MỤC LỤC
Lời mở đầu . . . . 5
I. Hoạt động tín dụng của NHTW . . . 6
1. Nguyên tắc trong hoạt động tín dụng của NHTW . . 6
2. Mục ích hoạt động tín dụng của NHTW: . . 6
3. Các hoạt động tín dụng của NHTW . . . 7
3.1. Tái cấp vốn . . . 7
3.2. Chiết khấu và tái chiết khấu chứng từ có giá. . 8
3.3. Cho vay thanh toán: . . . 12
3.4. Bảo lãnh cho các ngân hàng thương mại . . 13
3.5. Tạm ứng cho ngân sách . . . 14
II. Lý luận về mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của NHTW
với tăng trưởng kinh tế . . . 14
1. Tăng trưởng kinh tế và các yếu tố của tăng trưởng kinh tế . 14
2. Nội dung mối quan hệ tăng trưởng kinh tế với hoạt động tín dụng
của ngân hàng trung ương . . . 15
III. Thực tiễn về mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của NHTW
với lý thuyết tăng trưởng: . . . 17
1. Hoạt động tín dụng của NHTW trước đổi mới 1986- cái nhìn tổng quan
về vai trò đối với tăng trưởng kinh tế: . . 18
2. Hoạt động tín dụng của NHTW- 20 năm đổi mới cùng đất nước 1986- 2006 . 18
3. Hoạt động tín dụng của NHTW thời kỳ hậu WTO, trước khủng hoảng kinh tế
toàn cầu 2008 . . . 20
4. Hoạt động tín dụng NHTW trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế
hậu khủng hoảng 2008 . . . 21
IV. Các nhóm giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường tính hiệu quả
của hoạt đông tín dụng NHTW đối với tăng trưởng kinh tế . . 29
1. Các nhóm giải pháp . . . 29
2. Một số kiến nghị nhằm tăng cường tính hiệu quả của hoạt đông tín dụng
của NHTW đối với tăng trưởng kinh tế . . 30
Kết luận . . . . 33
Danh mục tài liệu tham khảo . . . 34
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4003 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương và mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế - lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách hiện
hành, hoặc hoàn trả vào năm kế tiếp với thời hạn không quá một năm.
Cho ngân sách nhà nước vay: bằng cách mua trái phiếu chính phủ có thời hạn
và có lãi suất.
II. Lý luận về mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của Ngân hàng Trung
Ương với tăng trưởng kinh tế:
Trước khi đi vào tìm hiểu nội dung của mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng
của NHTW với tăng trưởng kinh tế, chúng tôi sẽ tóm lược một vài điều về tăng
trưởng kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
1. Tăng trưởng kinh tế và các yếu tố của tăng trưởng kinh tế:
a. Tăng trưởng kinh tế:
Ngân hàng thế giới (WB) trong “Báo cáo về phát triển thế giới năm 1991” đã
định nghĩa về tăng trưởng kinh tế như sau: “Tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng về
lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là
đại lượng tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số.” Còn trong tác
phẩm “Kinh tế học của các nước phát triển”, thì nhà kinh tế học E.Wayne Nafziger
cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng hoặc sự tăng lên về thu nhập
15
bình quân đầu người của một nước”. Trong khi đó một số quan điểm khác lại cho
rằng “Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định”. Như vậy, mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về tăng
trưởng kinh tế nhưng có thể khái quát hóa khái niệm tăng trưởng kinh tế như sau:
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về tổng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập bình
quân đầu người”.
Sẽ là một thiếu sót lớn khi nhắc đến khái niệm tăng trưởng mà không đề cập
đến tăng trưởng kinh tế bền vững ở đây. Vậy tăng trưởng kinh tế bền vững là gì?
“Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối cao và ổn
định trong thời gian tương đối dài (20-30 năm)”
b. Các yếu tố của tăng trưởng kinh tế:
Vốn: đây là yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Con người: là yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó phải là con
người có sức khỏe, có trí tuệ, có tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình lao động
được tổ chức, kỷ luật chặt chẽ.
