MỤC LỤC
Phần mở đầu
Chương một: Những điểm chính yếu của hôn nhân Công giáo
I. Bí tích hôn nhân
A. Hôn nhân Công giáo là một bí tích
B. Hình ảnh của sự giao kết giữa Chúa Kitô và Giáo hội
1. Tình yêu vợ chồng, biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người
2. Hình ảnh của sự giao kết giữa Chúa Kitô và Giáo hội
C. Phụng vụ bí tích hôn nhân
1.Chuẩn bị
2.Cử hành
II. Mục đích của hôn nhân Công giáo
1. Yêu thương, giúp đỡ nhau
2. Sinh sản và giáo dục con cái
III. Ðặc tính của hôn nhân Công giáo
1. Ðơn nhất
2. Bất khả phân ly
Chương hai: Vấn đề sinh sản
I. Sinh sản có trách nhiệm
1. Những nguyên tắc căn bản cho việc hạn chế sinh sản
2. Ba tiêu chuẩn thực tế cần tuân thủ
3. Ðiều hòa sinh sản
4. Thụ thai trong ống nghiệm
II. Phá thai
1. Thiên Chúa là chủ sự sống
2. Phá thai, tội giết người
III. Những ứng dụng công nghệ sinh học vào việc sinh sản
1. Thụ thai trong ống nghiệm
2. Liệu pháp gen
3. Sinh sản vô tính
4. Mang thai hộ
5. Làm mẹ sau khi chết
6. Tái sinh
7. Khoa học và đạo đức
8. Giáo hội nghĩ gì ?
Chương ba: Vấn đề tiêu hôn trong hôn nhân Công giáo
I. Những điều kiện để cử hành hôn nhân thành sự
A. Ngăn trở tiêu hôn
B. Sự thỏa thuận hôn nhân
C. Thể thức hôn nhân
II. Chuẩn chước ngăn trở
1. Trường hợp thông thường
2. Trường hợp nguy tử
3. Trường hợp khẩn cấp
III. Sự hợp thức hóa hôn phối
1. Sự khác biệt giữa thủ tục đơn thường và điều trị tận căn
2. Hợp thức hóa đơn thường
3. Ðiều trị tận căn
IV. Việc xin tiêu hôn
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Mục lục
98 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5282 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hôn nhân công giáo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h ở tòa ngoài (đ. 1074), thì việc lặp lại sự ưng thuận cần phải theo thể thức pháp định 1 .
b. Ðối với sự hà tì ưng thuận (đ. 1159)
Trường hợp này xảy ra khi một người vô khả năng ưng thuận, hoặc đã không ưng thuận (như giả vờ), hoặc ưng thuận đã bị tổn thương (như đặt điều kiện, man trá, bị ép duyên). Ðể được hợp thức hóa, thì người đã không ưng thuận hay ưng thuận bị hà tì cần phải lặp lại sự ưng thuận. Nếu hà tì của sự ưng thuận có thể chứng minh ở tòa ngoài, thì việc lặp lại đó phải tiến hành theo thủ tục pháp định. Nếu không thể chứng minh , thì có thể làm cách kín đáo.
c. Ðối với sự hà tì thể thức pháp định (đ. 1160)
Sự hà tì thể thức pháp định không phải do hai người chưa bao giờ kết hôn, mà do những nguyên nhân khác, như người chứng hôn không có thẩm quyền, hoặc sự ủy quyền vô hiệu. Ðể được hợp thức hóa, cả hai vợ chồng cần phải lặp lại sự ưng thuận theo thể thức pháp định.
3. Ðiều trị tận căn (đ. 1161 - 1165)
Thẩm quyền của Giáo hội có thể điều trị tận căn khi lý do của sự vô hiệu thuộc về luật Giáo hội: hôn nhân vô hiệu vì mắc ngăn trở thuộc giáo luật, hà tì thể thức pháp định. Do đó, không thể điều trị tận căn khi lý do của sự vô hiệu thuộc luật tự nhiên, cụ thể trong những trường hợp sau : vô hiệu vì hà tì ưng thuận 1 ; vì ngăn trở theo luật tự nhiên, bao lâu ngăn trở này chưa chấm dứt.
