Chương 1: Tiến trình hội nhập kinh tế thương mại khu vực và thế giới của Việt Nam.
1. Xu hướng hội nhập kinh tế của khu vực và thế giới.
2. Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam.
3. Lý luận chung về quá trình hội nhập và phát triển kinh tế thương mại trong khu vực Asean.
3.1. Hội nhập Asean : Mục đích và kết cấu .
3.2. Nguyên tắc và nội dung các phương pháp tiến trình tham gia hội nhập kinh tế thương mại Asean.
3.2.1. Nguyên tắc và nội dung quá trình tham gia hội nhập.
3.2.2. Các quyền và nghĩa vụ của Việt Nam khi gia nhập Asean.
4. Sự cần thiết để tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean.
Chương II: Thực trạng tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean – lộ trình thự hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean của Việt Nam.
1. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế của Việt Nam.
Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế
Đánh giá quá trình tham gia hội nhập của Việt Nam
1.2.1. Những ưu điểm.
1.2.2. Những nhược điểm
2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế
2.1. Tác động của doanh nghiệp
2.2. Tác động của nhà nước
3. Lộ trình thực hiện khi tham gia khu vực kinh tế thương mại Asean.
3.1.Qúa trình phát triển khu vực kinh tế thương mại Asean.
3.2. Xây dựng lộ trình tham gia hội nhập thương mại Asean.
Chương III: Giải pháp xúc tiến khi tham gia hội nhập khu vực kinh tế thương mại Asean.
1. Một số khó khăn vướng mắc trong lộ trình tham gia hội nhập.
2. Các giải pháp tham gia hội nhập kinh tế thương mại khu vực Asean
Đối với nhà nước.
Đối với doanh nghiệp.
Kết luận.
35 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3154 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chung ASEAN (AHTN) đã hoàn thành và đã bắt đầu thực hiện từ ngày 1/7/2003. Việc triển khai xây dựng và ký kết các thoả thuận công nhận lẫn nhau chuyên ngành (MRAs) cũng đã được ASEAN triển khai một cách tích cực.
Về hợp tác công nghiệp (Chương trình AICO): Với mục đích hợp tác, chia sẻ nguồn lực trong việc trao đổi các sản phẩm công nghiệp, đến nay, AICO mới có những kết quả bước đầu. Phần lớn các cơ cấu AICO đều tập trung vào lĩnh vực sản xuất ôtô, còn lại là trong các lĩnh vực điện tử, hoá chất và hoá mỹ phẩm. Tuy nhiên, cơ cấu này mới chỉ tập trung ở các nước ASEAN 6 và các công ty tham gia cơ cấu AICO thường là các tập đoàn xuyên quốc gia của các quốc gia ngoài ASEAN có cơ sở sản xuất tại các nước ASEAN. Như vậy, về thực chất, các ngành sản xuất của các nước ASEAN chỉ được hưởng lợi gián tiếp từ chương trình này.
Về dịch vụ: Tiến bộ đạt được trong đàm phán về thương mại dịch vụ rất chậm. Không phải tất cả các nước thành viên đều đưa ra bản chào rõ ràng đối với những phân ngành dịch vụ chung đã xác định. Các cam kết được đem ra, cho tới nay, còn mang tính hình thức và nhiều cam kết không đạt được mục tiêu tự do hoá nhanh. Các thông tin về pháp luật và quy định quản lý việc hành nghề còn chưa có. Một số nước thiếu quy định điều chỉnh dịch vụ để có thể đưa ra cam kết. Giá trị của thương mại dịch vụ tự do dường như không được công nhận một cách phổ biến.
Về đầu tư: Với mục đích là tăng dòng đầu tư nội khối, Hiệp định Khu vực đầu tư (AIA) đã ra đời. Tuy nhiên cho đến nay, tình hình đầu tư của ASEAN không mấy sáng sủa. Các dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN liên tục giảm. Đầu tư nội khối không tăng là bao. ASEAN đã đưa ra nhiều sáng kiến để thu hút đầu tư, kể cả các biện pháp mạnh bạo (năm 1998) và tổ chức các đoàn xúc tiến đầu tư của ASEAN, nhưng kết quả chưa đạt được như mong muốn.
