MỤC LỤC
Lời nói đầu
PHẦN I : VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ 2
1/ Đóng góp của xuất khẩu vào tăng trưởng kinh tế 2
2/ Đóng góp của xuất khẩu vào nâng cao chất lượng sản phẩm 3
3/ Đóng góp của xuất khẩu vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế 4
4/ Đóng góp của xuất khẩu vào giải quyết công văn việc làm 5
5/ Xuất khẩu là cơ sở thúc đẩy, mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại 6
6/ Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu 6
PHẦN II : TÁC ĐỘNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ VÀO HOẠT ĐỘNG
XUẤT KHẨU 7
I. Tác động của các yếu tố trong nước 7
1/ Môi trường kinh tế 7
2/ Môi trường Chính trị xã hội 8
II. Tác động của các yếu tố thuộc môi trường quốc tế 9
1/ Mặt thuận lợi 9
2/ Mặt khó khăn 10
III. Vai trò của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu 11
IV. Thực trạng của vai trò của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu 15
1/ Thực trạng việc thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái 15
2/ Thực trạng việc thực hiện chính sách thuế xuất khẩu 20
3/ Thực trạng việc hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu 21
PHẦN III : NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VAI TRÒ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU 22
I. Giải pháp 22
II. Định hướng 25
Tài liệu tham khảo 27
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoạt động xuất khẩu trong phát triển kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rả bằng cách này hay cách khác để nhập khẩu nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu. Xuất khẩu quyết định quy mô và tốc độ phát triển của nhập khẩu.
Trong thời kỳ 1986 - 1990 nguồn thu của nước ta về xuất khẩu chiếm 3/4 tổng nguồn thu ngoại tệ, năm 1994 thu từ xuất khẩu đã đảm bảo được 80% nhập khẩu so với 24,6% năm 1986.
Phần II
Tác động của một số yếu tố vào
hoạt động xuất khẩu
I. Tác động của các yếu tố trong nước :
1. Môi trường kinh tế :
Trước hết Việt Nam tự hào về nguồn khoáng sản giàu có và đa dạng, còn ít được khai thác, chủ yếu là dầu lửa, quặng sắt, bô xít và các khoáng sản quý hiếm khác. Nguồn khoáng sản này tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển một nền kinh tế đa dạng và tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hoạt động xuất khẩu đặc biệt là việc tạo điều kiện thuận lợi cho việc đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Tuy nhiên việc khai thác tất cả các nguồn tài nguyên này đòi hỏi một số vốn lớn với công nghệ thích hợp, khả năng tổ chức sản xuất và quản lý tốt. Đây là một trong những khó khăn cho việc phát triển sản xuất trong nước thông qua đó nó có những tác động tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu làm kìm hãm hoạt động xuất khẩu.
Khí hậu và các nguồn tài nguyên đất đai, sinh vật và du lịch giúp tạo khả năng tốt cho sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp đặc biệt đối với cây công nghiệp nhiệt đới, hoa quả tươi và rau xanh, tạo điều kiện thuận lợi cho nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng... chính yếu tố này là nhân tố quyết định đến kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp của nước ta làm cho kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông nghiệp của nước ta không ngừng tăng lên : xuất khẩu gạo đứng vị trí thứ 2 trên toàn thế giới, xuất khẩu ca phê vối đứng vị trí thứ 2 trên thế giới...
Vị trí địa lý mang lại nhiều thuận lợi cho Việt Nam trong việc phát triển kinh tế nói chung và phát triển hoạt động ngoại thương nói riêng vì Việt Nam nằm ở khu vực có nhiều đường hàng không và hàng hải, đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển dịch vụ vận tải quốc tế và xây dựng các trung tâm thương mại, tuy nhiên điều này đòi hỏi đầu tư vốn lớn vào kết cấu hạ tầng tức là phải có một hệ thống cơ sở hạ tầng tương đối phát triển nhưng thực trạng của hệ thống cơ sở hạ tầng của nước ta hiện nay hết sức lạc hậu điều này đã tác động xấu đến hoạt động sản xuất nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Lực lượng lao động phong phú và dồi dào là tiềm năng lớn của đất nước, mức lương quá thấp cũng là một lợi thế đáng kể trong việc hạ giá thành sản phẩm để tạo sức cạnh tranh mạnh mẽ cho hàng hoá của nước ta. Từ đó mà nó có vai trò quyết định đến sự tồn tại, đứng vững và phát triển của hàng nước ta trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường thế giới, tức là nó là nhân tố quan trọng quyết định đến việc mở rộng thị trường cho hàng xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, lực lượng lao động của nước ta có chất lượng thấp cần phải đẩy mạnh đào tạo kỹ năng nghề nghiệp và quản lý, mặt khác lực lượng lao động của nước ta còn chưa được khai thác một cách có hiệu quả. Cẩn phải khai thác có hiệu quả hơn để tạo lợi thế so với các nước khác trong việc phát triển sản xuất nói chung và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu.
