều doanh nghiệp và cá nhân ở mọi thành phần kinh tế trong xã hội lại rơi và tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Nguyên nhân của thực trạng này là:
- Do người dân chưa thực sự tin tưởng ở ngân hàng. Họ không dám gửi tiền của mình với thời gian dài mà chỉ có thói quen gửi tiền có định kỳ với lãi suất cao và thời hạn ngắn (thường là dưới 1 năm). Trong khi đó, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh lại có nhu cầu rất lớn về vốn trung và dài hạn. Vì vậy, tại các ngân hàng xảy ra tình trạng thừa vốn ngắn hạn, thiếu vốn trung và dài hạn.
- Chi phí đầu vào của tín dụng cao với mục đích thu hút những người thừa vốn nhưng lại làm cho giá đầu ra của tin dụng cao.Việc này gây khó khăn cho những người đi vay.
- Thủ tục vay vốn quá rườm rà ,mất nhiều thời,đôi khi có thẻ làm lỡ cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.Vì thế, họ sẽ tìm đến những nguồn vay khác với thủ tục đơn giản hơn,nhanh chóng hơn như các ngân hàng nước ngoài chẳng hạn.
- Mặc dù những năm gần đây ,ngân hàng thương mại đã liên tục giảm lãi suất cho vay nhưng nhiều khi do chính khả năng của bản thân khách hàng như về tài sản thế chấp, năng lực kinh doanh…mà khách hàng lại không thể vay được vốn.
Những nguyên nhân trên đã gây nên sự ách tắc trong cung cầu vốn tín dụng. Vấn đề này cần được khắc phục bởi một số giải pháp sau:
- Phát triển việc thanh toán qua ngân hàng. Có nghĩa là sẽ hạn chế được lưu thông tiền mặt, duy trì được nguồn vốn lớn để cho vay.
- Thúc đẩy thị trường chính khoán phát triển, phát hàng trái phiếu ngân hàng thương mại .Đó là những hình thức huy động nguồn vốn trung và dài hạn rất hữu hiệu.
- Tạo lòng tin cho dân chúng ở ngân hàng bằng cách tuyên truyền, quảng cáo những hiệu quả của hoạt động ngân hàng .Đưa ra nhiều dịch vụ mới hấp dẫn người dân đầu tư tiền của mình.
3.2- Vấn đề vay nợ.
Trong quá trình đi vay để sản xuất kinh doanh, không phải doanh nghiệp nào cũng có năng lực sản xuất kinh doanh tốt để đảm bảo cho nguồn vốn đi vay được bảo tồn và phát triển. Trên thực tế, nhiều trường hợp các doanh nghiệp, cá nhân vay vốn đã gặp phải những rủi ro và lâm vào tình trạng nợ quá hạn.
Nợ quá hạn xảy ra khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình cho ngân hàng đúng hẹn. Việc này gây khó khăn cho ngân hàng. Bởi vì khi huy động vốn, ngân hàng có trách nhiệm trả cả gốc lẫn lãi đầy đủ, đúng hẹn. Tuy nhiên, ngân hàng chỉ có thể sử dụng khoảng 70% vốn huy động, 30% còn lại không sinh lợi do phải dùng để ký quỹ dự trữ bắt buộc và dữ trữ bảo đảm khả năng thanh toán. Do vậy, nếu vốn cho vay không được thu lại đầy đủ và đúng hẹn thì hoạt động ngân hàng tất yếu sẽ gặp khó khăn chồng chất, dễ dẫn đến đổ vỡ, hậu quả là sự ảnh hưởng dây chuyền trong hệ thống tài chính - tiền tệ nói riêng và nền kinh tế nói chung. Muốn khắc phục được tình trạng này, ta phải tìm hiểu nguyên nhân của nó trước đã.
* Về phía người đi vay.
- Do gặp phải những rủi ro không lường trước được trong kinh doanh.
- Do trình độ, khả năng sử dụng vốn vay còn nhiều hạn chế, sử dụng vốn sai mục đích, không đảm bảo an toàn cho nguồn vốn, không tận dụng vốn một cách tối đa… những việc làm này gây lãng phí thậm chí còn có thể gây mất vốn.
- Do cố tình, việc làm này phụ thuộc vào tư cách, đạo đức của người đi vay.
* Về phía ngân hàng.
- Thiếu một chính sách cho vay rõ ràng, chặt chẽ. Đã có chính sách cho vay nhưng vẫn còn nhiều thiếu sót, lỏng lẻo, chưa phù hợp với thực trạng nền kinh tế.
- Do ngân hàng mải chạy theo số lượng dự án đầu tư mà xem nhẹ chất lượng.
- Do chủ quan, tin tưởng vào khách hàng hoặc vào tài sản thế chấp.
* Các nguyên nhân khác.
- ảnh hưởng của các yếu tố tự nhiên như bão lụt, hạn hán…gây tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của người đi vay.
- Sự thay đổi về các chính sách, cơ cấu của nhà nước làm cho nhiều doanh nghiệp không chuyển hướng kịp, không giải phóng được vốn.
Các biện pháp khắc phục
* Với nợ quá hạn thông thường
- Ngân hàng chủ trương cho phép gia hạn nợ những người đi vay sẽ phải chịu lãi suất gia hạn.
- Có thể khai thác tiếp tục ở các doanh nghiệp bằng cách tiếp vốn để họ duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của mình hoặc dùng biện pháp đảo nợ.
- Chuyển khoản tiền cho vay thành vốn cổ phần trong doanh nghiệp.
- Cho phép công ty mạnh mua lại công ty yếu. Bằng hình thức này, công ty mạnh sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm về tài chính cho công ty yếu.
* Với những khoản nợ khó đòi
- Ngân hàng thuyết phục khách hàng tự bán tài sản thế chấp, cầm cố để trả nợ. Nếu không, ngân hàng có quyền thu hồi tài sản thế chấp để tự bán hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền bán đấu giá tài sản thế chấp đó.
- Bán nợ cho doanh nghiệp nào có khả năng để doanh nghiệp đó đầu tư tái sản xuất.
- Thành lập quỹ dự phòng rủi ro trong ngân hàng nhằm bảo vệ giá trị của ngân hàng ở một mức độ rui ro hợp lý.
* Quan trọng nhất là việc thành lập mô hình quản lý rủi ro trong ngân hàng để dự báo và phòng ngừa rủi ro có thể xảy ra và xử lý nó khi nó xẩy ra.
3.3- Còn nhiều hạn chế trong các văn bản pháp luật
Các quy định pháp lý đề cập tương đối đầy đủ về việc cho vay. Sự đổi mới này đã góp phần tăng trưởng tín dụng, tăng tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn trong khi nợ quá hạn lại có xu hướng giảm. Tuy nhiên, mặc dù đã có khá nhiều văn bản đề cập đến cơ chế cho vay nhưng các văn bản này vẫn chưa phản ánh đúng đắn đòi hỏi của thực tiễn, các quy định, quy chế trong v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0855.doc