Các chương trình hợp tác trong các lĩnh vực thuộc kết cấu hạ tầng: như giao thông vận tải, đường xá, năng lượng, nước, cũng đã được triển khai với mục đích tạo các yếu tố cơ sở, nền móng cho quá trình hội nhập kinh tế của ASEAN. Tuy nhiên, đây là những lĩnh vực đòi hỏi nguồn lực lớn, trong khi đó, ASEAN vẫn phải phụ thuộc vào nguồn vốn và trợ giúp kỹ thuật bên ngoài. Mặt khác, mức độ sẵn sàng tham gia của các nước thành viên vào các chương trình kết cấu hạ tầng quy mô lớn ở tầm khu vực là khác nhau, và chính sách liên quan của từng quốc gia cũng còn nhiều điểm khác biệt. Vì vậy, trong các lĩnh vực này, sự hợp tác hầu như chưa được triển khai trên thực tế.
Trong bối cảnh như vậy, các nước ASEAN đã nhận thấy sự cần thiết phải có định hướng cho hội nhập kinh tế thời kỳ “Hậu AFTA”. Một mặt, ASEAN đã gần như kết thúc Chương trình CEFT/AFTA (ASEAN 6 vào năm 2002, Việt Nam: 2006). Mặt khác, ASEAN đang đứng trước quá nhiều thử thách như đã nêu ở trên, kể cả ở góc độ chủ quan lẫn khách quan. Chính vì vậy, ý tưởng “Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC” đã ra đời và được thể hiện trong Tuyên bố hoà hợp Ba-li II do các nhà lãnh đạo ASEAN ký tại Hội nghị cấp cao lần thứ 9 tại Ba-li (Inđônêxia tháng 11/2003).
Như vậy, nhìn tổng thể, bức tranh hội nhập kinh tế của ASEAN là toàn diện, bao trùm hầu hết các lĩnh vực quan trọng có tác động trực tiếp tới sự tăng trưởng kinh tế. Mức độ hội nhập trong các lĩnh vực là rất đa dạng, từ các cam kết mang tính ràng buộc đến các hoạt động hợp tác một cách đơn thuần hay hợp tác trong các chương trình cụ thể. Tuy nhiên, cho đến nay, ASEAN vẫn chỉ là một liên kết kinh tế lỏng lẻo và rời rạc, tính liên kết thấp. Các nước ASEAN dường như chưa coi hội nhập kinh tế ASEAN là một mục tiêu quan trọng và gắn với chiến lược phát triển quốc gia của mình. Mỗi nền kinh tế thành viên vẫn lấy lợi ích quốc gia làm trọng và chưa nhìn nhận hết nguy cơ tiềm ẩn gây bất lợi cho ngay các quốc gia thành viên khi ASEAN chưa thực sự là một khối gắn kết. Các chương trình đẩy mạnh hội nhập của ASEAN không phải là ít (Tầm nhìn 2020, Chương trình Hành động Hà Nội, Lộ trình hội nhập của ASEAN), nhưng mới chỉ là quyết tâm mang tính “khẩu hiệu”, chưa mang tính thực tiễn. Với thực trạng hiện nay, nếu ASEAN không quyết tâm hội nhập sâu sắc hơn để hướng tới một khu vực kinh tế thống nhất, thì ASEAN khó có thể tiếp cận được những mục tiêu đã đặt ra trong Tầm nhìn 2020, hướng tới một Cộng đồng kinh tế ASEAN vào 2020.
1.1. Thực trạng quá trình tham gia hội nhập kinh tế
Khu vực ASEAN cũng là khu vực có tốc độ tăng GDP cao của thế giới. Tổng dự trữ quốc tế của một số nước đạt khá và đang tăng lên. Khu vực ASEAN cũng là khu vực có kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ xuất khẩu so với GDP, xuất khẩu bình quân đầu người khá.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là nội dung quan trọng trong đường lối và hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Trong tiến trình hội nhập, Việt Nam dành ưu tiên cao cho việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước và các nền kinh tế trong khu vực.
Trong thời gian qua, quá trình hội nhập khu vực đã giúp Việt Nam nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, củng cố vị thế của mình trong nền kinh tế thế giới và tạo đà thúc đẩy quá trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đã tích cực tham gia các liên kết kinh tế đa phương trong khu vực, bao gồm cả những liên kết thể chế (ASEAN và các FTA) và phi thể chế (APEC). Đồng thời, Việt Nam cũng đã ký kết nhiều thoả thuận song phương với các nền kinh tế khác.