Kỹ thuật và công nghệ: kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến là yếu tố quyết
định chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế. Đặc biệt trong điều kiện kỹ thuật và công
nghệ phát triển mạnh mẽ như hiện nay, thì các nước đang phát triển như Việt Nam
phải đón đầu và ứng dụng mạnh mẽ trong sản xuất nhằm tạo ra năng suất lao động
cao, từ đó tích lũy đầu tư lớn, rút dần khoảng cách với các nước trong khu vực và trên
thế giới.
Cơ cấu kinh tế: xây dựng được cơ cấu kinh tế càng hiện đại thì tăng trưởng
kinh tế càng nhanh và bền vững.
Thể chế chính trị và quản lý nhà nước: thể chế chính trị càng ổn định, tiến bộ,
Nhà nước càng đề ra được các đường lối, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn thì
tăng trưởng kinh tế càng ổn định hơn và nhanh hơn.
2. Nội dung mối quan hệ tăng trưởng kinh tế với hoạt động tín dụng của ngân
hàng trung ương:
Trong nền kinh tế, NHTW đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết thị
trường tài chính cũng như kinh tế của một đất nước. Là cơ quan đặc trách quản lý hệ
thống tiền tệ của quốc gia, NHTW chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ, trong
đó có hoạt tín dụng, để tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế. Mục đích
hoạt động của NHTW là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền, kiểm soát lãi
suất, cứu các NHTM có nguy cơ đổ vỡ. Với mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế,
hoạt động tín dụng của NHTW sẽ có những phản ứng bằng các chính sách phù hợp.
Qua đó cho thấy mối quan hệ tác động qua lại giữa tình hình nền kinh tế với hoạt
động tín dụng của NHTW qua các giai đoạn, được thể hiện như sau.
Trong khuôn khổ bài thuyết trình, chúng tôi phân tích mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương trong 2 thời kỳ điển
hình:
16
a. Trong thời kỳ thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng:
Trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, thất nghiệp và giảm phát có xu hướng
gia tăng. Khi lạm phát có dấu hiệu chững lại và đặt trong bối cảnh kinh tế thế giới đối
mặt với khủng hoảng tài chính và suy thoái, chính sách tiền tệ phải được điều chỉnh
cho phù hợp. Để nền kinh tế thoát ra tình trạng này, NHTW cần thực thi chính sách
mở rộng tiền tệ, với 2 mục tiêu chính là làm tăng lượng tiền cung ứng của nền kinh tế
và giảm lãi suất, qua đó thúc đẩy đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh… được xem
như liệu pháp phù hợp. Trong đó những hoạt động tín dụng của NHTW đóng vai trò
quan trọng trong việc thực thi những chính sách này như:
Nền kinh tế đang suy thoái, lượng vốn thiếu thốn trên thị trường, các ngân
hàng thiếu vốn để cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất. Hiện
tượng khát vốn xảy ra trên thị trường tài chính. NHTW sẽ nới rộng các nghiệp vụ tái
cấp vốn và nghiệp vụ chiết khấu các giấy tờ có giá, giảm lãi suất cho vay, lãi suất
chiết khấu bằng các hình thức cầm cố hay không cầm cố. Mở rộng điều kiện cho vay
để cho các ngân hàng thương mại có thể tiếp cận nguồn vốn này. Giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc nhằm tăng cường lượng tiền mở rộng của các NHTM trong nền kinh tế và
nhiều chính sách khuyến khích khác thúc đẩy việc bơm vốn vào thị trường qua kênh
NHTM.
Ngoài ra, cần tạo sự thông thoáng và tạo điều kiện về nghiệp vụ cho vay thanh
toán cũng như tăng cường sự bảo lãnh trong các nghiệp vụ liên quan với nước ngoài
đối với các NHTW nhằm tăng tính thanh khoản của các ngân hàng, làm cho các
NHTM mạnh dạn hơn khi tham gia thị trường, tăng cường huy động vốn kích thích
nền kinh tế, tăng các nghiệp vụ cho vay nhất là cho vay tiêu dùng, kích cầu. Ngoài
những hoạt động trên, NHTW có thể thực hiện nhiều nghiệp vụ cũng như các hoạt
động khác hỗ trợ để nền kinh tế trở về trạng thái cân bằng.