Khi được thẩm quyền Giáo hội chuẩn miễn cho thành sự, thì lập tức thành sự. Có thể điều trị tận căn cả khi một bên hoặc hai bên không biết đến. Nói cách khác, không cần phải là chính đôi vợ chồng đứng ra xin; nhưng có thể là một người nào đó biết lý do của sự vô hiệu, và tự ý đứng ra xin ban điều trị tận căn, miễn là giả thiết hai vợ chồng còn muốn sống chung với nhau. Như đã nói, điều trị tận căn có hiệu lực hồi tố, nghĩa là kể từ ngày cử hành hôn lễ.
Ðức Giám mục giáo phận có thể ban điều trị tận căn cho từng đôi hôn thú riêng rẽ, trừ các ngăn trở dành cho Tòa thánh (chức thánh, lời khấn trọn đời trong dòng tu thuộc luật Tòa thánh, mưu sát phối ngẫu, ngăn trở thuộc luật thiên định mà nay đã chấm dứt).
Tuy nhiên, việc hợp thức hóa không thể giải quyết tất cả mọi trường hợp được. Có những trường hợp rất nan giải như trường hợp một người bị chồng bỏ, bà đi lấy chồng khác và đã có con cái. Hôn nhân thứ hai này hoàn toàn vô hiệu và cũng không thể hợp thức hoá bao lâu người chồng trước còn sống. Hoặc trường hợp Tòa án giáo phận tuyên bố một bên chết, bên kia tái lập gia đình, nhưng thực ra không chết, thì hôn nhân sau thế nào? Dĩ nhiên hôn nhân sau không thành.
IV. VIỆC XIN TIÊU HÔN
Hôn nhân là công trình của Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa đã dựng nên con người có nam, có nữ để họ kết hợp với nhau nên một thân xác. Dựa vào Lời Chúa: "Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19, 6), Hội thánh nghĩ mình không có quyền chuẩn miễn cho ai, trừ một số trường hợp hôn nhân bất thành, hay thành rồi mà hai bên chưa ăn ở với nhau theo nghĩa vợ chồng (GL 1141- 1150).
Tuy nhiên, Hội thánh có thể tuyên bố trường hợp nào đó đã cử hành bí tích hôn phối nhưng không thành sự, nghĩa là tiêu hôn, như hai người lấy nhau mà bị ép buộc chứ không hoàn toàn tự do. Tòa án hôn phối của giáo phận nhận đơn xin tiêu hôn và sẽ điều tra cũng như làm những thủ tục cần thiết để phân xử. Như trên đã trình bày, để hôn nhân được thành hiệu, thì đôi vợ chồng không mắc ngăn trở tiêu hôn, bày tỏ sự ưng thuận kết hôn, tuân giữ thể thức pháp định. Do đó, để xin tuyên bố hôn nhân vô hiệu, cần phải viện ra một trong ba lý do trên. Bộ Giáo luật dự trù thủ tục tuyên bố hôn nhân vô hiệu từ các điều 1671 đến 1691.