Tham gia ASEAN: Việt Nam gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) vào ngày 28/7/1995 và trở thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Ngay sau khi trở thành thành viên ASEAN, Việt Nam đã tích cực chủ động tham gia các hoạt động hợp tác trên mọi lĩnh vực.
Một trong những đóng góp đầu tiên của Việt Nam là thúc đẩy việc kết nạp Lào, Mianma, Campuchia, hình thành một ASEAN-10. Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 tại Hà Nội (12/1998). Chương trình Hành động Hà Nội đã đề ra nhiều biện pháp cụ thể để thực hiện Tầm nhìn 2020. Đặc biệt, Tuyên bố Hà Nội về thu hẹp khoảng cách phát triển được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 34 (AMM-34) tại Hà Nội năm 2001 mang đậm dấu ấn Việt Nam. Việt Nam còn có sáng kiến trong việc xây dựng cộng đồng ASEAN trên ba trụ cột, trong đó Cộng đồng Văn hóa-xã hội do Việt Nam đề xuất.
Việt Nam còn là một trong những thành viên sáng lập Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), góp phần xây dựng ARF trở thành diễn đàn quan trọng, đối thoại về an ninh khu vực. Theo sự phân công của ASEAN, Việt Nam đã đảm nhiệm tốt vai trò là nước điều phối viên trong quan hệ đối thoại giữa ASEAN với các cường quốc như Nhật Bản, Nga, Mỹ và hiện nay là Ôxtrâylia.
Sự tham gia của Việt Nam trong ASEAN đã góp phần quan trọng cho việc mở rộng hợp tác của ASEAN với các đối tác bên ngoài, nhất là các đối tác và láng giềng của Việt Nam. Điều này được thể hiện bằng việc Việt Nam đã góp phần làm tăng mối quan hệ giữa ASEAN và Trung Quốc, ASEAN và Liên bang Nga, ASEAN và Ấn Độ, ASEAN và EU. Cùng với quan hệ Việt Nam- Trung Quốc được cải thiện nhanh chóng trong thập niên qua, vị thế địa lý chiến lược và sự phát triển năng động của Việt Nam thực sự đã và đang đóng góp một phần quan trọng làm cho ASEAN-Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, hiểu biết và hợp tác nhiều hơn.
Việc Việt Nam tham gia ASEAN đã và đang tạo môi trường thuận lợi hơn cho đất nước giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế và hội nhập có hiệu quả vào hệ thống toàn cầu; không chỉ góp phần thực hiện chính sách đổi mới toàn diện, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế mà quan trọng hơn là tạo ra bước phát triển mới trong quan hệ khu vực và quốc tế. Cụ thể, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam trở thành nước sáng lập viên ASEM (1996), thành viên chính thức của APEC (1998), mở rộng không gian hợp tác với các nước Đông Nam Á (qua cơ chế ASEAN+1 và AESAN+3).
Với những thành tựu phát triển kinh tế (nhất là trong lĩnh vực tăng trưởng kinh tế, xoá đói giảm nghèo) và việc thực hiện cam kết hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, Việt Nam đã để lại ấn tượng tốt đẹp với các nước thành viên ASEAN khác. Từ khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã thực hiện lộ trình AFTA, tích cực tham gia mọi chương tình hợp tác kinh tế của ASEAN, phù hợp với quyền lợi của đất nứơc. Việt Nam cũng tham gia ký kết Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) ngày 7/10/1998, với mục tiêu tạo ra một khu vực đầu tư tự do trong nội bộ các nước ASEAN vào năm 2010 và cho các nước khác ngoài ASEAN vào năm 2020.