Mặt khác thông qua quá trình đổi mới thì nền kinh tế nước ta đã có sự chuyển biến tích cực về mọi mặt kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội có bước phát triển nhất định, tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định, môi trường kinh tế ổn định,..... đã tác động góp phần đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu làm cho kim ngạch xuất khẩu của nước ta tăng trung bình 22%/ năm.
2. Môi trường Chính trị - xã hội
Cùng với quá trình mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Đảng và Nhà nước ta đã chủ trưởng phát triển hoạt động ngoại thương theo hướng
- Nhà nước quản lý thống nhất đối với hoạt động ngoại thương theo chính sách và pháp luật, đồng thời mở rộng quyền hạn cho các ngành, các địa phương và các cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế, xoá bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất kinh doanh xuất khẩu.
- Mọi doanh nghiệp đều được phép kinh doanh xuất khẩu trực khi có đủ các điều kiện theo quy định của nhà nước.
- Thực hiện chính sách đa phương hoá thị trường : những thị trường quan trọng của Việt Nam là ASEAN, Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc và tương lai là Mỹ.
Nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho việc thúc đâỷ hoạt động ngoại thương phát triển và nó là tiền đề cho việc phát triển liên tục với tốc độ cao ( 22%/ năm ) trong thời gian qua.
II. tác động của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế quốc tế
1. Mặt thuận lợi :
Thông qua xu hướng toàn cầu hoá thì môi trường kinh tế quốc tế đã tác động mạnh mẽ vào nền kinh tế nước ta nói chung và hoạt động xuất khẩu của nước ta nói riêng.
Toàn cầu hoá nền kinh tế đã đưa đến hệ quả tất yếu đó là các quốc gia phải mở cửa để hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Việt Nam đã và đang tích cực tham gia và xu thế này, từng bước ký kết các hiệp định thương mại song phương, khu vực và đa phương. Đến nay nước ta đã là thành viên của tổ chức khu vực thương mại tự do ASEA ( AFTA ), và diễn đàn kinh tế Châu á Thái Bình Dương ( APEC), đã ký kết hiệp định thương mại song phương với Mỹ, chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ), quan hệ thương mại với Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc.... đang tiếp tục mở rộng.
Là một nước đang phát triển tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nước ta có thêm nhiều cơ hội mới để phát triển kinh tế nói chung và thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định thương mại đã ký kết với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nếu thực hiện đầy đủ các cam kết trong AFTA thì đến năm 2006 hàng công nghiệp chế biến có xuất xứ từ nước ta sẽ được tiêu thụ trên tất cả thị trường các nước ASEAN với dân số trên 500 triệu người và GDP trên 700 tỷ USD. Nếu sau khi nước ta ra nhập WTO thì sẽ được hưởng ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo quy chế tối huệ quốc trong quan hệ với 132 nước thành viên của tổ chức này do vậy hàng hoá của nước ta xuất khẩu vào các nước đó được dễ dàng hơn, từ năm 2020 hàng rào thuế quan của các nước APEC sẽ được dỡ bỏ. Đây cũng là cơ hội để nước ta xuất khẩu hàng hoá vào các nước thành viên APEC.
Toàn cầu hoá đã và đang tạo điều kiện, cơ hội cho nước ta đẩy mạnh xuất khẩu để khai thác triệt để lợi thế so sánh về lao động, tài nguyên của nước ta để phát triển sản xuất trong nước thông qua đó đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu và đáp ứng được nhu cầu của thị trường thế giới.
2. Mặt khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi thì thông qua quá trình toàn cầu hoá thì môi trường thế giới cũng đặt ra cho hoạt động xuất khẩu của nước ta không ít những khó khăn và thách thức.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để đi đến tự do hoá thương mại tức là chấp nhận tư cách thành viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác, nhưng hiện nay nước ta vẫn còn bị tụt hậu khá xa về kinh tế ( nhất là trình độ công nghệ và thu nhập bình quân đầu người ) vì vậy chất lượng hàng hoá của nước ta còn kém xa các nước khác do đó mà sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta còn kém xa sức cạnh tranh của hàng hoá các nước khác.