Tóm lại, hôn nhân Kitô giáo là một bí tích, do Thiên Chúa thiết lập. Những gì do thiên luật, Hội thánh chỉ có quyền giải thích; còn những luật lệ do Hội thánh đặt ra, thì Hội thánh cũng có quyền chuẩn chước. Trước khi kết hôn, đôi vợ chồng cần tìm hiểu xem họ có bị ngăn trở tiêu hôn không. Nếu có, và nếu ngăn trở đó thuộc luật Hội thánh, họ cần phải xin chuẩn miễn ngăn trở đó trước khi kết hôn. Khi hôn nhân đã thành sự và hoàn hợp thì Hội thánh không có quyền tháo cởi. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp hôn nhân được cử hành đúng thể thức, nhưng lại không thành sự vì bị ngăn trở tiêu hôn hoặc bị ép buộc,. Bởi đó, Hội thánh có những tòa án hôn phối để xử những trường hợp như thế. Trong một số trường hợp hôn nhân vô hiệu, nếu họ còn muốn sống chung với nhau, họ cũng có thể tự hợp thức hóa hoặc xin hợp thức hóa. Cũng nên biết rằng, trong thực tế, có những trường hợp không dễ gì tìm ra giải pháp thích hợp. Bởi đó, khi gặp trường hợp nan giải, người Kitô hữu cần xin ơn Chúa soi sáng và thêm sức mạnh để có thể sống đạo một cách tốt đẹp.
PHẦN KẾT LUẬN
Bộ Thánh kinh đã nói đến mầu nhiệm hôn nhân trong ý định của Thiên Chúa, khi mở đầu bằng việc Thiên Chúa tạo dựng người nam và người nữ giống hình ảnh Ngài (St 1, 26- 27), và kết thúc với thị kiến về "tiệc cưới của Con Chiên" (Kh 19, 7.9). Từ đầu đến cuối, bộ Thánh kinh nói về sự thiết lập, ý nghĩa, nguồn gốc, cùng đích, những thực hiện khác nhau của hôn nhân trong lịch sử cứu độ, về những khó khăn gây nên do tội lỗi và về việc hôn nhân được đổi mới "trong Chúa" (1 Cr 7, 39), trong giáo ước mới của Chúa Kitô và Giáo hội.
Thiên Chúa là tình yêu và Ngài đã sáng tạo con người vì tình yêu. Ngài cũng kêu gọi con người tới tình yêu, một ơn gọi nền tảng và bẩm sinh của con người. Thiên Chúa đã tạo thành con người có nam có nữ, nên tình yêu của hai người đối với nhau là hình ảnh của tình yêu tuyệt đối và bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người. Người nam và người nữ được sáng tạo cho nhau, bổ túc cho nhau. Họ không còn là hai nữa mà trở nên một xác thịt. Và sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, thì con người không có quyền phân ly.
Chúa Kitô đã nâng hôn nhân lên hàng bí tích và Ngài ban sức mạnh và ân sủng để người ta sống cuộc hôn nhân trong chiều kích mới của nước Thiên Chúa. Bước theo Chúa Kitô, từ bỏ chính bản thân mình và vác thập giá của mình để theo Ngài, các cặp vợ chống sẽ có thể hiểu biết ý nghĩa nguyên thủy của hôn nhân và sống ý nghĩa đó nhờ sự trợ giúp của Ngài. Hôn nhân Kitô giáo trở thành một dấu hiệu hữu hiệu, bí tích của giao ước giữa Chúa Kitô và Giáo hội. Ân sủng của bí tích sẽ kiện toàn tình yêu loài người của đôi vợ chồng, củng cố tính đơn nhất và bất khả phân ly của họ, và thánh hóa họ trên con đường đi tới sự sống muôn đời.
Bí tích này cao cả, nhưng nó cũng gây ra không ít khó khăn, nhất là đối với con người sống trong xã hội tục hóa ngày nay. Cuộc sống hưởng thụ đã làm cho con người coi nhẹ, hay không còn ý thức về sự tôn trọng và trách nhiệm đối với người bạn đời cũng như đối với con cái. Bởi đó, những người sắp bước vào hôn nhân cần được chuẩn bị kỹ càng để hiểu biết những giá trị cao qúi và thánh thiêng của hôn nhân, và sẵn sàng chấp nhận những hy sinh cần thiết để giữ cho hôn nhân được vững bền mãi. Họ được mời gọi biểu thị ngày càng rõ hơn tình yêu của Chúa Kitô đối với Giáo hội qua chính tình yêu của họ, một tình yêu sẽ được lớn lên bằng cách trung thành thực hiện sứ mạng của mình.