Việt Nam tham gia ký và thực hiện khá tốt Hiệp định khung về tự do thương mại và dịch vụ ASEAN (AFAS), về “Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN” (AICO), về “Sáng kiến hội nhập” (IAI), đã chủ động đưa ra và tích cực thực hiện Chương trình hợp tác phát triển Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), trong đó có dự án xây dựng các hành lang kinh tế, nhất là hành lang kinh tế Đông-Tây, hành lang lưu thông Côn Minh-Hà Nội-Hải Phòng…
1.2.Đánh giá quá trình tham gia hội nhập của Việt Nam
Gia nhập ASEAN và tham gia các chương trình hợp tác kinh tế của tổ chức này là bước đầu tiên trên con đường thực hiện chính sách tự do hoá thương mại, hội nhập với nền kinh tế thế giới mà Nhà nước ta đã vạch ra và đang thực hiện.Tự do hoá thương mại, hội nhập với nền kinh tế thế giới - ở quy mô toàn cầu nói chung và khu vực nói riêng - chỉ có ý nghĩa khi đem lại những lợi ích thiết thực cho đất nước, thể hiện rõ nhất ở lợi ích cho các doanh nghiệp. Cùng với việc mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế, các hàng rào bảo hộ sẽ bị loại bỏ dần. Điều đó nhắc tất cả các nhà sản xuất - cho dù là chỉ sản xuất hàng tiêu thụ trong nước - phải ý thức được về mức độ cạnh tranh ngày càng tăng với hàng hoá từ nước ngoài đưa vào, để từ đó xác định chiến lược đúng đắn, quyết tâm nâng cao trình độ quản lý và sản xuất, đổi mới kỹ thuật để nâng cao chất lượng và hạ giá thành, chấp nhận cạnh tranh bình đẳng với mọi hàng hoá không phân biệt xuất xứ.Bên cạnh đó, tự do hoá thương mại còn đem lại những thuận lợi đáng kể mà khai thác triệt để chúng mới là mục tiêu lâu dài cần xác định cho mỗi doanh nghiệp. Theo các chương trình AFTA và AICO, thuế suất hàng nhập khẩu vào các nước ASEAN cũng giảm đi đáng kể, tuy nhiên các doanh nghiệp của chúng ta - hoặc vì chưa đủ sức vươn ra nước ngoài, hoặc vì thiếu thông tin hay những lý do khác nữa - đã chưa tận dụng được.Sắp tới, công tác hỗ trợ, xúc tiến thương mại sẽ được nâng lên một vị trí mới nhằm giúp các doanh nghiệp nhanh chóng tìm kiếm bạn hàng, thiết lập quan hệ kinh tế ổn định, đặt những bước tiến vững chắc ra các thị trường bên ngoài. Đây cũng là một cơ hội nữa cho các doanh nghiệp tìm hiểu và tiếp cận với các cơ quan lập chính sách để từ đó xác định hướng đi chủ động cho mình trong bối cảnh mở cửa thị trường, chấp nhận cạnh tranh, quyết tâm vươn mạnh ra nước ngoài.
Những năm gần đây , sự thay đổi nhanh chong của môi trường kinh tế - chính trị khu vực( với sự trỗi dậy của trung quốc, sự gia tăng hiện diện can thiệp của mỹ sự chuyển mình của ấn độ) đã thôi thúc ASEAN đổi mới, điều chỉnh chính sách nhằm tăng tính cạnh tranh và thúc đẩy lien kinh tếết khu vực.
Một trong những thích ứng moiứ la xây dựng Cộng đồng ASEAN (AC) VÀO NĂM 2020 và tích cực mở rộng đàm phán thiết lập khu mậu dịch tự do song phương đa phương (RTA và BFTA) với các đối tác ngoài khối.Ben cạnh đó ,ASEAN đã và đang có những linh họat hơnviệc áp dụng “phương thức ASEAN bằng cách cho phép thực hiện các nguyên tắc.
Việc quyết định thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN Trung Quốc từ 2002 và dặc biệt là tuyên bố ở bali II năm 2003 về thiết lập AC dựa trên 3 trụ cột chính là cộng đồng kinh tế (AEC) cộng đồng an ninh (ASC) và cong đồng văn hóa xã hội (ASCC) vào năm 2020 là những quyết định đúng hướng kinh tế kịp thời của ASEAN trước nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
1.2.1Những ưu điểm:
Ưu điểm chính của Việt Nam là địa dư. Người ta thường phân biệt các nước ASEAN thành hai loại: những nước ASEAN hải dương (Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines và Singapore) và những nước ASEAN lục địa (Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam). Nhưng Việt Nam có thể được coi vừa là một nước lục địa vừa là một nước hải dương.
