Với chiến lược “ Từ trồng rừng đến sản phẩm”, Vinafor luôn mong muốn tăng cường, lien kết với bạn hàng trong nước và quốc tế. Vinafor kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh: Trồng rừng, ván nhân tọ, công nghệ chế tác đồ mộc, du lịch và khách sạn. Thị trường truyền thống của Tổng công ty tính đến nay là: ICELAND, NORWAY, SWEDEN, UK, ĐAN MẠCH, ĐỨC, PHẤP, TÂY BAN NHA, Ý, THỔ NHĨ KỲ, NGA, SAUDI ARABIA, NAM MỸ, TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC, NHẬT BẢN, THÁI LAN, MALAYSIA, SINGAPO, ÚC, NEW ZEALAND, CHILE, DOMINICA, MEXICO, MỸ, CANADA ( không kể thị trường trong nước).
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3898 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ sang thị trường EU của Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam- Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t các loại sản phẩm kết hợp từ gỗ tự nhiên với các chất liệu khác như chất dẻo , kim loại, nhựa tổng hợp.
2.2.2.1.3. Các sản phẩm mỹ nghệ từ gỗ, đá, mây, tre:
Sản phẩm mỹ nghệ từ các vật liệu rừng nhiệt đới: song, mây, tre, guột là mặt hang truyền thống của Vinafor được thị trường Âu, Mỹ và khu vực ưa chuộng.
Trình độ tay nghề khéo léo trong việc kết hợp với các vật liệu truyền thống như: sơn mài, gỗ, đá, sành sứ… dã tạo ra những sản phẩm đạt tính thẩm mỹ cao, đa dạng kiểu dáng phù họp cho mọi loại hình nội thất.
2.2.2.1.4.Lâm đặc sản:
Kết hợp với trồng rừng nguyên liệu, Vinafor cũng chú trọng trồng các loại cây khác để tạo nguồn , khai thác các đặc sản rừng: dầu thông,cánh kiến, xa nhân,quế, hồi… nhằm mục đích xuất khẩu cho các ngành kinh tế khác như: hóa mỹ phẩm, hóa dược, công nghệ sơn phủ, vecni, sơn cách điện, công nghệ điện tử viễn thong. Vinafor có tiềm lực tạo nguồn cây cảnh (Bonsai) và chăn nuôi chim thú rừng nhiệt đới.
2.2.2.1.5. Trồng rừng:
Vinafor hiện nay đang quản ký 150.000 ha rừng và đất rừng đựoc phân bổ trên nhiều tỉnh thành khắp cả nước từ miền Bắc, miền Duyên Hải, miền Trung, Tây Nguyên tới miền Nam, bao gồm các tỉnh: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, Hòa Bình, Hà Tĩnh, Quảng Trị… Bên cạnh việc trồng rừng tại các lâm trường trực thuộc, Vinafor còn hợp tác với hơn 20 đơn vị trồng rừng địa phương và hang ngàn hộ dân dưới hình thức kí hợp đồng đầu tư vốn trồng r ừng và bao tiêu sản phẩm.
Công tác trồng rừng của Vinafor luôn hướng tới mục tiêu: kinh tế-xã hội-môi trường, góp phần thực hiện chủ trương định canh định cư, xóa đói giảm nghèo cho đồng bào các dân tộc miền núi.
Diện tích rừng trồng của Vinafor ngày càng mở rộng có chất lượng, sản lượng cây trồng cao, đang cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất ván nhân tạo, đồ mộc, dăm gỗ xuất khẩu, gỗ trụ mỏ và các nhu cầu sử dụng gỗ khác của xã hội.
2.2.2.1.6. Tạo giống cây trồng:
Để đạt hiệu quả kinh tế cao trong trồng rừng, Vinfor đã áp dụng công nghệ lâm sinh tiên tiến, trọng tâm là công nghệ tạo giống cây. Hiện Vinafor đã đầu tư xây dựng 3 trung tâm nuôi cấy mô tại các tỉnh Hòa Bình, Bắc Giang, Gia Lai và hang chục cơ sở có vườn ưon giâm hom để cung cấp cây trồng cho các hộ dân và lâm trường trồng rừng.
Nhờ áp dụng công nghệ tạo giống bằng nuôi cấy mô, nên cây sinh trưởng tốt, phất triển đồng đều, cho năng suất cao và khả năng thu hồi vốn nhanh.
2.2.2.1.7. Xuất nhập khẩu:
(1) Xuất khẩu:
- Ván nhân tạo.
- Đồ mộc nội ngoại thất.