Tính đơn nhất, tính bất khả phân ly, tình yêu vợ chồng và sự sẵn sàng đón nhận con cái là những điểm chủ yếu của hôn nhân. Con cái chính là quà tặng của Thiên Chúa, là kết quả của tình yêu vợ chồng, là mối dây liên kết cho tình yêu của họ thêm bền chặt. Gia đình Kitô giáo là nơi mà trẻ nhỏ nhận được lời loan báo đầu tiên của đức tin, là cộng đồng tình yêu, ân sủng và việc cầu nguyện, là trường học của các nhân đức nhân bản và của đức bác ái Kitô giáo. Bởi đó, Giáo hội ước ao cho các đôi vợ chồng biết sinh dưỡng con cái một cách có trách nhiệm, đón nhận và tôn trọng mầm sống mới mà Thiên Chúa trao phó cho họ. Ðây cũng là một sứ vụ cao cả, một vinh dự lớn lao của đôi vợ chồng.
Giáo hội cũng phải biết sử dụng khoa học kỹ thuật như là phương tiện Chúa ban để cộng tác vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, làm phong phú đời sống của con cái mình. Những vấn đề sinh học liên quan đến đạo đức, Giáo hội cần có những nghiên cứu sâu hơn; đồng thời quan tâm hơn nữa đến những nhu cầu, khát vọng và niềm hạnh phúc của con cái mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. SÁCH
1. J. Gélineau, Họp nhau cử hành Phụng vụ, tập II, Trần Thái Ðỉnh dịch
2. Gia đình Hạnh phúc, quyển I, Lớp Giáo lý Hôn nhân, 1999.
3. Giáo hoàng Học viện thánh Piô X, Thánh Công đồng Chung Vaticanô II, Ðà Lạt, Việt Nam.
4. Giáo luật- Giải thích và Áp dụng, quyển 4, Roma 1992.
5. Ðức Gio-an Phao-lô II, Thông điệp Tin Mừng về Sự sống.
6. Ðức Gio-an Phao-lô II, Thư gởi các Gia đình- Năm Gia đình 1994.
7. Hôn nhân và Gia đình dưới Ánh sáng Tin Mừng.
8. Hội đồng Giám mục Việt Nam, Giáo luật Hội thánh Công giáo 1983.
9. Lm. Mai Văn Hùng, Khám phá lại Luân lý Kitô giáo, UBÐKCG, Tp.HCM.
10. Lm. Mai Văn Hùng, Tình dục- Tình yêu- Hôn nhân.
11. Luân lý Công giáo- Luân lý Chuyên biệt, Tủ sách Toát Yếu.
12. Th. Rey- Mermet, Sống đức tin trong các Bí tích.
13. Người Salêdiêng, Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo.
14. Nhóm Phụng vụ Giờ kinh, Kinh thánh trọn bộ- Cựu ước và Tân ước, Nxb. Tp.HCM.
15. Ðức Phao-lô VI, Thông điệp Humanae Vitae.
16. Lm. Ðỗ Xuân Quế, Các Bí tích- Thêm sức, Xức dầu, Hôn phối, Truyền Chức thánh.
17. Lm. Robert A. Ruhnke C.SS.R., For Better and For Ever.
18. Lm. Pl. Nguyễn Ngọc Thử, Các Ngăn trở Hôn phối theo Giáo luật và Dân luật, Ðại chủng viện Thánh Qúi, 1993.
19. Tổng Giáo phận tp. HCM, tư liệu tuần tĩnh tâm linh mục 1997, Giáo hội và Sự sống.
20. R.D. Wahrheit, Tính hiện đại của Thông điệp Sự Sống Con người.
21. Lm. Fx. Tân Yên, Cử hành Phụng vụ Bí tích theo Giáo luật.
II. TẠP CHÍ
22. Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, các số 6, 8, 74.
