Lời nói đầu tr 2
PHẦN I : CƠ SỞ LÍ LUẬN
1. Tầm quan trọng của xuất khẩu đối với quá trình phát triển
Kinh tế
A) Tầm quan trọng của hoạt động xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế tr.3
B) Nhiệm vụ của xuất khẩu tr.5
C).Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu tr.6
2. Nội dung hoạt động xuất khẩu tr.10
A) Lập phương án kinh doanh tr.10
B) Tổ chức nghiên cứu thị trường tr.11
3. Sự cần thiết của việc thiết lập và phát triển mối quan hệ thương mại với Hoa Kì của Việt Nam. tr.15
A) Vai trò của thị trường Hoa Kỳ trong thương mại toàn cầu tr.16
B) Sự cần thiết của việc thiết lập và phát triển mối quan hệ thương mại với Hoa Kỳ của Việt Nam tr.17
PHẦNII :THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KÌ. tr.21
1. Động thái thương mại Việt Nam Hoa Kỳ. tr.21
a) Giai đoạn cấm vận kinh tế
53 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 804 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ: Thực trạng và một số kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam để sản xuất hàng hoá sau đó xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Việt Nam có thế mạnh trong sản xuất nhiều mặt hàng mà thị trường Mỹ có nhu cầu lớn như dệt may, thuỷ hải sản, giày dép, cà phê. Mỹ là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn nhất thế giới với nhu cầu hàng năm lên tới gần 100 tỷ USD , trong đó hơn 50% được nhập khẩu từ bên ngoài. Hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ rất đa dạng chủng loại , và có nhiều mẫu mã chủng loại phù hợp với trình độ sản xuất của Việt Nam . Bên cạnh đó Mỹ là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn thứ hai trên thế giới sau Nhật Bản với giá trị nhập khẩu hàng năm gần 60 tỷ USD .Thuỷ sản là một trong những mặt hàng được Mỹ khuyến khích nhập khẩu ( thuế xuất là 0%) . Thị trường Mỹ ngày càng tỏ ra hấp dẫn đối với thuỷ sản Việt Nam . Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong văn 2000 đạt 307 triệu USD và trong năm 2001 đạt gần 400 triệu USD. Giầy dép cũng là một mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh, nhưng hiện nay giá trị xuất khẩu mặt hàng này mới chỉ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trên thị trường Mỹ. Hàng năm Mỹ nhập khẩu hơn 15 tỷ USD nhập khẩu giày dép và đâu là một thị trường đầy tiềm năng cho Việt Nam, hy vọng sẽ tăng thị phần ở Mỹ lên 10% . Ngoài ra thị trường Mỹ còn là thị trường tiềm năng với rất nhiều mặt hàng khác nữa mà Việt Nam nên khai thác triệt để..
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là kết quả của những nỗ lực không ngừng từ hai phía. Nó đáp ứng được lòng mong mỏi của nhân dân hai nước, cụ thể là giới kinh doanh, tạo ra cơ sở pháp lí cho quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước phát triển trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Phần II : Thực trạng xuất khẩu hàng hoá
Việt Nam sang thị trường Hoa Kì
1. Động thái thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
Nhìn từ góc độ lịch sử, quan hệ thương mại Việt Mỹ đã bắt đầu từ cách đây hơn 150 năm, với những thương vụ lẻ tẻ. Và cho đến 4/1975 Mỹ cũng chỉ có quan hệ kinh tế với chính quyền Sài Gòn cũ thông qua các khoản viện trợ chiến tranh. Khối lưọng giao dịch thương mại không lớn, chủ yếu là một số hàng nhập khẩu sang Mỹ: cao su, gỗ, hải sản, đồ gốm... với số lượng khiêm tốn. Chỉ sau ngày tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam và đặc biệt là đối với sự kiện Việt Mỹ bình thường hoá mối quan hệ, mối giao thương giữa hai nước mới có điều kiện để phát triển.
a.Giai đoạn cấm vận kinh tế.