- Lâm đặc sản.
- Hàng mỹ nghệ.
- Chim thú, cây cảnh.
- Nông sản, thủy sản.
- Gỗ rừng trồng và bán thành phẩm.
- Lao động đã qua đào tạo nghề và ngôn ngữ giao tiếp.
(2) Nhập khẩu:
- Công nghệ và thiết bị tiên tiến.
- Vật tư kỹ thuật.
- Gỗ nghuyên liệu.
2.2.2.1.8. Du lịch khách sạn và dịch vụ:
Thông qua các loại hình dịch vụ, Vinafor đã phát huy được thế mạnh và tính ưu việt của rừng.
Du lịch lâm nghiệp là 1 trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của Vinafor. Du lịch lâm nghiệp bao gồm:
- Du lịch sinh thái.
- Du lịch mạo hiểm.
- Lữ hành.
- Kinh doanh khách sạn và dịch vụ du lịch.
2.2.2.2. VỀ SẢN XUẤT KINH DOANH:
Bảng số 2: Kết quả kinh doanh
Năm
2002
2003
2004
2005
Doanh thu(tỷ đồng)
1.387,270
1.192,370
1.412,890
2.211,68
Lợi nhuận(tỷ đồng)
13,774
16,286
16,678
21,16
Nộp ngân sách(tỷ đồng)
193,380
156,770
88,723
77,22
Thu nhập bình quân
(nghìn đồng/người/tháng)
717
783
913
1119
(Nguồn: Phòng kế hoạch)
Qua bảng số liệu trên ta thấy tình hình sản xuất kinh doanh của Vinafor có 1 số điểm đáng chú ý như sau:
(1) Về doanh thu:
Doanh thu năm 2003 giảm so với năm 2002là 14% song đến năm 2004 doanh thu tăng len cao hơn cả 2 năm trước, cụ thể tăng 18,5% so với năm 2003. năm 2005, doanh thu đạt cao nhất trong giai đoạn 2002-2005, đạt 2211,68 tỷ đồng, tăng 56,6% so Với năm 2004 phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều thuận lợi.
Nhìn chung, các đơn vị kinh doanh có doanh thu tăng cao là những đơn vị gắn sản xuất với kinh doanh như: Xí nghiẹp chế biến gỗ Cẩm Hà, Công ty Lâm nghiệp 19, công ty cổ phần Vinfor Đà nẵng… Đặc biệt xí nghiệp chế biến gỗ Cẩm Hà đã hoàn thành kế hoạch Vinafor giao về doanh thu.
Các đơn vị không gắn với sản xuất chỉ có thương mại và dịch vụ thuần túythì chỉ tiêu về doanh thu đạt ở mức thấp và không ổn định.
(2) Về lợi nhuận:
Tuy tình hình doanh thu tăng trưởng không ổn định song lợi nhuận lại tăng đều đặn qua các năm. Năm sau cao hơn năm trứoc từ 2,3 đến 2,5 tỷ đồng. Năm 2003, lợi nhuận tăng 18,2% so với năm 2002, năm 2004 lợi nhuận đạt 18,678 tỷ đồng tăng 14,7% so với năm 2003. Năm 2005 lợi nhuận tăng 13,2% so với năm 2004. Đặc biệt tỷ suất lợi nhuận bình quân toàn Vinafor năm 2005 là 1,3%, cao hơn mức đề ra ban đầu là 1% doanh thu. Đây là kết quả đáng khích lệ, phản ánh sự phấn đấu không ngừngcủa các đơn vị, thể hiện sự “ làm ăn” ngày càng có hiệu quả, đặc biệt các công ty cổ phần luôn là các đơn vị có tỷ suất lợi nhận cao nhất.
(3) Về nộp ngân sách:
Tổng số nộp ngân sách giảm qua các năm. Nộp ngân sách cao nhất là năm 2002(193,38 tỷ đồng), thấp nhất là năm 2005(77,22 tỷ đồng). Năm 2005 nộp nhgân sách chỉ bằng 40% so với năm 2002, bằng 87%so với năm 2004.
Tỷ lệ nộp ngân sách đạt thấp, chưa ngang tầm trách nhiệm của Tổng công ty, vì 1 trong 6 tiêu chí của doanh nghiệp Nhà nước là nộp ngân sách. Việc nộp ngan sách ở mức thấp cũng phản ánh 1 điều là chúng ta chưa có 1 vị chí đáng kể nào ở trong nước, chưa coi trọng công tác xúc tiến thương mại tại thỉtường trong nước, nơi có nhiều tiềm năng với dân số trên 80 triệu người. Đồng thời công tác nhập khẩu phục vụ bản thân nền kinh tế trong nuớc của Tổng công ty còn có nhiều hạn chế.