b. Thời kỳ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ:
Chính sách thắt chặt tiền tệ được áp dụng trong thời gian nhằm đối phó với
lạm phát ở mức cao, nền kinh tế tăng trưởng quá nóng. Thắt chặt tiền tệ là một hướng
trong chính sách tiền tệ nhằm giảm lượng cung tiền trong lưu thông. Khi lượng cung
tiền vượt quá lượng cầu tiền, sẽ dễ dẫn đến lạm phát. Do đó mục tiêu chính của thắt
chặt tiền tệ nhằm giảm mức lạm phát tạo sự cân bằng trên thị trường. Trong đó, việc
kết hợp các công cụ và các hoạt động tín dụng khác nhau nhằm điều tiết nền kinh tế ở
giai đoạn này cũng mang lại những kết quả khả quan.
Tăng cường các nghiệp vụ rút lượng tiền ra khỏi lưu thông trong nền kinh tế
qua các nghiệp vụ, công cụ khá phổ biến và hiệu quả mà NHTW thường sử dụng
như: tăng cường các lãi suất cho vay cũng như thu hẹp các nghiệp vụ chiết khấu đối
với các NHTM, tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, đòi hỏi các điều khoản cao hơn trong các
nghiệp vụ cho vay thanh toán và các nghiệp vụ bảo lãnh nhằm giảm lượng cho vay
của các NHTM nhất là đối với các nghiệp vụ cho vay tiêu dùng, giảm nhiệt nền kinh
tế, bình ổn thị trường và kiềm chế được lạm phát.
17
Thêm vào đó là các nghiệp vụ hỗ trợ khác, nhằm thực thi chính sách thắt chặt
tiền tệ một cách hiệu quả nhất như các hạn mức tín dụng đối với các khoản cho vay,
các chính sách về hành chính khác.
Như vậy, có thể nói rằng qua các giai đoạn khác nhau, trong việc thực thi
quyền lực của mình, NHTW cần phải dứt khoát tránh hiện tượng trễ của chính sách
tiền tệ. Điều quan trọng là việc xác định tình trạng nền kinh tế trong giai đoạn hiện tại
nhằm đề ra chính sách phù hợp và tạo nên hiệu quả tốt nhất cho hoạt động tín dụng
của NHTW, nhằm thúc đẩy phát triển nền kinh tế, giải quyết hai vấn đề quan trọng là
tình trạng thất nghiệp và lạm phát.
III. Thực tiễn về mối quan hệ giữa hoạt động tín dụng của ngân hàng Trung
Ương với lý thuyết tăng trưởng:
Như đã phân tích ở trên, vốn là một yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng
kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong điều kiện nguồn vốn ở các nước đang phát
triển như Việt Nam còn hạn hẹp và khan hiếm, cũng như vấn đề làm thế nào để sử
dụng đồng vốn hiệu quả luôn là một bài toán khó đối với các nước này. Mặc khác,
tăng trưởng GDP (chỉ tiêu cơ bản đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc
gia) phụ thuộc nhiều vào mức độ đầu tư đối với nền kinh tế. Trong lĩnh vực này,
NHTW đóng vai trò như một người “cầm lái” để đưa các dòng vốn vào nền kinh tế
thông qua “bàn tay điều tiết vô hình của mình”. Mà trước hết là thông qua các hoạt
động tín dụng của mình, NHTW sẽ quyết định nên hành động và ứng xử như thế nào
đối với từng tình huống cụ thể, trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế và phù hợp với
từng mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra.