Mặc dù lệnh cấm vận kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam kéo dài 30 năm (từ 5/1964 đến 2/1994), song thông qua con đường gián tiếp và không chính thức, Việt Nam vẫn có quan hệ kinh tế và buôn bán với nhiều tổ chức kinh tế phi chính phủ của Mỹ. Một số công ty Mỹ thông qua trung gian cũng đã đưa được hàng xuất khẩu vào Việt Nam. Theo số liệu của Bộ Thương Mại Mỹ năm 1987, Mỹ xuất sang Việt Nam 23 triệu USD hàng hoá, năm 1988 là 15 triệu USD và năm 1989 là 11 triệu USD. Còn theo số liệu thống kê của Việt Nam, trong cả thời kì 1986-1989 xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ gần như bằng không. Song bước sang thập kỉ 90, tình hình đẵ có những chuyển biến nhất định. Năm 1990, Việt Nam đã xuất sang Mỹ một lượng hàng trị giá khoảng 5.000 USD, tăng lên 9.000 USD vào năm 1991, 11.000 USD vào năm 1992 và lên tới 58.000 vào năm 1993. Về nhập khẩu trong 3 năm 1991-1993, giá trị hàng hoá Mỹ nhập vào Việt Nam đã đạt gần 7 triệu USD so với 5 triệu USD của cả thời kì 1986-1990.
b. Giai đoạn sau cấm vận kinh tế.
Ngày 3-2-1994, Tổng thống Mỹ B.Clinton chính thức tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Tiếp đó Bộ Thương Mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (gồm Bắc Triều Tiên, Cuba và Việt Nam) lên nhóm Y - ít hạn chế thương mại hơn (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia,Việt Nam cùng một số nước thuộc Đông Âu và Liên Xô cũ). Bộ Vận tải và Bộ Thương mại Mỹ cũng đã bãi bỏ lệnh cấm tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam, đồng thời cho phép các tàu mang cờ Việt Nam được cập các cảng Mỹ.
Ngay sau khi lệnh cấm vận được bãi bỏ, các hãng lớn của Mỹ với sự chuẩn bị từ trước, thông qua các chi nhánh của mình tại các nước trong vùng, đã lập tức tung sản phẩm của mình vào thị trường Việt Nam. Các sản phẩm của hãng Coca-Cola, Pepsi-Cola, Kodak tràn ngập thị trường Nam và Bắc Việt Nam, còn các hãng như Mobil, IBM, General Motor, Microsoft, Esso... ngay lập tức đã kí kết các hợp đồng khai thác và cung cấp các thiết bị có giá trị lớn với các đối tác Việt Nam. Tổng giá trị đầu tư của Mỹ vào Việt Nam từ con số không đến hết tháng 5-1997 đã đạt 1,2 tỷ USD cho 69 dự án, khiến Mỹ trở thành nhà đầu tư lớn thứ 6 ở Việt Nam tại thời điểm này, đứng trên cả những nước đã có mặt tại Việt Nam từ trước như Pháp, Anh, Đức...
Năm 1997 đánh dấu những bước tiến quan trọng trong quan hệ giữa hai nước với việc Việt Mỹ thoả thuận thiết lập quan hệ song phương về bản quyền để tạo điều kiện cho các loại sản phẩm trí tuệ có mặt tại thị trường Việt Nam. Đây cũng là năm các Bộ trưởng tài chính của hai nước đã thay mặt Chính phủ của mình kí Hiệp định về xử lí khoản nợ 145 triệu USD của chính quyền Sài Gòn cũ. Song sự kiện đáng chú ý nhất lại là việc Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngài Pete Peterson nhậm chức vào ngày 9-5-1997. Đây là những bứơc tiến quan trọng để hai nước tiến tới kí Hiệp định thương mại và bình thưòng hoá hoàn toàn về kinh tế.
Tiếp theo, năm 1999 hai nước kí thoả thuận sơ bộ về hiệp định Thương mại và chính phủ Mỹ tuyên bố ngừng áp dụng Tu chính án Jackson Vanik đối với Việt Nam, đã khích lệ các nhà kinh doanh yên tâm và vững tin vào triển vọng bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ.