Vì vậy hàng hoá của nước ta phải cạnh tranh ngang bằng với hàng hoá nước khác thì đó là một khó khăn rất lớn cho hàng hoá nước ta tồn tại, đứng vững, phát triển được trên thị trường trước sự cạnh tranh quyết liệt của hàng hoá các nước khác.
Trên thị trường thế giới nước ta mới xuất khẩu chủ yếu là các nguyên liệu và sản phẩm sơ chế, như dầu thô, gạo, cà phê, chè, cao su. Còn các sản phẩm công nghiệp chế biến nhất là sản phẩm chất lượng cao còn ít, sức cạnh tranh yếu. Trong khi đó giá cả các mặt hàng nguyên liệu và sơ chế lại bấp bênh hay bị tác động xấu bất lợi cho nước xuất khẩu.
Ngoài ra, môi trường quốc tế còn đặt ra cho hoạt động xuất khẩu của nước ta nhiều khó khăn bất lợi như tình trạng mất ổn định của nền kinh tế thế giới và khu vực, hệ thống hàng rào thuế quan và phi thuế quan của các nước đặt ra, tình trạng gian lận thương mại..... là những yếu tố có tác động mạnh mẽ đến thị trường, giá cả của hàng hoá xuất khẩu của nước ta, do đó mà môi trường quốc tế có tính quyết định đến sự tồn tại, đứng vững và phát triển của hàng hoá nước ta.
III. Vai trò của nhà nước trong hoạt động xuất khẩu
1. Chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc phát triển thị trường xuất khẩu
Thành công đáng kể trong công tác thuế đẩy xuất khẩu trong thời gian qua là đã vượt qua được cơn sốc xảy ra năm 1991 - 1992 do sự biến đổi chính trị của các nước XHCN, Đông Âu và Liên Xô cũ. Việc mất đi thị trường lớn này đã kích thích nhà nước và các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm và khai thác các thị trường mới. Bằng cách nỗ lực ngoại giao và chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn nhằm mở đường và kích thích quan hệ buôn bán của các doanh nghiệp, chính phủ Việt Nam đã ký trên 70 hiệp định thương mại và hiện nay có quan hệ buôn bán với trên 110 nước trong đó đáng chú ý là hiệp định hợp tác kinh tế với Liên minh Châu Âu ký ngày 17/7/1995, tham gia vào AFTA, bình thường hoá quan hệ buôn bán Việt Nam - Trung Quốc, ký hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC, WTO, cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là Châu á 80%, Châu Âu 15%, Châu Phi 3%, Châu Mỹ 2%.
2. Nhà nước phải thành lập các Tổng công ty và các tập đoàn kinh doanh lớn để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế
Trong những năm gần đây, hàng loạt các Tổng công ty, các tập đoàn đã được thành lập. Trong điều kiện thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm quản lý và khả năng vươn tầm hoạt động ra thị trường thế giới của từng doanh nghiệp còn hạn chế, việc làm này đã giúp các doanh nghiệp trong cùng ngành liên kết để phát huy sức mạnh tổng hợp với tầm vóc ( thế và lực ) đủ lớn thì khả năng cạnh tranh ở thị trường trong nước và khả năng thâm nhập thị trường nước ngoài đã và sẽ được tăng lên đáng kể.
3. Nhà nước phải xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu
Các ngành định hướng vào xuất khẩu được phát triển mạnh mẽ, các sản phẩm xuất khẩu của ngành nông lâm, ngư nghiệp trong những năm gần đây luôn chiếm 30% tổng gía trị xuất khẩu.
Các công nghệ mới phục vụ sản xuất hàng hoá xuất khẩu nói riêng và công nghệ mới nói chung được khuyến khích đưa vào Việt Nam thông qua chế độ ưu đãi trong việc đánh thuế nhập khẩu.
Chính phủ Việt Nam chủ trương xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của nền kinh tế Việt Nam và tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới. Việc xác định ngành trọng điểm của nền kinh tế Việt Nam có ý nghĩa quan trọng và cần được cân nhắc kỹ càng, có ý kiến cho rằng nền kinh tế Việt Nam có thể coi những ngành sau đây là trọng điểm : Ngành nông nghiệp, khai thác dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất phân bón khoa học, lắp ráp ô tô.