Nhờ địa hình địa thế đó mà hàng hóa Việt Nam, dù để tiêu thụ trong nước hay để xuất khẩu, không cần phải quá cảnh những nước láng giềng. Ngược lại, hàng hóa của vùng Đông Bắc Thái Lan, Lào, Campuchia và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) xuất khẩu sang những nước khác có tiềm năng quá cảnh và tạm thời lưu kho trên lãnh thổ Việt Nam, Thái Lan, Myanmar và tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc). Myanmar không phải là một đối thủ cạnh tranh vì địa thế hiểm trở làm cho hệ thống giao thông với những lãnh thổ phía Đông và phía Bắc không thuận tiện. Thái Lan và tỉnh Quảng Tây là đối thủ đang áp đảo Việt Nam. Nhưng bờ biển Thái Lan nằm gọn trong vịnh Thái Lan và bờ biển tỉnh Quảng Tây nằm gọn trong vịnh Bắc bộ. Trên phương diện hậu cần quốc tế, hai vịnh này là những ngõ kẹt. Vậy hàng ngoại thương của Lào, Campuchia và tỉnh Vân Nam quá cảnh Việt Nam sẽ được chở mau và rẻ hơn là qua những đường khác. Việt Nam và chín nước (và lãnh thổ) khác bao quanh biển Đông, nơi có nhiều hàng qua lại nhất thế giới. Đài Loan, với cảng Cao Hùng, và Trung Quốc, với những cảng Hồng Kông và Thượng Hải, là những điểm đến và đi của những tuyến tàu biển nối liền với cảng Singapore. Bây giờ những tàu lớn chạy trên những tuyến đó không cần phải đậu ở giữa đường để mua than chạy máy như ngày xưa. Một số tàu cỡ nhỏ (feeder) đến cỡ trung (sub panamax) chỉ có thể dừng chân ở những cảng Việt Nam để chất, dỡ hàng của Việt Nam và của những nước láng giềng, mua thêm thực phẩm tươi, cho thủy thủ đoàn nghỉ ngơi, bảo quản định kỳ hay sửa chữa bất thường... Đây là một lợi thế của Việt Nam vì Malaysia quá gần Singapore còn Philippines và Indonesia là những quần đảo không có hậu phương. Nhìn bản đồ Đông Nam Á thì thấy rằng, trừ Jakarta, thủ đô Indonesia, tất cả thủ đô các nước ASEAN đều cách Tp.HCM non hai giờ máy bay. Đài Bắc và Dakka, thủ đô Bangladesh, cũng chỉ cách Hà Nội có hơn hai giờ bay. Miền Nam Trung Quốc, vùng có kinh tế phát triển mạnh nhất của nước này, ở trọn trong tầm hai giờ bay từ Hà Nội. Ba cảng trong số những cảng lớn nhất thế giới, Singapore, Hồng Kông và Cao Hùng, cách Hà Nội hay Tp.HCM non hai giờ bay. Nói một cách khác, Việt Nam nằm ngay giữa vùng kinh tế sôi động nhất thế giới. Vị trí trung tâm này đã là một trong số những nguyên nhân của bốn chục năm chiến tranh mà Việt Nam đã phải chịu đựng. Bây giờ, với hòa bình được lập lại, vị trí đó có thể được dùng vào mục đích phát triển kinh tế. Việt Nam có nhiều sông và núi. Nhiều sông có lưu lượng lớn, kể cả những dòng sông Trung bộ, có thể tiếp nhận được các xuồng có khổ lớn, thậm chí tàu biển. Nhờ thế, tàu biển có thể vào sâu trong đất liền, tránh phải chuyển tải. Vận tải bằng đường thủy có thể chiếm một thị phần quan trọng. Việt Nam có thể là một trong số nhỏ những quốc gia có tất cả năm phương tiện giao thông: đường bộ, đường sắt, đường sông, đường biển và đường hàng không, quan trọng ngang nhau. Việt Nam chưa đô thị hóa quá đáng so với những nước châu Á khác. Trung bình mật độ dân cư cao nhưng chỉ có hai khu đô thị lớn cách nhau hơn 1.500 ki lô mét: Tp.HCM, với 5,9 triệu dân, và Hà Nội, với 3,1 triệu dân. Nếu tính thêm những tỉnh tiếp giáp thì vùng đô thị Tp.HCM cũng chỉ có 14,1 triệu dân. Theo điều tra mới nhất của Bộ Giao thông Vận tải, các địa phương trên tuyến quốc lộ 1 (đi qua 30 tỉnh và thành phố) đều lấy tuyến này làm trục đô thị và quy hoạch cho 130 thành phố, thị xã và thị trấn. Tổng chiều dài đô thị hóa là 550 ki lô mét (không kể khu dân cư nhỏ chưa xếp loại đô thị), chiếm 24% chiều dài toàn tuyến. Dân số phân bố đồng đều trên toàn lãnh thổ như vậy là một điều thuận lợi về quốc phòng cũng như về tiềm năng đi tới một nền công nghiệp tiên tiến mà không đặt ra nhiều vấn đề khó khăn về dân cư, giao thông, vệ sinh và môi trường.