Vậy trong những năm vừa qua NHNN Việt Nam đã thể hiện vai trò của mình
trong lĩnh vực này như thế nào thông qua hoạt động tín dụng? Đây không những là
nỗi băn khoăn của nhiều nhà kinh tế mà đó còn là bài toán khó đối với chính các nhà
điều hành hoạt động Ngân hàng. Bằng hoạt động tín dụng của mình, NHTW có thể
thực hiện một chính sách tiền tệ mở rộng bằng việc đưa ra mức lãi suất thấp để kích
thích đầu tư, tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn kinh tế gặp nhiều khó khăn. Nhưng
đi kèm với nó là bài toán lạm phát. Còn nhằm kiềm chế mức tăng trưởng quá nóng và
lạm phát, NHTW sẽ thi hành một chính sách tiền tệ thắt chặt với việc đưa ra mức lãi
suất cơ bản cao. Nhưng đi kèm với nó là bài toán thất nghiệp và nhiều vấn đề hệ lụy
liên quan. Có thể khẳng định, mục tiêu hàng đầu của hoạt động tín dụng NHNN thời
gian qua luôn hướng tới thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ là nhằm ổn định
thị trường, tăng trưởng và phát triển kinh tế, hướng đến một nền kinh tế bền vững cả
về cơ cấu, quy mô và chất lượng. Do tính phức tạp của vấn đề, nên trong phạm vi bài
viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến một số hoạt động tín dụng của Ngân hàng Trung
Ương có tác động tích cực cũng như tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế nước nhà trong
từng giai đoạn cụ thể, cũng như đưa ra một số kiến nghị của nhóm đối với hoạt động
tín dụng của NHTW. Sau đây chúng tôi điểm qua một số điểm mốc chính trong lịch
sử phát triển kinh tế Việt Nam và vai trò của hoạt động tín dụng NHTW được thể
hiện như thế nào.
18
1. Hoạt động tín dụng của NHTW trước đổi mới 1986- cái nhìn tổng quan về
vai trò đối với tăng trưởng kinh tế:
Đây có thể coi là một giai đoạn đặc biệt trong quá trình ra đời và phát triển của
NHNN Việt Nam. Hoạt động tín dụng của NHNN trong giai đoạn này hầu như không
hiệu quả và chưa phát huy được vai trò của mình đối với sự nghiệp kiến thiết đất
nước sau chiến tranh. Với hệ thống NHNN 1 cấp từ việc thống nhất 2 ngân hàng:
NHQG ở miền Nam, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ở Hà Nội (ngày 2/7/1976), mọi
hoạt động tín dụng cua NHNN được đặt trong một cơ chế thống nhất trên cả nước.
Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, NHNN Việt Nam lại phải đối mặt với những tình thế
hết sức khó khăn:
- Thiếu cán bộ quản lý, kể cả nhân viên có trình đô nghiệp vụ Ngân hàng.
- Phải chịu sức ép nặng nề về nguồn vốn tín dụng đáp ứng cho nhu cầu phát
triển kinh tế.
- Nhu cầu chi ngân sách đột ngột tăng lên, bình quân trong những năm 1976 -
1985 ngân sách bội chi tới 30% một năm.
- Một bộ phận lớn tiền ngân hàng phát hành đã trở thành tiền tài chính.
- Hoạt động tín dụng của NHNN chủ yếu phục vụ cho thành phần kinh tế quốc
dân, trong khi thành phần này lại phát triển không hiệu quả.
Những nguyên nhân trên đã khiến cho bức tranh về khủng hoảng kinh tế cũ
càng trầm trọng hơn: Ngân hàng thì thiếu tiền mặt nghiêm trọng, bên ngoài thì lạm
phát liên tục gia tăng mà đỉnh cao là năm 1986 (774,7%). Rõ ràng, cơ chế hoạt động
tín dụng của NHNN trong giai đoạn này không còn phù hợp với đòi hỏi của nền kinh
tế và phát triển đất nước trong thời bình.
2. Hoạt động tín dụng của NHTW- 20 năm đổi mới cùng đất nước 1986- 2006:
Trong 5 năm sau đổi mới 1986- 1990 là quá trình NHNNVN vừa vận hành,
vừa tìm tòi, thử nghiệm cơ chế hoạt động mới bằng cách tách dần chức năng quản lý
Nhà nước ra khỏi chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Cụ thể:
- Chuyển dần chức năng “cấp phát” sang chức năng hạch toán kinh doanh.
- Tách dần cấp quản lý Nhà nước về Ngân hàng ra khỏi hoạt động kinh doanh.
- Thành lập các Ngân hàng chuyên doanh.
- Những đường nét ban đầu của cơ chế mới về hoạt động Ngân hàng theo 2 cấp
đã dần dần hình thành. Theo đó, NHNN thực thi nhiệm vụ quản lý Nhà nước
về mọi mặt hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và
điều hoà lưu thông tiền tệ; bước đầu thực thi nhiệm vụ của một NHTW.