(4) Thu nhập bình quân lao động:
Thu nhập bình quân lao động của toàn tổng công ty tăng qua 4 năm. Năm 2002, thu nhập là 717 nghìn đồng/người/tháng. Đến năm 2005, thu nhập đạt 1.119 nghìn đồng/người/tháng, tăng 39,9% so với năm 2002 và tăng 22,5% so với năm 2004.
Năm 2005, thu nhập cụ thể như sau:
-Văn phòng tổng công ty và các đơn vị phụ thuộc: 1.023.000 đồng/người/tháng.
-Các đơn vị hạch toán độc lập: 921.000 đồng/người/tháng.
-Khối các đơn vị cổ phần hóa: 925.000 đồng/người/tháng.
2.1.2.3. VỀ LIÊN DOANH VÀ HỢP TÁC QUÔC TẾ:
Công tác liên doanh và hợp tác quốc tế gắn liền với nhiệm vụ tìm kiếm nguyên liệu và phát triển thị trưòng, gắn liền với các dự án đầu tư lón. Các văn phòng đại diện và các chi nhánh của Tổng công ty ở nước ngoài là những bộ phận thực hiện nhiệm vụ này. Trong năm 2005, hầu hết các văn phòng đại diện và chi nhánh của Tổng công ty ở nước ngoài đã phát hiuy tốt vai trò của mình và thực hiện được nhiệm vụ của Tổng công ty giao cho. Các công ty liên doanh bao gồm:
-Công ty liên doanh sản xuất nguyên liệu giấy Việt-Nhật Đà Nẵng(Vijachip Đà Nẵng).
-Công ty liên doanh sản xuất nguyên liệu giấy Việt-Nhật Cái Lâ n(Vijachip Cái Lân).
-Công ty liên doanh sản xuất nguyên liệu giấy Việt-Nhật Vũng Áng (Vijachip Vũng Áng).
-Công ty nguyên liệu giấy Quy Nhơn.
-Công ty TNHH YAMAHA Motor Vietnam.
-Công ty liên doanh nuôi và phát triển khỉ Việt Nam (Naforvanny).
Năm 2005, các công ty lien doanh nước ngoài có vố góp của Tổng công ty đã hoạt động có hiệu quả, đóng góp 1.190 tỷ đồng doanh thu; 13,32 triệu USD kim ngạch xuất nhập khẩu, nộp ngân sách 165,45 tỷ đồng.
Riêng công ty ty liên doanh sản xuất nguyên liệu giấy Việt-Nhật Cái Lâ n(Vijachip Cái Lân) đã bắt đầu hoạt động cuối năm 2005.
Các liên doanh đã góp phần tạo lợi nhuận cho Tổng công ty nhằm đầu tư, tái tạo và phát triển vốn, đồng thời đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế xã hội, tạo công ăn việc làm, tạo động lực cho phát triển nghề rừng.
Với chiến lược “ Từ trồng rừng đến sản phẩm”, Vinafor luôn mong muốn tăng cường, lien kết với bạn hàng trong nước và quốc tế. Vinafor kêu gọi đầu tư vào các lĩnh vực kinh doanh: Trồng rừng, ván nhân tọ, công nghệ chế tác đồ mộc, du lịch và khách sạn. Thị trường truyền thống của Tổng công ty tính đến nay là: ICELAND, NORWAY, SWEDEN, UK, ĐAN MẠCH, ĐỨC, PHẤP, TÂY BAN NHA, Ý, THỔ NHĨ KỲ, NGA, SAUDI ARABIA, NAM MỸ, TRUNG QUỐC, HÀN QUỐC, NHẬT BẢN, THÁI LAN, MALAYSIA, SINGAPO, ÚC, NEW ZEALAND, CHILE, DOMINICA, MEXICO, MỸ, CANADA ( không kể thị trường trong nước).