Nếu quan sát động thái, xâu chuỗi diễn biến tình hình chính trị và an ninh, phân tích địa chính trị - kinh tế thế giới qua các thời kỳ từ nửa sau thế kỷ XX đến thập niên đầu thế kỷ XXI, nhất là quãng thời trước và sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN trong năm 1995, có thể thấy rằng: Thời kỳ trước năm 1995, thế giới còn hoài nghi về sự thành công của ASEAN, thậm chí coi ASEAN là một tổ chức quân sự thân Mỹ chống cộng, chống Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Chỉ sau khi các định chế của ta với tư cách là Nhà nước Việt Nam chủ động hội nhập khu vực và thế giới về kinh tế, chia sẻ những tương đồng về văn hoá, hợp tác phát triển khoa học và công nghệ, chủ động giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong hoạt động lập pháp và cải cách tư pháp,... thì hình ảnh ASEAN trên thế giới và khu vực thay đổi hoàn toàn - ASEAN không phải là một tổ chức quân sự tập thể. Và, cũng chỉ khi Việt Nam gia nhập ASEAN, các quốc gia khác trong khu vực mới nhanh chóng gia nhập Hiệp hội, thúc đẩy khu vực phát triển nhanh và mạnh hơn, nhất là thực hiện được ước mơ tất cả 10 quốc gia ở khu vực cùng trong một Hiệp hội (chưa kể CHDC Đông Timo non trẻ với số dân chưa tới một triệu người).
Thực tế cho thấy, Việt Nam gia nhập ASEAN, và ngay sau đó Quốc hội ta gia nhập AIPO đã thể hiện sự coi trọng cơ chế hợp tác liên nghị viện, ý thức đầy đủ AIPO là động lực quan trọng thúc đẩy các chương trình hợp tác nội khối và tranh thủ tác động tích cực từ phía liên nghị viện và nghị viện các nước ngoài khu vực. Rất nhiều nước, tổ chức thừa nhận rằng, Việt Nam đã đóng góp nhiều sáng kiến mở ra khả năng hiện thực cho việc khai phá và phát triển vùng sông Mê Kông mở rộng mà ngày nay trở thành khu vực phát triển rất năng động, thu hút hàng tỷ USD đầu tư từ bên ngoài vào khu vực. Đến nay tổng sản phẩm quốc nội của ASEAN đạt 737 tỷ USD, tổng giá trị buôn bán đạt khoảng 720 tỷ USD.
Về chính trị, sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, toàn bộ các nước Đông Nam Á hợp thành một khối thống nhất, làm thay đổi bản chất quan hệ giữa ASEAN với Trung Quốc. ASEAN không chỉ trở thành đối tác về quan hệ kinh tế, chính trị, an ninh với Trung Quốc mà còn với cả các cường quốc khác trong khu vực. Vấn đề Biển Đông đã và đang được giải quyết bằng các giải pháp thích hợp thông qua đối thoại, giảm thiểu các cuộc tranh chấp trên biển nhằm làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hợp tác và hoà bình, trong đó Việt Nam đã đóng góp quan trọng cho Hiệp hội trong vấn đề này. Việc Việt Nam gia nhập các cơ chế hợp tác liên chính phủ và liên nghị viện cũng là yếu tố tích cực thúc đẩy mở rộng hợp tác với nhiều bên đối thoại trên nhiều lĩnh vực với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước lớn, các nền kinh tế lớn khác.