Thế nhưng, trước áp lực lạm phát 3 con số vào những năm sau đổi mới: năm
1986: 774,7%; năm 1987 là 323,1%, năm 1988 là 393%. Và từ đây, cụm từ “lạm
phát” được đề cập với mật độ ngày càng dày đặc trên các phương tiện đại chúng. Với
19
mục tiêu kiềm chế lạm phát nhằm ổn định nền kinh tế, tháng 3/1989 NHTW đã nâng
lãi suất tiền gửi lên rất cao, và đây thực sự là một liệu pháp “sốc” của NHTW trong
giai đoạn này. Lãi suất tăng gấp 6 lần so với lãi suất hiện tại. Lãi suất tiền gửi không
kỳ hạn tăng từ 1,5%/tháng lên đến 9%/ tháng, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cũng tăng
tương ứng từ 2%/tháng lên 12%/tháng. Việc làm này đã gây xôn xao dư luận trong và
ngoài nước. Mặc dù hành động này của NHTW đã chặn được lạm phát nhưng lại đẩy
nền kinh tế non trẻ vào trạng thái trì trệ. Bên cạnh đó, do kéo dài quá lâu liệu pháp
“sốc” này nên những người gửi tiền từ chỗ bị lỗ, trở thành người “kinh doanh có lãi
trên lưng Ngân hàng” trong khi bản thân Ngân hàng sau khi cho vay vẫn không thu
hồi được đủ và đúng hạn. Ngân hàng trở nên thua lỗ hơn bao giờ hết vào cuối 1990
và cả năm 1991 do hiệu ứng của liệu pháp “sốc” của NHNN kéo quá dài từ 1989. Lý
do đơn giản là người vay không thể tạo đủ lợi nhuận để trả lãi quá cao cho Ngân
hàng. Các doanh nghiệp ồ ạt “chết trước” mức lãi suất cho vay cao ngất ngưởng mà
NHNN quy định, điển hình là các xí nghiệp tư nhân như “Nước Hoa Thanh Hương”,
Công ty Đại Thành và hầu hết các Doanh nghiệp tư nhân khác, kể cả nhiều Xí nghiệp
quốc doanh cũng không khá hơn....đã để lại hậu quả nghiêm trọng đối với nền kinh tế
nói chung, và mục tiêu phát triển kinh tế trong giai đoạn này nói riêng; làm thất thoát
hơn 2.000 tỷ đồng (tương đương với 0,5 tỷ USD = 4,2% GDP của Việt Nam năm
1989) vào năm 1989 - 1991 và kéo dài việc xử lý cho đến một số năm tiếp theo.
Hoạt động cho vay thanh toán và cho vay khôi phục năng lực chi trả của
NHNN đối với các NHTM: hành động này cũng không thể cứu vãn tình trạng mất
khả năng thanh toán hàng loạt. Dư nợ vốn lưu động của hệ thống Ngân hàng chuyên
doanh của Nhà nước cấp cho các đơn vị kinh tế quốc doanh tăng rất mạnh: Cuối năm
1987 con số này là 400 tỷ đồng tăng gấp 3,6 lần so với cuối năm 1986; Năm 1988 là
1.718 tỷ đồng, gấp 4,3 lần (430%) so với cuối năm 1987. Đây cũng là những năm mà
tín dụng tung ra rất mạnh, nhưng tốc độ tăng doanh số thu nợ rất thấp. Các khoản nợ
phải trả đến hạn ngày càng tăng cao trong khi các khoản phải thu hầu như không thu
hồi được đủ và đúng hạn, làm cho các Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và quỹ tín
dụng đứng trên bờ vực thẳm vì mất khả năng thanh toán.