Tháng 7-2000, Hiệp định Thương mại được kí kết giữa Việt Nam với Hoa Kỳ,và chính thức được hai bên thông qua vào tháng 11-2001. Quan hệ thương mại giữa hai nứơc bước sang một trang mới, sáng sủa hơn và đầy triển vọng.
2. Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ.
a. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Trước khi bình thường hoá quan hệ vào năm 1995, kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ rất thấp và chiếm một tỷ trong nhỏ trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Năm 1990, Việt Nam bắt đầu có những lô hàng đầu tiên xuất sang Mỹ với lượng giá trị hàng hoá khoảng 5.000 USD, con số này tiếp tục tăng lên gần gấp đôi, 9.000 USD vào năm 1991; 11.000 USD vào năm 1992 và năm 1993, chỉ ngót một năm trước khi lệnh cấm vận của Mỹ với Việt Nam được chính thức bãi bỏ, giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã tăng lên 58.000 USD. Nhưng ngay sau khi hai nước chính thức bình thường hoá quan hệ, quan hệ thương mại song phương giữa hai nước sôi động hẳn lên và tăng lên rất nhanh mặc dù còn không ít những trở ngại.(bảng 1)
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ (1994-2000).
Đơn vị : Triệu USD.
Năm
Chỉ tiêu
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch XK sang HK
50,4
169,7
204,2
286,7
468,6
504
732,4
Tổng kim ngạch XK của VN
4.054,3
5.448,9
7.255,9
9.185
9.361
11.523
14.308
Tỷ trọng so với tổng kim ngạch XK (%)
1.2
3,1
4,4
3,1
5,0
4,4
5,1
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000, Bộ Thương mại.
Sau khi hủy bỏ lệnh cấm vận, hàng hoá Việt Nam mới chính thức được thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ và ngày càng gia tăng về giá trị qua các năm. Năm 1994, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ dừng ở 50,4 triệu USD, chiếm 1 tỷ trọng rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam: 1,2%. Giá trị xuất khẩu ngày càng tăng nhanh và 6 năm sau, năm 2000, kim ngạch xuất khẩu đã tăng gấp gần 15 lần, đạt 732,4 triệu USD, chiếm tới 5,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tuy nhiên, kết quả xuất khẩu trên mới chỉ phản ánh được những thành công bước đầu trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Hoa Kỳ hiện đang là một thị trường xuất khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam, có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Mức tiêu dùng của người Hoa Kỳ cao gấp hai lần người Nhật và bằng 1,6 lần người Châu Âu. Hiện nay, Hoa Kỳ đang là thị trường xuất khẩu quan trọng thứ 7 của Việt Nam. Trong khi đó, mặc dù là nước xuất siêu khi buôn bán với Mỹ nhưng Việt Nam chỉ chiếm một thị phần quá nhỏ bé trong thị trường Mỹ (0,05%), đứng số 76 trong tổng số các nước và lãnh thổ buôn bán với Mỹ, so với các nước trong khu vực Châu á thì tỷ lệ này là 1,3% đối với Philippines, Thái lan 1,48%, Singapore 1,97% và Malaysia 2,07%...Năm 1997, mặc dù Việt Nam đã cố gắng nâng được tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với Hoa Kỳ lên trên 1,2 tỷ USD nhưng so với tổng giá trị buôn bán giữa ASEAN và Hoa Kỳ là 119 tỷ USD cũng trong năm đó thì Việt Nam mới chỉ chiếm 1% tổng giá trị buôn bán giữa ASEAN và Hoa Kỳ. Năm 1998, khả năng xuất khẩu của Việt Nam chỉ bằng 0,6% khả năng xuất nhập khẩu của ASEAN và Hoa Kỳ.(bảng 2)
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu của các nước ASEAN với Hoa Kỳ
Đơn vị: triệu USD
STT
Nước
XK từ ASEAN sang Hoa Kỳ
1997
1998
1
Malaysia
18.027
19.001
2
Singapore
20.075
18.357
3
Thái lan
12.602
13.434
4
Philippin
10.445
11.949
5
Indonesia
9.188
9.338
6
Việt Nam
389
553
7
Bruney
56
221
8
Mianma
115
164
9
Lào
14
21
Tổng số
70.911
73.028
Nguồn:US Department of commerce,trích lại từ Châu Mỹ ngày nay số 5/200
Như vậy, rõ ràng là quan hệ thưong mại giữa hai nước còn chưa tương xứng với tiềm năng dồi dào của nó và chưa đáp ứng được lòng mong mỏi của giới kinh doanh và nhân dân hai nước.
b. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ của Việt Nam chủ yếu là nông - lâm - thuỷ sản chế biến, hàng dệt may, giày dép và dầu thô.Cơ cấu mặt hàng đang có sự thay đổi. Trong những năm đầu xuất khẩu, các mặt hàng thuộc nhóm hàng nông - lâm - thuỷ sản chiếm tới hơn 70% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong những năm gần đây, tỷ trọng xuất khẩu của nhóm hàng giày dép, dệt may và khoáng sản có bước chuyển biến tích cực, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước (bảng 3).
Bảng 3: Các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam sang Hoa Kỳ.
Đơn vị : Triệu USD.
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch
Tỷ
Trọng
(%)
Kim ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Kim ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Kim ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Kim ngạch
Tỷ
trọng
(%)
Thuỷ sản
33,86
16,6
42,5
14,8
81,55
17,4
125,6
24,9
304,4
41,6
Dầu thô
80,6
39,5
34,6
12,1
79,22
16,9
99,6
19,8
91,4
12,5
Cà phê
109,5
53,6
90
24,2
125,1
24,1
59,21
9,8
69,93
9,5
Dệt may
19,74
9,7
20
7,0
26,34
5,6
34,7
6,9
49,57
6,8
Gạo
5,82
2,9
63,5
17,1
39,03
7,5
4,95
1,0
10,66
1,5
Rau quả
7,6
3,7
11,6
4,0
2,6
0,6
3,2
0,6
5,0
0,7
Tổng KNXK sang HK
204,2
100
286,7
100
468,6
100
504
100
732,4
100
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2000, Bộ Thương mại.
Từ những số liệu trên đây ta thấy, riêng mặt hàng thuỷ sản là có giá trị xuất khẩu tăng đều qua các năm và chiếm tỷ trọng khá lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ, trong khi các mặt hàng khác như dầu thô, cà phê, gạo và rau quả có xu hướng không ổn định.
Mặt hàng thuỷ sản.
Hoa Kỳ là thị trường lớn của thế giới về thuỷ sản. Kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt nam sang Hoa Kỳ tăng liên tục trong những năm qua, từ 33,86 triệu USD năm 1996 (chiếm 16,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ) lên tới 304,359 triệu USD năm 2000 (chiếm 41,6%), đưa thị trường Hoa Kỳ trở thành thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai sau Nhật Bản. Sở dĩ mặt hàng thuỷ sản ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ vì một mặt Việt Nam có điều kiện tự nhiên rất thuận lợi để nuôi trồng thuỷ sản ( bờ biển dài, vùng biển có năng lực tái sinh học cao, tương đối sạch và nhiều cửa sông, lạch,v.v...). Mặt khác, một số mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào thị trường Hoa Kỳ được miễn thuế nhập khẩu, cho dù được xuất khẩu từ một nước chưa được hưởng quy chế tối huệ quốc hay hệ thống ưu đãi thuế quan chung như Việt Nam. Mặt hàng thuỷ sản được thị trường Hoa Kỳ ưa chuộng nhất là tôm sú, cá basa, cá tha, cá ngừ, cá cờ, cá kiếm. Tuy nhiên, do những hạn chế về trình độ quản lý cũng như trình độ công nghệ mà việc khai thác và nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua đã không đạt dược những hiệu quả như mong muốn. Việc xuất khẩu hải sản sang thị trường này phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt về vệ sinh an toàn thực phẩm của văn phòng hải sản thuộc cơ quan Quản lý thực phẩm và thuốc bệnh (FDA) thuộc Bộ Y tế Hoa Kỳ. Các quy định tập hợp thành bộ tài liệu HACCP và đã được Bộ hải sản Việt Nam phổ biến đến các công ty hải sản của ViệtNam áp dụng trong quá trình xin phép xuất khẩu hải sản vào Hoa Kỳ. Do đó , triển vọng tăng xuấ khẩu hải sản , nhất là tôm, vào thị trường này là khá lớn , nếu vấn đề vệ sinh thực phẩm được quan tâm
Mặt hàng dầu thô.