23. Phụ san Khoa học Phổ thông, các số 478, 481, 488, 528, 535, 545, 561.
24. Thế Giới Mới, các số 134, 223.
25. Thời sự Công giáo 1994, số 7
III. BÁO
26. Phụ Nữ, ngày 10/1/2001.
27. Sài gòn Giải phóng, ngày 25/5/1998.
28. Thanh Niên, ngày 14/2/2001; 14/3/2001.
29. Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 1192.
IV. INTERNET
30.
31.
Phần mở đầu
Chương một: Những điểm chính yếu của hôn nhân Công giáo
Chương hai: Vấn đề sinh sản
Chương ba: Vấn đề tiêu hôn trong hôn nhân Công giáo
Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
Mục lục
HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
PHẦN MỞ ÐẦU
I. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, chúng ta đang chứng kiến những thay đổi chóng mặt. Nhiều giá trị bị đảo lộn đã dẫn đến những thử thách lớn lao. Một trong những thử thách đó là vấn đề hôn nhân.
Chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường, đề cao hưởng thụ, tự do, cá nhân, chính là kẻ thù vô hình, làm cho con người càng ngày càng xa lìa những giá trị của tôn giáo. Công nghệ thông tin đã làm cho con người ngày nay thay đổi rất nhiều, đặc biệt là nó tác động trên cả cách sống, cách suy nghĩ của con người. Nền kinh tế toàn cầu tác động đến giới trẻ mạnh mẽ nhất. Họ chạy theo một thứ văn minh vật chất, một thứ văn hóa thác loạn, điên cuồng, biểu hiện qua những loại nhạc kích động, những cách ăn mặc lố lăng, và nhất là một lối sống buông thả, yêu vội, hôn nhân thử, hôn nhân không giá thú, lối sống vô đạo đức được công khai quảng cáo ồ ạt qua sách báo, video, Internet. Ở những thành phố lớn, tình yêu, hôn nhân gia đình đang bị khủng hoảng trầm trọng. Tình trạng nạo phá thai đến mức báo động. Theo thống kê của một số tổ chức của Liên Hiệp Quốc, Việt Nam là một trong ba quốc gia có tỉ lệ nạo phá thai lớn nhất thế giới.
Nhiều nước Châu Âu, với đa số dân theo Kitô giáo, đã bỏ phiếu tán thành luật cho phép ly dị là một bằng chứng cho thấy vị trí Giáo hội không còn như xưa nữa. Thật vậy, ở các nước phát triển, hơn 50% các cặp vợ chồng sống với nhau bất chấp hôn nhân và thoải mái chia tay nhau khi thấy không còn "có lợi" nữa. Ở Pháp, người ta công nhận quyền làm cha mà không cần hôn thú (1970), cho phép ngừa thai và phá thai đối với trẻ vị thành niên (1972), cho phép ly dị (1975). Ngay tại Rôma, nơi người Công giáo chiếm 78% dân số, nhưng trong số này chỉ có 23% còn hành đạo; 50% ủng hộ việc linh mục lập gia đình; 75% ủng hộ ly dị, ngừa thai, hôn nhân không giá thú, hay ăn ở với nhau trước khi làm lễ cưới; 50% coi chuyện đồng tính luyến ái như chẳng có vấn đề; và chỉ có 14% chống việc phá thai.
Những con số trên đây, đặc biệt là 75% người ủng hộ ly dị, ngừa thai. cho thấy đông đảo người Công giáo không còn tuân theo các nguyên tắc đạo đức mà Giáo hội vẫn còn tiếp tục bảo vệ.
Theo Ðức Giáo hoàng Gioan Phaolô II, giữa những thách đố khó nhất đối diện Giáo Hội ngày nay, là thách đố từ một nền văn hoá lan tràn rộng khắp của chủ nghĩa cá nhân, thứ chủ nghĩa có khuynh hướng hạn chế và thu hẹp hôn nhân và gia đình vào trong phạm vi riêng tư.