Hoạt động tạm ứng cho Ngân sách Nhà nước: Cũng trong giai đoạn từ 1986
đến 1988 hầu hết các Hợp tác xã tín dụng nông thôn và các Quĩ tín dụng Đô thị đều
lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả, Ngân hàng cổ phần tại thời điểm 1987 cũng
nằm trong tình trạng không có khả năng chi trả, phần lớn bị giải thể, bị đặt trong tình
trạng kiểm soát đặc biệt hoặc buộc phải sáp nhập. Các Ngân hàng thương mại Nhà
nước trong những năm 1986 – 1990 cũng không mấy sáng sủa do bị sức ép của nền
kinh tế “bung ra” nhưng vốn nhỏ, thị trường tài chính hầu như chỉ có các Ngân hàng
Quốc doanh “đứng mũi chịu sào”. Do đó, việc NHNN phát hành trực tiếp để bù đắp
ngân sách nhà nước và cấp gián tiếp cho đầu tư của Nhà nước qua NHTM nhà nước
đến khu vực kinh tế quốc doanh vẫn diễn ra một cách phổ biến. Hậu quả là dư nợ cho
vay tăng rất nhanh và đương nhiên với cơ chế đó thì những khoản nợ không thu hồi
được cũng tăng rất nhanh. Vốn điều lệ bình quân mỗi Ngân hàng thương mại Nhà
nước hồi đó chỉ ở mức 200 tỷ đồng (tương đương 44,5 triệu USD theo tỷ giá bình
20
quân năm 1989: 4.500đ/USD), nguồn huy động không đáp ứng nhu cầu cung ứng
vốn. Một bộ phận không nhỏ nguồn phát hành mặc nhiên trở thành nguồn “cấp phát”
vẫn là hình ảnh quen thuộc của hệ thống Ngân hàng Việt nam từ khi thành lập cho
đến những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
Chính những thử thách khắc nghiệt giữa một bên là lực lượng sản xuất đang
“bung ra”, với một bên là quan hệ sản xuất nói chung – trong đó có nền tiền tệ bao
cấp, mất giá, mất niềm tin...đã dẫn đến tính cấp thiết của việc NHTW cần có những
bước đi mới thích hợp hơn với tình hình mới, đặc biệt là hoạt động tín dụng của
NHTW. Với vai trò là cơ quan của chính phủ và là NHTW, NHNN Việt Nam đã có
những nổ lực nhất định trong 20 năm đổi mới và phát triển đất nước giai đoạn 1986-
2006. Đặc biệt trong lĩnh vực hoạt động tín dụng, NHNN đã thể hiện vai trò quan
trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia bằng các công cụ: tái cấp vốn,
chiết khấu và tái chiết khấu chứng từ có giá, cho vay thanh toán, bảo lãnh cho NHTM
và tạm ứng cho NSNN. Những thành quả đạt được trong giai đoạn này có thể điểm
qua những nét cơ bản như sau:
- Trực tiếp góp phần làm cho toàn nền kinh tế khắc phục được nạn khan hiếm phương
tiện thanh toán trong khi vẫn giữ được giá trị sức mua của VND.
- Chủ động kiểm soát được lạm phát, kéo chỉ số lạm phát từ 774,7% trong năm 1986
xuống ở mức 2 con số và xuống 1 con số liên tục 14 năm từ 1992 đến 2006.
- Trong cơ cấu toàn ngành ngân hàng, nổi lên vai trò của các Ngân hàng thương mại
Nhà nước. Tuy chỉ có 4 Ngân hàng (Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng
Đầu tư và phát triển Việt Nam, Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng Sông Cửu Long,
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam) nhưng chiếm tới gần 60% thị phần tổng thể các
dịch vụ Ngân hàng thông qua một mạng lưới “dày đặc” các chi nhánh trong cả nước.
- Bắt đầu từ 1992 NHNN đổi mới chính sách lãi suất: (i) Đi từ lãi suất thực âm sang
lãi suất thực dương; (ii) Lãi suất dài hạn lớn hơn lãi hạn ngắn; (iii) Thu hẹp khoảng
cách giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ; (iv)Từng bước tự do hoá cơ chế lãi suất
thích ứng với thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế, nhằm đáp ứng nhu cầu hội
nhập kinh tế thế giới.
Đến tháng 6/2002 với sự ra đời của cơ chế lãi suất thoả thuận, lãi suất trên thị
trường tín dụng ở Việt Nam đã hoàn toàn được tự do trên cơ sở lãi suất cơ bản do
NHNN công bố.