2.3. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GỖ VÀ CÁC SẢN PHẨM GỖ CỦA VINAFOR SANG EU ( giai đoạn 2002-2005)
Bảng 3: Kim ngạch xuất nhập khẩu qua các năm 2002-2005
(Đơn vị: triệu USD)
Năm
2001
2002
2003
2004
KH
TH
% so với 00
KH
TH
% so với 01
KH
TH
% so với 02
KH
TH
% so với 03
Tổng KN XNK
90
82,063
107,65
75
50,095
80,55
55
59,674
118
75
75,84
128
XK
45
29,462
72,14
40
30,074
102,08
33
35,703
118
41
49,99
140
NK
45
52,601
148,65
53
20,021
38,46
22
23,971
119
24
25,85
108
(Nguồn: Phòng kế hoạch)
Ghi chú:
KH: Kế hoạch
TH: Thực hiện
Nhìn vào bảng số liệu ta thấy kim ngạch XK của Vinafor lien tục tăng từ năm 2002-2005. Năm 2003 kim ngạch đạt 30,074 triệu USD tăng 2,08% so với thực hiện năm 2002. Năm 2004 kim ngạch XK tăng 18% so với thực hiện năm 2003. Đến năm 2005 thì kim ngạch XK tăng 40% so với thực hiện năm 2004. đây là một kết quả đáng khích lệ của toàn tổng công ty.
Tuy nhiên, kim ngạch XK trong hai năm 2002 và 2003 vẫn không đạt được so với kế hoạch của Bộ giao. Năm 2002, kim ngạch XK chỉ đạt 65,47% so với kế hoạch Bộ giao, Năm 2003 đạt 75,19% so với kế hoạch. So với vai trò của Tổng công ty thì kết quả là thấp, đây là điều khiến chúng ta cần phải suy nghĩ. Tuy vậy, đến năm 2004 tình hình kim ngạch XK so với kế hoạch của Bộ giao có nhgững nét khả quan hơn. Năm 2004 đạt 108% so với kế hoạch còn năm 2005 thì đạt 112% so với kế hoạch Bộ giao. Điều này phản ánh sự cố gắng trong việc nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu của toàn Tổng công ty cũng như tong việc thực hiẹn mục tiêu kế hoạch.
Nhìn chung, XK đồ gỗ tinh chế và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Tổng công ty vào thị trường EU giai đoạn 2002-2005 liên tục tăng qua các năm. Năm 2002 đạt 10.654.955 USD, năm 2003 tăng 23,01% so với năm 2002, năm 2004 tỷ lệ này tiếp tục được nâng lên và năm 2005 đạt 21.366.452 USD tăng 7,6% so với 2004. Qua đó ta thấy xuất khẩu của Tổng côn ty vào thị trường EU tương đối ổn định và có chiều hướng gia tăng qua các năm.
Bảng 4: Các mặt hàng xuất khẩu chính
(Đơn vị: triệu USD)
TT
Năm
Sản phẩm
2002
2003
2004
2005
1
Gỗ và các sản phâm gỗ
20,47
23,894
27,880
45,38
2
Hàng lâm đặc sản
4,5
1,750
0,689
0,61
3
Các mặt hàng khác
4,492
4,430
6,973
4,00
( Nguồn: Phòng kế hoạch)
Qua bảng số liệu cho thấy gỗ và các sản phẩm gỗ là mặt hang chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu mặt hang của Tổng công ty.
Kim ngạch xất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ liên tục tăng qua các năm. Đặc biệt trong năm 2005 kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ đạt 45,38 triệu USD tăng 62,76% so với năm 2004 và đóng góp 90,7% vào kim ngạch xuất khẩu của toàn Tổng công ty.
Trong đó:
Xí nghiệp chế biến gỗ Cẩm Hà là đơn vị dẫn đầu sản xuất hàng mộc xuất khẩu đã xuất khẩu 6,558 triệu USD ( Năm 2002) tạo nên 99,4% doanh thu cho xí nghiệp.
Công ty sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản Sài Gòn, với kim ngạch xuất khẩu hàng mộc là 2,657 triệu USDtrong tỏng số 3,168 triệu USD xuất khẩu trực tiếp.
Xí nghiệp chế gỗ xuất khẩu An Bình đã sản xuất và xuất khẩu trực tiếp toàn bộ hàng mộc với trị giá 2,588 triệu USD.