Các quốc gia trong khu vực và nhiều nước khác từng ghi nhận rằng, trong sự phát triển của ASEAN mỗi tiến bộ đều có sự hỗ trợ rất tích cực, Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển chung đó, vì Việt Nam có một nền tảng vững chắc, đó là sự ổn định. Nhân tố quan trọng khác là, với dân số hơn 80 triệu người, Việt Nam là thị trường khá lớn, có nhiều cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài. Những nhân tố này tạo nên sức mạnh để Việt Nam phát triển mạnh mẽ, toàn diện và vững chắc hơn. Là thành viên của ASEAN, Việt Nam có thể sử dụng nội lực này để thúc đẩy và góp phần duy trì sự ổn định hướng tới mục tiêu hoà bình, hợp tác phát triển, cùng nhau phấn đấu vì sự thịnh vượng của khu vực.
Mười năm tham gia các chương trình hợp tác, các hoạt động của ASEAN, tuy chưa nhiều so với các thành viên sáng lập nhưng nước ta được các đối tác nhấn mạnh ưu điểm của Việt Nam là rất có trách nhiệm với những cam kết trước ASEAN, và Quốc hội Việt Nam giám sát việc thực hiện các cam kết quốc tế rất nghiêm túc. Chắc hẳn các nhà lãnh đạo, các quan chức chính phủ, nhân dân và các nghị sỹ đại diện cho họ ở các quốc gia trong khu vực và nhiều nơi trên thế giới còn ghi đậm thành công to lớn của Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 6 (1998) với Tuyên bố Hà Nội và Chương trình hành động Hà Nội với dấu ấn Việt Nam. Chính phủ và Quốc hội ta đã đảm đương và làm trọn trách nhiệm thành viên của tổ chức trọng yếu của khu vực là ASEAN
Các quốc gia trong khu vực đang hướng tới thành lập một cộng đồng ASEAN theo “Tầm nhìn năm 2020” trên cơ sở hội nhập về kinh tế, sự hợp tác về văn hoá cũng như hợp tác về chính trị. Xin được đưa ra đánh giá của các quan chức ASEAN và nhiều nghị sỹ của AIPO về vai trò và vị trí của Việt Nam để thay cho lời kết, Cùng với tính kỷ luật, sự dồi dào về năng lực, Việt Nam đang góp phần đẩy con thuyền ASEAN vững bước tiến về đích. Việt Nam cũng đang có tiếng nói rất quan trọng trong ASEAN, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong các quan hệ quốc tế.
1.2.2.Những nhược điểm:
Nhược điểm quan trọng của Việt Nam là người Việt không chú trọng mấy đến vấn đề bảo quản. Cầu đường, nhà cửa hay những cơ sở hạ tầng và thiết bị công nghiệp xây xong một hai năm đã xuống cấp, phần vì đã không được thực hiện hoàn chỉnh, phần vì chủ đầu tư, kể cả những tư nhân, không dự trù ngân sách và nhân lực bảo quản. Đây là một đặc tính văn hóa khó có thể sửa được. Trong số những nhược điểm cần được khắc phục có thể kể: - Công chức tham nhũng và thiếu khả năng nghiệp vụ, hậu quả của chính sách giáo dục đào tạo chậm được đổi mới; - Phân chia trách nhiệm quyền hành giữa các bộ ngành của Chính phủ không rõ rệt làm cho những quyết định không được phối hợp hài hòa; - Hạ tầng và thiết bị hậu cần không thích ứng với nhu cầu phát triển và hiện đại hóa kinh tế xã hội; - Ngoài vài tuyến giao thông với Trung Quốc, mạng giao thông ít kết nối với những nước lân cận; - Phần lớn kinh tế vẫn còn tính chất thủ công hay công nghiệp sơ khai; - Thiếu những phương tiện quản lý điện tử mà các nước trong vùng đã có: thủ tục ra vào cảng, hải quan và thủ tục giao dịch thương mại kết nối giữa tất cả các đối tác và tiềm năng vận tải sẵn có trên thế giới. - Mặc dù kinh tế tăng mạnh, Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo, lại giáp giới với hai nước nghèo nhất của khối ASEAN. Tỉnh Vân Nam cũng trong số những tỉnh nghèo của Trung Quốc. - Ngoài phần biên giới với phía Nam Campuchia ra, lãnh thổ Việt Nam có núi hiểm trở bao quanh làm giao thương với những nước láng giềng không tiện mấy. Việt Nam ở cuối bán đảo Đông Dương nên giao thương bằng đường bộ và đường sắt giữa những nước ở phía Tây và phía Bắc Myanmar có xu hướng đi tắt không quá cảnh những nước Đông Dương. Giao thương bằng đường biển của những nước đó có xu hướng vòng qua eo Malacca rồi đi thẳng sang Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản qua biển Đông mà không dừng ở Việt Nam. - Mạng đường sắt Việt Nam kết nối với mạng của Trung Quốc nhưng mạng của Việt Nam có khổ 1.000 mi li mét còn mạng của Trung Quốc có khổ tiêu chuẩn 1.435 mi li mét. Mạng đường sắt của những nước láng giềng khác có khổ 1.000 mm nhưng lại không kết nối với mạng của Việt Nam. - Dọc bờ biển Việt Nam có nhiều sông đổ ra những khối lượng phù sa rất lớn. Vì thế mà Việt Nam có ít địa điểm thuận tiện để xây cảng lớn nước sâu và, nếu có, thì phải luôn luôn nạo vét luồng lạch để tránh cho cảng bị bồi đắp.