Đến năm 1996, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô sang Hoa Kỳ. Nhưng ngay trong năm này, kim ngạch xuất khẩu dầu thô đã đạt 80,6 triệu USD (chiếm 39,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ), đứng vị trí thứ hai sau cà phê trong danh mục các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Trong hai năm tiếp theo, do giá dầu trên thế giới giảm mạnh, xuất khẩu về dầu thô sang Hoa Kỳ giảm cả về giá trị và tỷ lệ (năm 1997 đạt 34,6 triệu USD, chiếm 12,2 %; năm 1998 đạt 79,22 triệu USD, chiếm 16,9%). Trong hai năm trở lại đây, do giá dầu thô trên thị trường thế giới tăng mạnh, trong khi các nước xuất khẩu dầu mỏ OPEC quyết định cắt giảm sản lượng dầu khai thác, giá trị xuất khẩu dầu thô của Việt Nam đạt tới 91,37 triệu USD năm 2000, chiếm 12,5% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu dầu thô của Việt Nam sang Hoa Kỳ còn còn chiếm tỷ trọng quá khiêm tốn so với khả năng thăm dò khai thác dầu khí còn non trẻ và đầy triển vọng của Việt Nam, so với nhu cầu nhập khẩu dầu thô hàng năm của Mỹ (lên tới 78 tỷ USD), so với tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (chỉ chiếm 4,9% năm 1999).
Mặt hàng dệt may.
Hoa Kỳ là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu mặt hàng may mặc. Hàng năm Hoa kỳ nhập khẩu khoảng 50-60 tỷ USD hàng may mặc và hàng dệt. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang thị trường Hoa Kỳ tăng dần lên qua các năm, tăng từ 19,74 triệu USD năm 1994 (chiếm 9,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ) lên tới 26,34 triệu USD năm 1998 (chiếm 5,6%) và đạt 49,57 triệu USD năm 2000 (chiếm 6,8%). Giá trị xuất khẩu hàng dệt may tăng đều lên trong các năm qua đã chứng tỏ hàng dệt may của Việt Nam đang được thị trường Hoa Kỳ tiếp nhận và có nhiều hứa hẹn, mặc dù còn nhỏ bé so với tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước trong khu vực như Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Kông (chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào thị trường Hoa Kỳ). Một trong những đặc diểm của ngành dệt may Việt Nam là trong vòng 10 năm qua là các công ty Việt Nam chủ yếu làm gia công cho các công ty nước ngoài, lấy công làm lãi , phần lớn nguyên phụ liệu là do các công ty nước ngoài đưa vào , một phần là do nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được hoặc chất lượng thấp. Còn lượng hàng các công ty may xuất khẩu vủa ViệtNam tự lo nguyên liệu, bán thành phẩm còn rất hạn chế. Đây cũng là tình hình chung của các nước như Hàn Quốc, Đầi Loan, Thái Lan Cho đến nay, kim ngạch dệt may trong tình hình xuất khẩu chung của Việt Nam vào Hoa Kỳ đã tăng nhanh hơn các mặt hàng khác. Theo dự đoán, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này có thể tăng nhanh khi Hiệp định thương mại đưa vào hoạt động . Thời gian đầu khi hiệp địnhcó hiệu lực, mặt hàng này không bị khống chế bởi hạn ngạch nên các doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội dể mở rộng thị trường . Theo nhiều chuyên gia , ngay trong một vài năm đàu tiên, nếu được chuẩn bị tốt, khim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Namvào Mỹ có thể lên toéi gần 1 tỷ USD/năm. Nhưng sau đó , Mỹ sẽ áp dụng hạn ngạch đối với mặt hàng này . Do đó , dự đoán vào năm 2005 , kinh ngạch chỉ có thể đạt mức tối đa là 1,5 tỷ USD
Mặt hàng gạo