4. Xây dựng các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung và khu công nghệ cao
Chính phủ đã cấp giấy phép thành lập 6 khu chế xuất với quy chế đầu tư ưu đãi và bước đầu một số khu đã hoạt động, đem lại kết quả đáng khích lệ. Các khu công nghiệp tập trung, khu công nghệ cao cũng đã được thành lập ở Việt Nam và được sự quan tâm của Chính phủ. Tháng 4/1997 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ở Việt Nam. Đây là bước đi rất quan trọng của quá trình hay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu ở nước ta đồng thời tiến tới xuất khẩu sản phẩm chế biến và sản phẩm có công nghệ cao khắc phục tình trạng chỉ xuất khẩu nguyên liệu và sản phẩm sơ chế như hiện nay.
5. Nhà nước phải điều chỉnh chính sách thuế xuất khẩu cho phù hợp với điều kiện hiện nay
Nhà nước Việt Nam sử dụng chính sách thuế xuất khẩu với tư cách là một công cụ quan trọng để khuyến khích và quản lý hoạt động xuất khẩu. Đối với các ngành, các khu vực cần ưu tiên có những quy định miễn, giảm thuế. Sau khi có luật thuế, cơ cấu biểu thuế xuất nhập khẩu thì chính phủ Việt Nam đã không ngừng sửa đổi cho phù hợp với tình hình trong nước cũng như trên toàn thế giới và khuyến khích xuất khẩu ( luật thuế xuất nhập khẩu được sửa đổi vào 5/1992 và tháng 1/1993 )
Chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt tạo điều kiện cho việc thúc đẩy xuất khẩu :
Từ năm 1987 Việt Nam bắt đầu thực hiện cải cách trong cơ chế điều hành tỷ giá đồng Việt Nam ( VNĐ ) với đô la Mỹ ( đồng tiền đóng vai trò quan trọng trong quan hệ thanh toán của Việt Nam với nước ngoài ). Khoảng cách giữa tỷ giá quy định của ngân hàng Trung ương so với tỷ giá thị trường tự do được thu hẹp qua các năm. Thời kỳ 1991 - 1992 mức tỷ giá hối đoái danh nghĩa được điều chỉnh linh hoạt trong giai đoạn 1993 - 1995 Việt Nam đã theo đuổi tỷ giá hối đoái danh nghĩa ổn định đến đầu năm 1995 tỷ giá của hệ thống ngân hàng so với tỷ giá thị trường tự do chênh lệch không đáng kể nữa. Chính sách tỷ giá hối đoái trên góp phần giữ vững được giá trị đồng tiền Việt Nam cả về danh nghĩa và giá trị thực và kiềm chế lạm phát, khuyến khích xuất khẩu tăng lên hàng năm.
7. Nhà nước phải thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại của Việt Nam
Một kinh nghiệm quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu là thành lập các tổ chức xúc tiến thương mại. Đây là các tổ chức phi lợi nhuận có nhiệm vụ thu thập và nghiên cứu thông tin về thị trường ngoài nước, bố trí triển lãm, tham gia các hoạt động giao lưu quốc tế nhằm hỗ trợ phát triển các mặt hàng mới hoặc ngành nghề sản xuất cụ thể hỗ trợ việc thực hiện các chương trình nằm trong chính sách xuất khẩu của Nhà nước và tổ chức hợp tác kinh tế đối ngoại.
Việt Nam nên có một tổ chức xúc tiến thương mại đủ mạnh để chuyên làm các nhiệm vụ kể trên. Việc thành lập tổ chức này sẽ cho phép mở rộng khả năng phối hợp giữa các Bộ, các cơ quan trong việc quản lý nhà nước về hoạt động xuất khẩu cũng như khả năng cung cấp thông tin và khả năng tham gia vào thị trường nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam
Một điều đáng lưu ý là hiện nay một số tổ chức xúc tiến, thương mại đã có mặt ở nước ta song chúng ta còn yếu trong công tác phối hợp hoạt động của các tổ chức này.