Như vậy, hôn nhân Công giáo có còn giá trị gì không? Tỷ lệ ly dị ngày càng khá cao, lối sống hưởng thụ ngày càng lan rộng, nhưng không có nghĩa là hôn nhân không còn giá trị. Nó đòi hỏi chúng ta cần có một cái nhìn đúng đắn, chính xác và chuẩn bị hôn nhân kỹ càng hơn.
Hôn nhân Công giáo là một lời thề hứa. Một lời thề hứa với tất cả ý thức và tự do, rập khuôn theo lời hứa của Thiên Chúa với con người, chung sống với nhau một cách vĩnh viễn và vô điều kiện. Sự tự do lựa chọn này là yếu tố tiên quyết của hôn nhân Công giáo, vì chỉ có môi trường gia đình bền vững mới có thể gầy dựng và nuôi dưỡng con cái. Hội thánh phải sống và giảng dạy luật Chúa, hơn là thỏa hiệp với lối sống của phần đông người hiện nay.
Chọn đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu kỹ lưỡng hơn về hôn nhân Công giáo; qua đó, góp phần khơi dậy ý thức nơi người trẻ về ý nghĩa cao cả và thánh thiêng của hôn nhân Công giáo. Chúng tôi cũng tìm hiểu về những ứng dụng của công nghệ sinh học trong vấn đề sinh sản, đang gây ra những rắc rối trong thời đại chúng ta, hầu giúp cho giới trẻ nắm vững được giáo huấn của Giáo hội, cũng như giúp cho bản thân trong công tác mục vụ sau này.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Ðể thực hiện công trình này, chúng tôi sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích và tổng hợp nội dung.
III. GIỚI HẠN ÐỀ TÀI
Ðề tài "Hôn nhân Công giáo " rất bao la, bao gồm nhiều lãnh vực khác nhau. Vì khuôn khổ của một bài luận văn tốt nghiệp cũng như thời gian và khả năng có hạn, nên công trình nghiên cứu này chỉ trình bày những vấn đề sau đây:
- Chương một : Những điểm chính yếu của hôn nhân Công giáo.
- Chương hai : Vấn đề sinh sản.
- Chương ba : Vấn đề tiêu hôn trong hôn nhân Công giáo.
Chương một
NHỮNG ÐIỂM CHÍNH YẾU CỦA HÔN NHÂN CÔNG GIÁO
Hôn nhân Công giáo không phá bỏ hôn nhân tự nhiên, bởi vì hôn nhân này do Thiên Chúa thiết lập. Chúa Kitô cũng khẳng định thể chế hôn nhân này: "Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly" (Mt 19, 6). Khi hai người ngoài Kitô giáo kết bạn với nhau, hôn nhân của họ có giá trị trước mặt Thiên Chúa, không ai tháo gỡ được. Ðối với người Kitô hữu, hôn nhân của họ được Chúa Kitô nâng lên hàng bí tích. Thiên Chúa không những ban ơn tự nhiên, mà còn ban ơn siêu nhiên cho họ để họ chu toàn trách nhiệm làm vợ chồng và cha mẹ trong ơn gọi làm con Thiên Chúa. Nhưng làm thế nào mà hôn nhân tự nhiên lại trở thành bí tích trong hôn nhân Công giáo? Sự khác biệt giữa hôn nhân tự nhiên và hôn nhân Công giáo là gì? Ðể trả lời cho những câu hỏi này, chúng tôi sẽ trình bày những yếu tố căn bản của hôn nhân Công giáo
I. BÍ TÍCH HÔN NHÂN
A. Hôn Nhân Công Giáo Là Một Bí Tích :
Tình yêu tự nhiên giữa một người nam và một người nữ đã được Kitô giáo nâng lên hàng bí tích, tức dấu chỉ của ơn cứu độ. Chúng ta biết rằng sứ vụ cơ bản của Giáo hội là bí tích, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện của sự kết hợp với Thiên Chúa và sự thống nhất nhân loại. Giáo hội thực hiện sứ vụ đó thông qua việc rao giảng, thông đạt ân sủng xuyên qua một số nghi thức. Những nghi thức đó thực sự là những dấu chỉ của ơn cứu độ, được Ðức Giêsu thiết lập và Giáo hội truyền đạt. Những nghi thức đó luôn bao hàm một yếu tố vật chất, khả giác hay hữu hình, có một ý nghĩa tự nhiên như nước chỉ sự thanh tẩy, bánh và rượu chỉ lương thực,. Thiên Chúa có thể sử dụng những con đường khác để thông đạt ân sủng, nhưng vì tôn trọng nhu cầu của thị giác và xúc giác của con người, Người đã chọn con đường thông đạt qua các bí tích. Qua đó, Thiên Chúa cũng dạy cho con người biết rằng ơn cứu độ đã được hoàn thành trong Ðức Giêsu- Kitô.