Như vậy, sau hơn 20 năm tiến hành đổi mới đất nước, hoạt động tín dụng của
NHTW cũng có những bước tiến nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của đất
nước và đạt được những kết quả đáng khích lệ trong công cuộc công nghiệp hóa- hiện
đại hóa đất nước. Đây là bước tiến khá quan trọng và là nền tảng cho những giai đoạn
phát triển tiếp theo phù hợp với nhu cầu và mục tiếu phát triển kinh tế mới.
3. Hoạt động tín dụng của NHTW thời kỳ hậu WTO, trước khủng hoảng kinh
tế toàn cầu 2008:
21
Việt Nam gia nhập WTO 2006 có thể xem là một bước tiến trong phát triển
kinh tế nước nhà. Việt Nam sẽ có cơ hội để tiến sâu hơn vào con đường hội nhập và
phát triển bình đẳng với các nước trong cộng đồng WTO, dựa trên các góc độ về nội
dung, chức năng và các nguyên tắc hoạt động của WTO. Nhưng điều đáng lo ngại và
trở thành thách thức hậu WTO đối với Việt Nam là trình độ, vị trí cũng như các mối
quan hệ kinh tế hiện hữu, năng lực điều hành kinh tế vi mô, vĩ mô của các cơ quan
chức năng Việt Nam so với nước bạn.
Để tham gia vào “đấu trường” này, Việt Nam cần nhận thấy một điều, đến lúc
chúng ta phải cạnh tranh gay gắt để đương đầu với khó khăn và tận dụng cơ hội. Và
để đương đầu với thách thức đó là phải tiến hành điều chỉnh một cách tương thích và
đưa ra các chính sách kinh tế – tài chính, đặc biệt là chính sách tài chính- tiền tệ và
hoạt động tín dụng của NHTW sẽ có ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến tăng trưởng và
phát triển kinh tế.
4. Hoạt động tín dụng NHTW trong mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế hậu
khủng hoảng 2008:
Giai đoạn hậu khủng hoảng, được xem là có nhiều thách thức đối với hầu hết
các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Tuy không gánh chịu tác động trực tiếp của
khủng hoảng tài chính toàn cầu, song Việt Nam cũng khó tránh khỏi những ảnh
hưởng tương đối lớn. Thế nhưng, Việt Nam lại là một trong những nước giữ được tốc
độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng nhất khu vực Đông Nam Á, ngăn ngừa được lạm
phát, an sinh xã hội được đảm bảo... đã giúp nền kinh tế thoát khỏi suy thoái. Trong
đó có sự đóng góp chủ đạo của NHNN bằng các chính sách và hoạt động thiết thực.
Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ đề cập đến vai trò của hoạt động tín dụng của
NHTW.
4.1. Ngân hàng Nhà nước đã kịp thời chỉ đạo các ngân hàng thực hiện chương
trình hỗ trợ lãi suất 4% nằm trong gói thích kinh tế của chính phủ, góp phần
vào sự tăng trưởng kinh tế, ngăn ngừa suy giảm, đảm bảo an sinh xã hội.
Gói kích thích kinh tế có tổng giá trị gần 10% GDP, bao gồm 4 khoản: (i) Hỗ
trợ lãi suất vay vốn tín dụng khoảng 17 nghìn tỷ đồng, (ii) Vốn đầu tư phát triển của
Nhà nước khoảng 90,8 nghìn tỷ đồng, (iii) Thực hiện chính sách miễn, giảm thuế
khoảng 28 nghìn tỷ đồng, (iv) Các khoản chi khác nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế
và bảo đảm an sinh xã hội khoảng 9,8 nghìn tỷ đồng. Tuy đây không phải là hoạt
động tín dụng của NHTW, nhưng chính sách này thông qua sự chỉ đạo của NHTW đã
đạt những kết quả nhất định, kinh tế Việt Nam vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng cả
năm ở mức ấn tượng, vượt 5,2%. Mặt bằng giá trong năm tương đối ổn định. Lạm
phát cả năm được kiềm chế ở mức 6,8%. Nên trong phạm vi bài này chúng tôi đề cập
đến gói hỗ trợ lãi suất do NHNN Việt Nam chỉ đạo thực hiện như một trong những
hoạt động có tác động lớn đến kinh tế vĩ mô thời gian qua.