iv. Thực trạng của việc thực hiện vai trò quản lý của nhà nước trong hoạt động xuất khẩu
1. Thực trạng của việc thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái trong điều hành hoạt động xuất khẩu :
Trong quan hệ với các nước thuộc khối XHCN trước đây, tỷ giá của Việt Nam được tính theo đồng rúp Clearing ( sau này đổi là rúp chuyển khoản - transferable ruble ) đồng tiền ghi sổ dùng trong thanh toán mậu dịch giữa các nước thuộc khối XHCN tự quy định với nhau để làm sao cho tài khoản giữa các bên sau khi trao đổi ngoại thương theo khối lượng đã được quy định hiệp định ký kết vào đầu năm thì cuối năm không còn số dư. Đặc trưng của chế độ tỷ giả, đã bộc lộ nhiều mặt bất hợp lý nó không những không thể hiện thể vai trò điều tiết tỷ giá trong việc cân bằng cán cân thanh toán, điều tiết tái sản xuất mà còn kìm hãm các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng trì trệ trong một thời gian dài.
Từ năm 1989 trở về sau cho đến nay nhà nước ta đã có những chủ trương và giải pháp đổi mới trong quan hệ đối ngoại và chính sách tỷ giá, đã từng bước xóa bỏ cơ chế độc quyền ngoại thương - cho phép các tổ chức kinh tế được phép xuất khẩu trực tiếp với nước ngoài. Số lượng các công ty được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên cùng với việc mở rộng ngoại thương chế độ tỷ giá cũng được thay đổi căn bản, Nhà nước đã áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có sự quản lý của nhà nước nhưng việc điều hành của nhà nước trong từng năm có khác nhau ta có thể tạm thời chia ra 3 giai đoạn.
a. Giai đoạn thả nổi tỷ giá : 1989 - 1993
Trong giai đoạn này tỷ giá hối đoái VNĐ/ USD thể hiện qua
Năm
Tỷ giá USD/ VNĐ
Lạm phát
Giá chính thức Nhà nước
Giá thị trường tự do
Tăng, giảm
1
2
3
4
5
1989
4.200
4370
+ 8,80
+ 34,70
1990
6.650
7330
+ 13,30
+ 67,30
1991
12.720
12330
- 0,02
+ 68,00
1992
10.720
10550
- 0,02
+ 17,30
1993
10.835
10736
-0,01
+ 3,20
Bảng số liệu trên cho ta thấy tỷ giá VNĐ/USD qua các năm có biến động lên xuống. Tuy nhiên tổng quát mà nói trong khoảng thời gian này tỷ giá VNĐ/USD có khuynh hướng tăng và được nhà nước điều chỉnh sát với giá thị trường tự do. Điều này chứng tỏ nhà nước bắt đầu thả nổi tỷ giá, quan hệ cung cầu ngoại tệ đã được quan tâm đầy đủ hơn, tuy nhiên sự thả nổi tỷ giá đã:
- Kích thích tâm lý đầu cơ ngoại tệ nhằm mục đích hưởng chênh lệch
- Tình trạng tỷ giá thường xuyên đột biến và thiếu ngoại lệ đã gây ra những cơn sốt USD làm mất ổn định nền kinh tế
- Quản lý ngoại tệ của Chính phủ không đạt được kết quả mong muốn
- Nhà nước đã không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
b. Giai đoạn cố định tỷ giá 1993 - 1996
Năm
Tỷ giá USD/ VNĐ
So sánh % năm trước
Tốc độ lạm phát
1
2
3
4
1993
1083300
100,00%
3,2%
1994
1103000
+ 1,98%
14,4%
1995
1104000
0%
12,7%
1996
1106600
+ 0,18%
4,3%
Do tỷ giá chính thức của Nhà nước và tỷ giá thị trường tự do trong thời gian này không chênh nhiêù nên chúng ta chọn tỷ giá chính thức của Nhà nước làm cơ sở tính toán. Qua số liệu trên bảng trên chúng ta thấy tốc độ tăng tỷ giá chậm hơn tốc độ tăng của lạm phát vì phụ thuộc vào quan hệ cung cầu ngoại tệ, vào cụm các nhân tố kinh tế đối ngoại.
Tuy nhiên việc cố định tỷ giá trong một thời gian dài ( 1993 - 1996 ) đã không khuyến khích được xuất khẩu đã làm cho ngoại thương kém phát triển biểu hiện cụ thể qua bảng sau :
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
So sánh
1
2
3
4 = 3 - 2
1993
1985
3924
- 939
1994
4054
3823
- 1771
1995
3448,9
8133,4
- 2706,3
1996
7233
11143
- 3888
Tình trạng nhập siêu trong giai đoạn này đã tác động xấu đến xuất khẩu và khuyến khích xuất khẩu gây thâm hụt cán cân thương mại dẫn tới tình trạng hoặc phải tiêu giảm dự trữ ngoại hối quốc gia hoặc phải vay nợ nước ngoài để bù đắp cán cân thanh toán...