2. Một số tác động của việc tham gia quá trình hội nhập kinh tế
Việt Nam chọn cách tham gia “ít nhất có thể” và “kéo dài lâu nhất có thể” trong các cam kết cắt giảm thuế quan và mở cửa thị trường vô hình chung đã tạo cho doanh nghiệp sự bảo hộ, khiến phần lớn doanh nghiệp Việt Nam thiếu động lực cạnh tranh. Họ dường như không quan tâm nhiều đến việc xây dựng một chiến lược kinh doanh khu vực và xa hơn là toàn cầu.
Trước thực trạng đó, việc hình thành AEC sẽ có tác động không nhỏ đến Việt Nam. Thừa nhận vẫn cần phải có những nghiên cứu sâu hơn về tác động của AEC với điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhưng các chuyên gia cũng đưa ra dự báo bước đầu rằng việc tham gia tiến trình AEC sẽ tạo thêm thương mại với Việt Nam. Điều này phản ánh rõ rệt qua hàng rào thuế quan của Việt Nam.
Số liệu của Viện Kinh tế và chính trị thế giới cho thấy mức thuế quan bình quân của Việt Nam theo CEPT vẫn cao gần gấp đôi mức bình quân của ASEAN-10 (6,22% so với 3,33%) và gần 20% dòng thuế quan vẫn có thuế suất trên 5% nên hiệu ứng “tạo thêm thương mại” với Việt Nam sẽ lớn khi hàng rào thuế quan của Việt Nam thấp hơn.
Dòng đầu tư nước ngoài chảy vào Việt Nam được dự báo cũng sẽ mạnh hơn cả về số lượng cũng như chất lượng khi Việt Nam tham gia tiến trình AEC.
Các nhà đầu tư sẽ tìm đến Việt Nam không chỉ bởi một quy mô thị trường của AEC hơn 500 triệu dân với trên 1.000 tỷ USD GDP, mà còn bởi chi phí kinh doanh và giao dịch sẽ giảm mạnh qua việc cải thiện môi trường đầu tư.
Khi đầu tư trực tiếp gia tăng, tất yếu nước đón nhận sẽ được hưởng lợi từ những công nghệ chuyển giao, tạo thêm việc làm, phát triển nguồn nhân lực và mở ra kênh tiếp cận thị trường khu vực và thế giới.
Theo các chuyên gia kinh tế, đó là những “hiệu ứng động” mà Việt Nam phải biết chớp lấy. Lưu ý này xuất phát từ thực tế hiện nay Việt Nam còn áp dụng khá nhiều biện pháp phi thuế quan cũng như rào cản kinh doanh nếu không được điều chỉnh đồng bộ sẽ dẫn đến “chệch hướng đầu tư” khỏi Việt Nam.
Một nhận định quan trọng khác được các chuyên gia đưa ra tại hội nghị này là, việc Việt Nam tham gia AEC sẽ không có những tác động lớn đến việc chuyển dịch nguồn thu ngân sách nhưng sẽ tác động tích cực tới quá trình cải cách thuế và cơ cấu thu ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hội nhập kinh tế thương mại Asean – Việt Nam.docx