22
Biểu đồ 1:Tăng trưởng GDP Việt Nam
Nguồn: Tổng cục thống kê
Vốn ngân hàng đã góp phần vực dậy hàng trăm doanh nghiệp đứng trước bờ
vực phá sản trở lại kinh doanh có hiệu quả, đem lại những đóng góp tích cực cho
ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, ngành cũng hỗ trợ tích cực và góp phần đạt được
những thành tựu nổi bật trong nhiều hoạt động như xoá đói giảm nghèo, cho vay
chương trình phát triển nhà ở Đồng bằng Sông Cửu Long; cho vay khắc phục hậu quả
thiên tai; cho vay ưu đãi về lãi suất khu vực miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa; lập
quỹ tín dụng đào tạo cho sinh viên, học sinh vay tiền dài hạn 10-15 năm, lãi suất bằng
50% lãi suất thương mại thông thường (trong thời gian đi học không thu lãi. Theo báo
cáo của NHNN Việt Nam, đến ngày 10/12/2009, cả nước đã có tổng dư nợ hỗ trợ lãi
suất hơn 445 nghìn tỷ đồng, trong đó các NHTM và công ty tài chính thực hiện gần
415 nghìn tỉ đồng, Ngân hàng Phát triển Việt Nam (VIB) 10.400 tỉ đồng, Ngân hàng
chính sách xã hội (NHCSXH) thực hiện gần 20 nghìn tỉ đồng. Nếu phân theo đối
tượng thụ hưởng thì doanh nghiệp nhà nước là hơn 59.800 tỉ đồng, doanh nghiệp
ngoài Nhà nước gần 290 nghìn tỉ đồng và hộ sản xuất gần 65.100 tỉ đồng.
Biểu đồ 2: Dư nợ HTLS phân theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
23
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Xuất phát từ hiệu quả kinh tế - xã hội của nhóm giải pháp hỗ trợ lãi suất này và
những vấn đề cụ thể đặt ra trong sự phát huy nội lực của từng lĩnh vực, cộng đồng
trong xu thế tiếp tục hội nhập sâu vào thị trường quốc tế, ngày 11/11/2009, Chính phủ
đã ban hành Nghị quyết số 54/NQ - CP về tiếp tục thực hiện chính sách kinh tế hỗ trợ
lãi suất trên nguyên tắc thu hẹp đối tượng và giảm mức hỗ trợ hợp lý trong năm 2010.
Cụ thể là chỉ tiếp tục hỗ trợ lãi suất 2%/năm cho các khoản vay trung, dài hạn
bằng VND cho các tổ chức, cá nhân thuộc một số ngành hàng, lĩnh vực kinh tế với
thời hạn hỗ trợ lãi suất tối đa là 24 tháng, kể từ ngày giải ngân khoản vay trong năm
2010.
Ngày 25/12/2009, NHNN đã ra văn bản số 10220/NHNN - CSTT yêu cầu Chủ
tịch HĐQT, Tổng giám đốc các tổ chức tín dụng có nhiều khách hàng liên quan tới
Quyết định số 54, phải tập trung thực hiện ngay từ ngày đầu năm 2010 này:
- Điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ
hạn dưới 12 tháng từ 5% xuống 3% kể từ kỳ dự trữ tháng 3/2009; tiền gửi có kỳ hạn
từ 12 tháng trở lên từ 2% xuống 1% kể từ kỳ dự trữ tháng 1/2009. Đồng thời, điều
chỉnh giảm lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc từ mức 8,5%/năm xuống 1,2%/năm; điều
chỉnh giảm lãi suất tiền gửi vượt dự trữ bắt buộc bằng đồng ngoại tệ từ mức 1%/năm
xuống 0,1%/năm.
- Cho vay tái cấp vốn để kiểm soát lượng tiền cung ứng, đảm bảo khả năng an toàn
thanh toán cho hệ thống các tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ.
93.559,62
178.722,38
268.776,17
4.730
305.763,14
11.843
331.984,23
22.178
358.190,86
30.162
0
50.000
100.000
150.000
200.000
250
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoạt động tín dụng của ngân hàng trung ương và mối quan hệ với tăng trưởng kinh tế- lý luận và thực tiễn.pdf