Đứng trước tình hình đó ngay từ năm 1999 cho đến nay nhà nước đã có chỉ đạo
- Chỉ đạo xử lý nợ quá hạn từ năm 1994, hạn chế kịp thời tình trạng mở LC thanh toán tràn lan và cuối năm 1996 thông qua khống chế mức mở LC Sight là chủ yếu, hạn chế mở LC trả chậm xem xét cho nhập khẩu những mặt hàng chủ yếu là những mặt hàng về tư liệu sản xuất
- Điều hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường
c. Giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của Nhà nước từ năm 1997 đến nay
Giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng cũng như thị trường ngoại tệ nói chung bị giảm sút. Thực tế sáu tháng cuối năm 1997 nhu cầu mua ngoại tệ luôn cao hơn nhu cầu bán ngoại tệ và hoạt động của thị trường có lúc ngừng trệ, doanh số mua 6 tháng cuối năm 1997 đạt 7,5 tỷ USD giảm 5% so với 6 tháng cuối năm 1997. Doanh số bán đạt 7,6 tỷ USD giảm 1% so với 6 tháng đầu năm 1997, nhiều doanh nghiệp không mua được ngoại tệ đã phải mua với giá cao và chịu lỗ rất lớn do tỷ giá tăng đột biến - ngoại tệ tăng giá mạnh đã làm tăng nhu cầu vay vốn VNĐ do lãi suất thấp hơn và không chịu rủi ro về tỷ giá đã gây mất cân đối cung cầu VNĐ trên thị trường.
Năm 1997 dư nợ LC ngắn hạn chỉ còn gần 700 triệu USD so với 1,4 tỷ USD vào tháng 6 năm 1996. Tuy nhiên cuộc khủng hoảng tiền tệ ở khu vực Châu á đã ảnh hưởng gây sức ép do yếu tố tâm lý đầu cơ của thị trường đã đẩy tỷ giá ở thị trường tự do tăng mạnh có lúc lên đến 14.600 VNĐ/USD.
Mặc dù trong năm 1997 tỷ giá đã có nhiều biến động nhưng vẫn đạt được những thành tựu quan trọng.
- Chính sách tỷ giá đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt, một mặt tạo điều kiện cho giá trị VNĐ phản ánh tương đối xác thực cung cầu ngoại tệ góp phần kiềm chế lạm phát, một mặt đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu mặc dù giá cao su giảm 42%, dầu thô giảm 30%, giày da và may mặc cũng đang giảm mạnh. Riêng mặt hàng gạo trong năm qua bị thiên tai, lũ lụt do cơn bão số 5 gây ra nhưng ta vẫn cố gắng khắc phục và nhanh chóng duy trì xuất khẩu gaọ.
- Nguyên nhân nhập siêu trong thời gian qua là do ngân hàng điều hành tỷ giá bị đông cứng, do tỷ giá có tác động lớn đến nhập khẩu, nó là giá của hoạt động xuất nhập khẩu. Tỷ giá đứng ( trên thực tế là giảm so với biến động giá trong nước ) làm cho bán cũng rẻ mà mua cũng rẻ.
- Bán rẻ không khuyến khích bán, mua rẻ sẽ khuyến khích mua, mua được khuyến khích, bán bị hạn chế do đó đưa đến tình trạng nhập siêu, ngoài ra còn nguyên nhân khác là định hướng xuất khẩu yếu, tình trạng nhập lậu tràn lan, trốn thuế, chưa được quản lý chặt chẽ.
Bước sang năm 1998 tình hình tỷ giá hối đoái trong nước ngày càng trở lên phức tạp, giá USD mỗi ngày một tăng thậm chí có ngày thay đổi vài lần đã ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Trước tình hình đó Chính phủ có một quyết định đúng đắn nhằm kiểm soát hoạt động ngoại tệ trên lãnh thổ Việt Nam bằng việc ban hành quyết định 37/1998/QĐ - TTg ngày 14/2/1998 về một số biện pháp quản lý ngoại tệ đây là một bước thành công lớn của Nhà nước nhằm kiểm sóat và quản lý ngoại tệ làm cho tỷ giá của thị trường tự do và tỷ giá thị trường có tổ chức ( Thị trường liên ngân hàng ) đã sát lại gần nhau và hiện nay ngân hàng đã kiểm soát được trên 90% lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường.