Hoa Kỳ hiện đang là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba trên thế giới sau Thái Lan và Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ vẫn nhập khẩu gạo để tái xuất khẩu hay để thực hiện những hợp đồng về viện trợ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự tăng giảm bất thường trong hoạt động nhập khẩu gạo từ Việt Nam của Hoa Kỳ. Bên cạnh việc hạn chế về chất lượng gạo xuất khẩu: ít được chế biến, hạn chế ở các khâu sấy và bảo quản, các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường Hoa Kỳ nên chưa có được các bạn hàng tin cậy, thường phải xuất khẩu qua trung gian nên không chủ động được trong tiêu thụ. Sở dĩ giá trị xuất khẩu gạo sang Hoa Kỳ năm 1999 giảm một cách đột ngột so với năm 1998 (từ 39,03 triệu USD xuống chỉ còn 4,5 triệu USD) chủ yếu do giá gạo trên thị trường thế giới giảm mạnh gây bất lợi cho hoạt động xuất khẩu.Vì vậy, các nhà xuất khẩu hạo của ViệtNam cần đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và thấy rằng thị trường nhập khẩu gạo của Hoa Kỳ vẫn cón rộng mở đối với Việt Nam. Nếu muốn chiếm được thị trường này thì phải nâng cao chất lượng gạo, đặc biệt chú trọng khai thác gạo dặc sản như tám thơm, nàng hương . Hoa Kỳ cũng rất chú trọng yếu tố về thời gian giao hàng , đây cũng là yếu tố cạnh tranh trong các hợpđộng xuất khẩu gạo của Hoa Kỳ
Mặt hàng rau quả.
Mặc dù là nước có nền nông nghiệp lớn trên thế giới và có nhiều loại rau quả với sản lượng lớn, nhưng Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu rau quả lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ nhập khẩu hầu hết các loại rau quả tươi, bảo quản lạnh và chế biến (bình quân nhập khẩu 2 tỷ USD/năm). Trong những năm gần đây, mặc dù kim ngạch xuất khẩu hoa quả của Việt Nam sang Hoa Kỳ có xu hướng tăng lên, nhưng chưa nhiều (mới chỉ đạt 5 triệu USD năm 2000) và chưa thật ổn định. Sở dĩ kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ từ 11,6 triệu USD năm 1997 xuống còn 2,8 triệu USD năm 1998 là do ảnh hưởng một phần của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đã làm cho đồng tiền của Việt Nam mất giá so với USD Mỹ. Mặt khác do khả năng cạnh tranh của hàng rau quả Việt Nam chưa cao, giá cả và chất lượng chưa thực sự phù hợp với yêu cầu của ngưòi tiêu dùng. Mặt khác, do các đối thủ cạnh tranh như Philippines, Indonesia, Thailand là những nước được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ, do đó thuế suất đánh vào mặt hàng rau quả nhập khẩu vào Hoa Kỳ của họ thấp hơn rất nhiều so với thuế suất đánh váo hàng Việt Nam. Các mặt hàng rau quả xuất khẩu sang Hoa Kỳ chủ yếu là dứa (chiếm tới hơn 90% trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả) và một số mặt hàng khác như long nhãn, dừa đông lạnh, đu đủ.v.v...
Ngoài những mặt hàng kể trên, các mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của Việt Nam sang Hoa Kỳ là giầy dép, tất, sản phẩm nhựa và cao su...
Như vậy, kể từ khi Hoa Kỳ chính thức xoá bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hàng hoá của Việt Nam đã được xuất khẩu sang thị trường này với tốc độ tăng trưởng khá. Các mặt hàng và các đối tác tham gia xuất khẩu cũng không ngừng được mở rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được thì xuất khẩu của ta sanh Hoa Kỳ còn nhiều hạn chế bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, yêu cầu Nhà nước và các doanh nghiệp cần phải có các giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu sang thị trường này trong thời gian tới.