Qua đó ta thấy rằng, gỗ và các sản phẩm gỗ là các mặt hàng chủ đạo của hầu hết các đơn vị thành viên và đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn Tổng công ty. Các đơn vị thành viên từ chỗ xuất khẩu qua trung gian đã dần dần xuất khẩu trực tiếp. Đây là một kết quả đáng chú ý vì khi xuất khẩu trực tiếp sẽ làm giảm chi phí và tăng lợi nhuận hơn so với khi xuất khẩu qua trung gian. Thường là qua các nước trung gian như: Đài Loan, Hồng Kông hoặc Singapore…
Tỷ trọng xuất khẩu theo thị trường của Vinafor qua các năm được thể hiện theo kết quả ở bảng dưới:
Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường của Vinafor
TT
Thị trường(%)
2002
2003
2004
2005
1
EU
43,95
49,89
68,69
54,26
2
Mỹ
2,54
1,48
0,57
1,016
3
Nhật
10,54
6,7
6,1
3,92
4
Các nước khác
42,97
41,84
24,64
40,804
Tổng
100
100
100
100
( Nguồn: Phòng kế hoạch)
Qua biểu đồ hình tròn dưới đây qua thời kì 2 năm 2002 và 2006, chúng ta sẽ thấy rõ hơn sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu của Tổng công ty.
Chú thích:
- Màu vàng: EU
- Ghi: Mỹ
- Ghi: Nhật
- Đỏ: các nước khác
Hình 1: cơ cấu xuất khẩu theo thị trường của Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam năm 2002.
Hình 2: cơ cấu xuất khẩu theo thị trường của Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam năm 2006.
Qua bảng ta thấy EU chiếm tỷ trọng cao nhất trong tất cả các thị trường của Tổng công ty và lien tục tăng qua các năm 2003-2005 tuy nhiên tỷ trọng năm 2005 giảm so với năm 2004 song EU vẫn là thị trường chủ đạo mà Tổng công ty đang khai thác và cần duy trì trong tương lai. Tỷ trọng xuất khẩu của Vinafor vào thị trường Nhật và Mỹ đang còn nhỏ và đây cũng là hai thị trường của Tổng công ty đang tìm cách thâm nhập và phát triển hơn nữa.
Hiện tại xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Tổng công ty vào thị trường EU chỉ tập trung vào các nước như: Anh, Pháp, Đức, hà lan, Bỉ, Đan Mạch, Italia, Thuỵ Điển, Tây Ban Nha và Phần Lan. Đây là 10 trong tổng số 25 nước thành viên EU mà Tổng cồng ty đang có quan hệ làm ăn và trong tương lai sẽ mở rộng hơn nữa về thị trường này.
Kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ theo quốc gia được thể hiện ở bảng dưới:
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ tinh chế và các sản phẩm mỹ nghệ sang các thị trường
(Đơn vị: USD)
TT
2002
2003
2004
2005
1
Anh
777.890
2.440.504
694.362
806.040
2
Pháp
1.688.382
2.201.931
1.797.369
2.197.674
3
Đức
246.510
914.371
5.161.022
5.134.840
4
Hà Lan
1.432.318
1.380.584
1.990.990
3.327.632
5
Bỉ
954.017
1.150.723
1.418.703
1.057.947
6
Đan Mạch
2.689.066
2.808.592
3.855.919
4.221.580
7
Italia
1.588.834
689.352
3.157.190
2.176.328
8
Thuỵ Điển
242.333
378.098
44.065
159.275
9
Tây Ban Nha
947.521
1.002.015
1.438.484
1.916.280
10
Phần Lan
88.088
140.863
299.627
368,856
Tổng
10.654.959
13.106.979
19.857.713
21.366.452
( Nguồn: báo cáo XK- P. kế hoạch)
Các thị trường kim ngạch xuất khẩu đạt trên 1 triệu USD bao gồm: Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Italia và Tây Ban Nha.
Trong hai năm 2002 và 2003 kim ngạch xuất khẩu vào Đan Mạch chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch xuất khẩu đồ gỗ tinh chế và mỹ nghệ sang EU. Tỷ trọng 2002 đạt 25,23%, năm 2003 đạt 21,42%, tuy nhiên đã giảm trong hai năm tiếp theo2004, 2005 tương ứng với tỷ trọng là 19,41% và 14,75%.Đối với thị trường Đức, từ chỗ xuất khẩu chỉ đạt 246.510USD chiếm tỷ trọng 2,31% trong tổng kim ngạch xuất hẩu vào EU năm 2002 thì đến năm 2004 tỷ trọng này là 25,99% và năm 2005 đạt 24,01%. Như vậy, kim ngạc xuất khẩu vào thị trường Đức năm 2005 đã tăng lên 21 lần so với năm 2002. Có được điều này là nhờ sự cố gắng của tổng công ty trong việc tìm hiểu và khai thác thị trường Đức trong những năm vừa qua.