2. Thực trạng của việc thực hiện chính sách thuế xuất khẩu trong điều hành hoạt động xuất khẩu
Chính sách thuế xuất khẩu được thể hiện ở luật thuế xuất khẩu và các văn bản pháp quy dưới luật như Nghị định, quyết định của Chính phủ, các thông tư hướng dẫn của Bộ, ban ngành có liên quan trong lĩnh vực xuất khẩu.
Luật thuế xuất khẩu hiện hành được quốc hội ban hành từ năm 1987 và đã được sửa đổi và bổ sung hai lần vào năm 1991, 1993 cho phù hợp với chính sách mở rộng kinh tế đối ngoại và thực tiến hoạt động xuất khẩu của nước ta trong từng thời kỳ phát triển kinh tế. Trong những năm qua nhờ việc thực hiện luật thuế xuất có hiệu quả đã phát huy tác dụng đó là việc thúc đẩy và hỗ trợ cho kinh tế trong nước, thúc đẩy hoạt động ngoại thương của Việt Nam phát triển và huy động nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đặc biệt là sau Đại hội đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VIII, kinh tế trong nước cũng như hoạt động xuất khẩu của ta đã có những thay đổi cơ bản, nền kinh tế chuyển sang thời kỳ phát triển mới, mở cửa và hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới đã và sẽ tham gia vào các tổ chức như ASEAN, tổ chức thương mại thế giới WTO, tổ chức kinh tế Châu á - Thái Bình Dương ( APEC ) để thực hiện được mục tiêu này Đảng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở cửa, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, tranh thủ vốn, công nghệ của nước ngoài, phát triển sản xuất trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Bên cạnh đó xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, bảo đảm khả năng giữ vững tự chủ về kinh tế, có đủ nội lực cần thiết để chủ động tham gia phân công lao động và hợp tác quốc tế. Đứng trước yêu cầu mới này thì vai trò quản lý của nhà nước về kinh tế nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu nói chung có vị trí đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vai trò quản lý của mình đã bộc lộ một số sai sót nghiêm trọng, mà nguyên nhân của sự sai xót này đó là do luật thuế xuất khẩu của ta có những hạn chế cần sửa đổi và bổ xung.
Để giải quyết vấn đề này thì nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi và bổ sung luật thuế xuất khẩu, thật vậy luật thuế xuất khẩu năm 1987 đã được thay thế gần như toàn bộ bằng luật thuế xuất khẩu đã được quốc hội thông qua ngày 26/12/1991 nhờ sự thay đổi này đã làm cho quan hệ kinh tế đối ngoại nói chung và ngoại thương nói riêng đến thời điểm năm 1991 đã có sự biến đổi căn bản.
Tuy nhiên từ năm 1992 đến nay nhà nước ta đã nhiều lần sửa đổi khung thuế suất, sửa đổi bổ xung nhiều biểu thuế xuất cũng như sửa đổi mức thuế suất nhiều mặt hàng. Mặt khác trên cơ sở các văn bản pháp lý được quốc hội thông qua, chủ tịch nước ban hành và chính phủ hướng dẫn Bộ Tài Chính cùng với các Ban, ngành có liên quan căn cứ vào chính sách khuyến khích xuất khẩu từng mặt hàng. Sự biến động về giá cả, thị trường trong từng thời gian để trình thủ tướng chính phủ điều chỉnh các mức thuế suất, biểu thuế suất. Đến năm 1997 thì biểu thuế suất khẩu thu vào 60 nhóm hàng với 10 thuế suất từ 1% đến 45% tuỳ vào mặt hàng.
Ngoài nguyên nhân do luật thuế xuất khẩu của ta còn những hạn chế đã gây ra những sai sót trong công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu thì còn nguyên nhận thuộc về phía người quản lý đó là việc còn nhiều cán bộ quản lý thiếu năng lực quản lý, quan liêu tham ô, nhưng ngoài ra thủ tục hành chính trong điều hành hoạt động xuất khẩu còn quá rườm rà đã gây ra những trở ngại cho hoạt động xuất khẩu
3. Thực trạng việc hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu
Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Vừa qua Quốc hội đã thông qua luật thương mại tạo nên khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu Nhà nước tập trung quản lý xuất khẩu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24593.doc