3. Những vấn đề đặt ra từ việc xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang
Hoa Kỳ.
Những thành công đạt được.
Mặc dù thị trường Hoa Kỳ là thị trường tương đối mới mẻ và được đánh giá là dường như quá rộng lớn và phức tạp đối với các doanh nghiệp Việt Nam nhưng trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành công đáng khích lệ.
Trước hết cần ghi nhận sự gia tăng nhanh chóng cả về số lượng và giá trị các mặt hàng thâm nhập được vào thị trường Mỹ. Đạt được kết quả như vậy, một mặt do phía Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu một số mặt hàng miễn thuế vào Hoa Kỳ như cà phê, chè, nông sản, hải sản và một số mặt hàng có thuế suất thấp như hàng may mặc. Mặt khác, hàng hoá Việt Nam đã được cải tiến theo hướng nâng cao khả năng cạnh tranh khi tham gia vào thị trường Hoa Kỳ - một thị trường có tính cạnh tranh quyết liệt nhất với sự có mặt của hàng hoá từ khắp nơi trên thế giới
Kinh nghiệm thâm nhập thị trường nước ngoài nói chung và thị trường Mỹ của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng lên đáng kể biểu hiện qua kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng lên không ngừng.
Một ưu điểm nữa là các doanh nghiệp Việt Nam đang dần dần đứng vững trên thị trường Mỹ và từng bước thâm nhập sâu hơn vào thị trường này. Nếu như trước cấm vận, các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể đưa hàng hoá vào thị trường Mỹ thông qua một nước trung gian thì trong giai đoạn tiếp theo đã có nhiều hình thức như bán hàng trực tiếp cho các nhà nhập khẩu Mỹ, tiến hành liên doanh, liên kết với nước ngoài,thực hiện gia công cho các đơn đặt hàng của Mỹ, dựa vào những nhà nhập khẩu từ nước thứ ba...Các doanh nghiệp Việt nam ngày càng tham gia nhiều vào các hội chợ, triển lãm quốc tế, nhất là được tổ chức tại Mỹ, thành lập các văn phòng đại diện tại Mỹ...
Việc thâm nhập thị trường Mỹ còn giúp các doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, thu hút được các công nghệ tiên tiến, học tập kinh nghiệm quản lý, nâng cao uy tín và khả năng thâm nhập thị trường ở nhiều cấp độ hàng hoá khác nhau, từ phổ thông tới cao cấp. Từ đó sẽ giúp ích cho họ trong việc tăng hiệu quả kinh doanh không chỉ trên thị trường Mỹ.
Những mặt hạn chế.
Bên cạnh những mặt làm được, hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Mỳ thời gian qua còn có rất nhiều mặt hạn chế. Thứ nhất, mặc dù có sự gia tăng về số lưọng và giá trị mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ nhưng nhìn chung qui mô hàng hoá Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ còn nhỏ bé, chưa tương xứng với khả năng của Việt Nam và qui mô của thị trường Mỹ.Tuy vị trí xếp hạng có nhiều tiến bộ, nhưng Hoa Kỳ chỉ xếp thứ 6 trong các thỉtường xuất khẩu lớn nhất của Việt nam(Theo số liệu thống kê của Bộ thương mại năm 1998). Năm 200, mặc dù Việt nam đã cố gắng nâng được tổng giá trị ngoại thương với Hoa Kỳ lên trên 1,2 tỷ USD nhưng nếu so với từng nước trong khu vực thì vị trí của Việt Nam còn khiêm tốn, chỉ chiếm 5,07% tổng khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Hàng hoá của Việt Nam chỉ chiếm một phần rất nhỏ so với nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ. Ví dụ như hàng giầy dép , năm 2000 tỷ trọng xuất khẩu chiếm tới 28% tổng giá trị nhập khẩu nhưng chỉ chiếm 0,1% nhu cầu nhập khẩu của thị trường Hoa Kỳ. Thuỷ sản năm 1999, cũng chỉ chiếm 0,55 trên thị trường Mỹ. Trong khi đó đối với một số nước trong ASEAN thì Mỹ là thị trường xuất khẩu quan trọng nhất.(bảng 4)