Bảng 7: Xuất khẩu gỗ dán- Ván- Gỗ tròn sang các thị trường
(Đơn vị: USD)
TT
Năm
2002
2003
2004
2005
1
Anh
62.052
0
0
12.650
2
Italia
0
61.247
0
47.252
3
Đức
0
0
0
24.056
Tổng
62.025
61.247
0
83.958
( Nguồn: Báo cáo XK-P. kế hoạch)
Đây là mặt hàng có giá trị xuất khẩu nhỏ nhất trong kim ngạch xuất khẩu gỗ và các sản phẩm gỗ của Tổng công ty. Hiện chỉ xuất khẩu được vào ba nước với giá trị không lớn, Hơn nữa đơn hang cũng không ổn định qua các năm. Đặc biệt trong năm 2004, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này là 0. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp vẫn chưa chủ động tìm hiểu thị trường. Hơn nũa, lượng gỗ tròn bị hạn chế, không đủ để xuất khẩu khi nhận được các hợp đồng lớn. Bên cạnh đó việc nhập khẩu gỗ tròn của các nước EU đòi hỏi phải xuất trình chứng chỉ rừng FSC và COC song các đơn vị than viên không đáp ứng được do đó đã bỏ lỡ nhiều hợp đồng có giá trị lớn. Tậm chí, tại một số nước như Anh, Hà Lan hội người tiêu dung đã quyết định tẩy chay các mặt hàng gỗ nếu không có chứng chỉ rừng bền vững.
Đối với mặt hàng gỗ dán- ván-gỗ tròn, Tổng công ty mới chỉ xuất khẩu được vào 3 quốc gia là Anh, Italia và Đức, các thị trường khác vẫn chưa khai thác được do chúng ta chưia thâm nhập được vào các kênh phân phối mà chủ yếu dựa vào các hợp đồng xuất khẩu hoặc qua các trung gian mà cũng không được ổn định. Mặt khác, đây là mặt hàng mà nhà nước không khuyến khích xuất khẩu vì giá trị gia tăng không lớn, do đó cũng hạn chế trong công tác xuất khẩu. Tuy nhiên, trong năm 2005 Tổng công ty đã xuất khẩu được vào cả 3 thị trường trên mặc dù giá trị xuất khẩu không lớn lắm.
Bảng 8: Xuất khẩu mặt hàng mây- tre- trúc sang các thị trường
(Đơn vị: USD)
TT
Năm
2002
2003
2004
2005
1
Pháp
30.370
44.043
106.474
37.588
2
Đức
57.026
0
2.002
0
3
Tây Ban Nha
15.126
24.915
0
0
4
Thuỵ Điển
42.984
0
0
0
Tổng
145.506
68.958
107.476
37.588
( Nguồn: báo cáo XK- P. kế hoạch)
Đối với mặt hàng mây- tre- trúc, thị trường xuất khẩu cũng còn rất nhỏ. Tổng công ty hiện nay chỉ xuất khẩu vào các thị trường là: Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển song giá trị kim ngạch xuất khẩu không đág kể và thường xuyên biến động. Nếu như năm 2002 tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này vào EU là 145.506 USD thì năm 2005 giảm xuống còn 37.588 USD, bằng 25,8% so với năm 2002 và chỉ xuất khẩu được vào Pháp.
Qua những phân tích ở trên, chúng ta thấy được EU là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Tổng công ty, nhất là với mặt hang đồ gỗ tinh chế và các sản phẩm mỹ nghệ vì tỷ trọng mặt hang này luôn chiếm hơn 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU. Tuy nhiên, công tác tìm hiểu thị trường EU, về thị hiếu tiêu dung cũng như kênh phân phối vào thị trường EU chưa thực sự được quan tâm đúng mức so với tiềm năng của thị trường này và so với vai trò của Tổng công ty. Do vậy, việc tìm hiểu kỹ thị trường EU và kênh phân phối của nó đóng vai trò hết sức quan trong và quyết định đến hiẹu quả xuất khẩu của toàn Tổng công ty.
Các đơn vị sản xuất hàng này tập trung chủ yếu ở miền Trung và miền Nam, đây là các đơn vị có dự án đầu tư mới và Đầu tư máy móc chế biến hang xuất khẩu. Đây cũng là nhữg đơn vị có nhận thức và chuyển hướng tốt từ việc sử dụng gỗ rừng tự nhiên Việt Nam sang gỗ nhập khẩu và đã tìm được nguồn gỗ nguyên liệu nhập khẩu khá ổn định tìư Indonexia, Solomong và Lào.
2.4. ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU VÀO EU CỦA VINAFOR
2.4.1. Những kết quả đạt được
- Về kim ngạch xuất khẩu: Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên qua các năm từ 2002 đến nay. Điều này chứng minh rằg về chiến lược quy hoạch vùng đầu tư trọng điểm cho ngành chế biến gỗ của Vinafor là đúng đắn.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất là thị trường Anh, Pháp, Hà Lan. Ngoài thị trường truyền thống, Vinafor cũng đã bước đầu thâm nhập tốt vào một số thị trường EU thong qua hình thức kí hợp đồng Lixăng với các nước này, đặc biệt là ở các thị trườn Đan Mạch, Đức… đã duy trì được kim ngạch xuất khẩu khá ổn định và có xu hướng tăng lên trong tương lai.
Tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp dần tăng lên. Trước đây các đơn vị chủ yếu là kí hợp đồng gia công, chế biến với một số công ty lớn, có tên tuổi trên thế giới trong lĩnh vực chế biến và phân phối đồ mộc như: Eloc Hansson, Ikia… nên giá trị gia tăng không cao mà lại bị phụ thuộc nhiều, cạnh tranh nội bộ giữa các đơn vị chế biến cao. Hiện nay, bằng các công tác xúc tiến thương mại, tham gia hội chợ, triển lãm chuyên ngành lớn được tổ chức ở Châu Âu, thương mại điện tử… nên một số đơn vị chế biến đã có văn phòng đạ diện tại EU, từng bước thâm nhập vào kênh phân phối, hệ thống bán hàng qua các siêu thị đồ mộc lớn ở EU và bước đầu tự chủ được khách hang của mình, không bị phụ thuộc nhiều vò một, hai khách hàng.
Điều đáng nói là nhiều đơn vị có doanh thu lớn xuất phát từ chính sản xuất và sản phẩm của mình, khẳng định tính ổn định, bền vững trong phát triển như:
+ xí ngiệp chế biến gỗ Cẩm Hà: kim ngạch xuất khẩu 17,8 triệu USD và doanh thu là 280 tỷ đồng.
+ Công ty cổ phần Vinafor Đà Nẵng kim ngạch xuất khẩu 4,35 triệu USD, doanh thu là 139 tỷ đồng.
+ Công ty Lâm nghiệp 19: kim ngạch xuất khẩu 4,16 triệu USD và doanh thu là 80,36 tỷ đồng.
+ Công ty MDF Gia Lai doanh thu đạt 196,88 tỷ đồng.
+ Công ty sản xuất và nhập khẩu lâm sản Sài Gòn kim ngạch xuất nhập khẩu là 17,8 triệu USD và doanh thu là 290 tỷ đồng
Về cơ sở chế biến gỗ: Đã hình thành một số khu vực chế biến gỗ xuất khẩu tập trung. Có 7 cơ sở chế biến gỗ ở miền Trung và 4 cơ sở chế biến gỗ ở miền Nam. Ngoài ra, còn ở các vùng lân cận Buôn Ma Thuột, Đắc Nông, Quy Nhơn; khu vực miền Trung có Vinh, Quảng Trị và Đà Nẵng.
Điều này tạo ra năng lực sản xuất hàng hoá xuất khẩu lớn, chuyên môn hoá cao, thuận tiện cho khách hàng đồng thời cũng giảm chi phí cho Vinafor.
Về chủng loại hàng hoá xuất khẩu: Sản phẩm gỗ xuất khẩu từ chỗ chỉ là sản phẩm thô ( gỗ tròn, gỗ xẻ ) đã phát triển lên một trình độ gia công cao hơn, áp dụng công nghệ tẩm, sấy, gia công bề mặt… Xuất khẩu sản phẩm hoàn chỉnh, sản phẩm có giá trị tăng them về công nghệ và lao động. Góp phần thực hiện chủ trương của Nhà nước là khuyến khích xuất khẩu các sản phẩm gỗ và nội thất đã qua chế biến và có giá trị gia tăng cao, giảm các sản phẩm gỗ chưa qua chế biến… Sản phẩm ngày càng được cải thiện về mẫu mã, kiểu dáng và chất lượng nhờ đội ngũ công nhân lành nghề và tiếp thu nhanh phong cách hiện đại.
Các đơn vị chế biến lớn như: Xí nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu Cẩm Hà, công ty sản xuất và xuất khẩu lâm sản Sài Gòn… đã quan tâm và đầu tư nhiều đến công tác nghiên cứu và phát triển (R&D). Vì vậy, hàng năm các đơn vị này luôn có những mẫu mã mới được đưa vào sản xuất và được khách hàng đánh giá cao. Các loại sản phẩm của các đơn vị này hiện naycó tỷ rọng gỗ chiếm trong đó không còn cao như các sản phẩm truyền thống, một phần tỷ trọng gỗ đã được thay thế bằng nhôm thép, vải… Sự kết hợp hài hoà này đã làm tăng giá trị gia tăng trong các sản phẩm, tăg độ bền và hình thức kiểu dáng.