Bảng 4: Vị trí và tỉ lệ của Hoa Kỳ trong giá trị xuất khẩu của 4 nước ASEAN năm 1999
Tên nước
Tổng giá trị XK (triệu USD)
Vị trí và tỷ lệ
Số 1
Tỷ lệ (%)
Số 2
Tỷ lệ (%)
Singapore
114.723
Mỹ
19,2
Malaysia
16,6
Malaysia
84.302
Mỹ
23
Singapore
17
Indonesia
55.979
Nhật Bản
19,7
Mỹ
16,5
Philippin
32.706
Mỹ
35,3
Nhật Bản
14,3
Nguồn: ADB, trích lại từ Tạp chí Kinh tế Châu á -TBD số 4/99
Thứ hai, hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu là mặt hàng thô, mức độ gia công chế biến trong nước thấp, các mặt hàng sử dụng nhiều lao động, hàm lượng công nghệ, chất xám thấp. Về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm của ta lại chưa cao, trong một số trường hợp không đáp ứng được các tiêu chuẩn kiểm định ngặt nghèo của Mỹ nên đã bị tái xuất, hoặc chưa hấp dẫn được người tiêu dùng.Việc đổi mới kiếu dáng, chủng loại sản phẩm ít được các doanh nghiệp quan tâm, chú trọng. Mỹ là một thị trường đòi hỏi cao và nghiêm ngặt về chất lượng hàng hoá. Đây là một khó khăn cơ bản của các doanh nghiệp Việt Nam khi thâm nhập thị trường này.Các doanh nghiệp Việt Nam là những người đến sau so với các đối thủ khác trên thị trường, khả năng cạnh tranh còn thấp, còn chịu ảnh hưởng quá lâu của cơ ché cũ nên việc xâm nhập các thị trường mới còn lúng túng. Viẹc thành lập các chi nhánh các đại diện, sử dụng hình thức đại lý bán hàng thiết lập mạng lưới phân phối riêng cho daong nghiệp trên thị trường Mỹ còn rất hạn chế. Theo Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam thì trong 2 ngành mà Việt Nam có khả năng thâm nhập mạnh nhất vào thị trường Mỹ là dệt may và thuỷ sản thì tỷ lệ doanh nghiẹp có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường Mỹ rất thấp. Cụ thể chỉ có khoảng 50 trong tổng số 300 thành viên của Hiệp hội dệt may và 60-70 trong tổng số hàng trăm thành viên của ngành thuỷ sản là có được năng lực này
Thứ ba, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Quá trình thâm nhập vào thị trường Mỹ đã bộc lộ ra các điểm còn yếu của các doanh nghiệp Việt Nam. Đó là quy mô về vốn, năng lực sản xuất, khả năng thu gom hàng của các doanh nghiệp còn nhỏ, thấp và khả năng liên kết giữa các doanh nghiệp còn kém nên khó đáp ứng được các đơn đặt hàng của các doanh nghiệp Mỹ vốn luôn lớn về số lượng lại đòi hỏi thời gian giao hàng rất ngắn. Do đó dẫn đến việc các doanh nghiệp thường bị ép giá, giao hàng không đúng thời hạn, không đúng thời điểm (mùa vụ).
Thứ 4: Quan hệ kinh tế – thương mại Việt Mỹ còn chịu ảnh hưởng của những yếu tố chính trị bất lợi do một số thế lực thù địch ở Mỹ tạo ra. Dẫn chứng là gần đây đồng thời với việc phê chẩn Hiệp định thương mại Việt Mỹ, Hạ nghị viện Mỹ cũng đã thông qua cái gọi là “Đạo luật nhân quyền Việt Nam “ với mục đích gắn việc thực thi hiệp định này với những điều kiện chính trị do Mỹ áp đặt. Việc làm sai trái này đã bịViệt Nam , dư luận q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV587.doc