Có được những thành công đó là nhờ Tổng công ty đã đổi mới thiết bị và dây chuyền hiện đại tại một soó đơn vị và phát triển nguồn nhân lực. Tuy mới chỉ là bước đầu nhưng những nỗ lực này đã gặt hái được những kết quả khả quan về kim ngạch và thị trường.
2.4.2. Những hạn chế và khó khăn.
2.4.2.1. Hạn chế và khó khăn:
Mặc dù kết quả như đã trình bày ở trên đã thể hiện một buớc chuyển mình lớn của Vinafor nhưng như thế vẫn chưa đủ, trong quá trình phát triẻn của Vinafor vẫn đang tồn tại nhiều vấn đề và có muôn vàn khó khăn cần phải khắc phục và vượt qua trong thời gian tới. Cụ thể như sau:
- Vẫn chưa thâm nhập được một cách chủ động vào cac thị trường. Nếu không có sự đầu tư hơn nữa từ khâu nguyên liệu đến khâu chế biến đặc biệt là công tác xúc tiến thương mại và tị trường thì các thị trường này vẫn còn rất hẹp với Vinafor.
- Một số sản phẩm của Tổng công ty vẫn chưa đáp ứng đuợc các yêu cầu khắt khe về kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng và an toàn của thị trường EU- một thị trường được coi là khó tính trong vấn đề này. Vì độ ẩm không khí của nước ta rất cao so với Châu Âu, do vậy gặp khó khăn trong việc xử lý nguyên liệu, bảo quản thành phẩm để tránh cho snr phẩm không bị nứt, vỡ, cong, vênh, giữ được chất lượng và hình dáng khuôn mẫu ban đầu. Để làm được điều này đòi hỏi các đơn vị phải đầu tư để nâng cao cả thiết bị lẫn quy trình công nghệ. Thế nhưng, hiện tại đa số các đơn vị đang sử dụng các công nghệ chế biến cũ kĩ lạc hậu của các năm 80, thiếu công nghệ chế biến hiện đại, việc đỏi mới mang tính thụ động, tình huống là chính nên việc đổi mới gặp nhiều khó khăn.
- Nhiều đơn vị chế biến gỗ không đáp ứngđược nhu cầu của khách hàng về số lượng sản phẩm do thiếu nguyên liệu để sản xuất. Xuất khẩu còn nhỏ và manh nhúm. Số đơn vị tham gia vào hoạt động xuất khẩu chưa nhiều. Hầu hết các đơn vị xuất khẩu qua trung gian, xuất khẩu uỷ thác, thường là qua các nươc như Đài Loan, Hồng Kông, Singappore… rồi mới đến được thị trường EU, do đó nhãn mác cũng là nhãn mác của nhà nhập khẩu . Bên cạnh đó nhiều đơn vị cũng khôn đáp ứng được yêu cầu về chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001:2000 do đó đành chấp nhận làm hàng gia công cho các đơn vị khác.
- Hiện nay hầu hết các khách hàng nhập khẩu đồ gỗ của EU đều đòi hỏi các nhà xuất khẩu phải xuất trình chứng chỉ rừng FSC nhằm xác minh tính hợp pháp của nguồn gỗ và chứng chỉ COC có lien quan đến vấn đề bảo vệ rừng. Thế nhưng, rất ít đơn vị nhập được nguyen liẹu có chứng chỉ nàylàm ảnh hưởng đến công tác xuất khẩu. Nhiều đơn vị chế biến gỗ đã ý thức được vấn đề này và mong muốn xây dựng được chứng chỉ rừng COC song hàng loạt vấn đề đang đặt ra là mức chi phí để xây dựng chứng chỉ lên tới 10.000 USD và cứ 6 tháng, việc kiểm tra chứng chỉ lại được tổ chức kiểm tra thực hiện một lần. Điều này vượt quá khả năng tài chính của doanh nghiệp.
- Các đơn vị chế biến gỗ đóng Tại miền Bắc có năng lực yếu kém, mặc dù một số đơn vị đã được đầu tư cả dây chuyền thiết bị hiện đại nhưng do hạn chế về năng lực lãnh đạo, tay nghề công nhân kém,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 19.doc