Công đồng Vaticanô II đã nói: "Ðấng Tạo hóa đã thiết lập và ban những định luật riêng cho đời sống chung thân mật và cho cộng đoàn tình yêu vợ chồng. Ðời sống chung này được gây dựng do giao ước hôn nhân, nghĩa là do sự ưng thuận cá nhân không thể rút lại. Như thế, bởi một hành vi nhân linh, trong đó hai vợ chồng tự hiến cho nhau và đón nhận nhau, nhờ sự an bài của Thiên Chúa, đã phát sinh ra một định chế vững chắc có giá trị trước mặt xã hội nữa" (GS 48).
Trong hôn nhân Công giáo, khi đã đủ điều kiện, tất nhiên phải là bí tích, nghĩa là nguồn cội của ân sủng. Ðôi vợ chồng đối với nhau vừa là chủ thể, vừa là tác viên của bí tích , trong đó họ dâng hiến cho nhau. Linh mục chủ sự hiện diện với tư cách là chứng nhân đích thực và chúc lành cho họ. Tuy nhiên, vì quá chú trọng đến đôi phối ngẫu, người ta đã làm giảm bớt đi sự chú ý về chiều kích cộng đoàn của Hội thánh. Ðúng ra, chính Hội thánh cử hành bí tích này, vì cử hành chính hôn phối của mình với Ðức Kitô được tương trưng qua nghi lễ của mỗi đôi hôn phối. Linh mục là người thể hiện lễ cưới tượng trưng đó, nên là thừa tác viên đích thực của bí tích hôn phối1 Bí tích hôn nhân phát sinh từ sự ưng thuận của vợ chồng. Thực tại nhân loại, tức sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, sau khi quyết định hiến thân cho nhau để làm nên một gia đình, biểu thị và hàm chứa thực tại thần linh: tình yêu của Ðức Kitô đối với Giáo hội, một tình yêu không những được tượng trưng qua tình yêu của hai vợ chồng mà còn đang hiện diện thực sự, đang hoạt động thực sự nơi hai vợ chồng, dù bằng một cách huyền nhiệm. Kết quả là hai thực tại ấy không thể tách rời nhau: cái được biểu thị nằm ngay trong dấu chỉ ngay khi có dấu chỉ ấy 2
Có lẽ không có bí tích nào, trong đó sự kết hợp giữa dấu chỉ và sự vật nói lên ý nghĩa của dấu chỉ, lại chặt chẽ như thế. Trong các bí tích khác, dấu chỉ thường là một thực tại đã mất đi phần nào ý nghĩa tự nhiên của nó. Chẳng hạn như trong phép Rửa, một vài giọt nước đổ trên trán người thụ lãnh, chỉ nhắc lại cách sơ sài việc dìm toàn thể thân xác vào nước. Ðang khi đó trong bí tích hôn nhân, chính sự kết hợp thể lý lẫn tinh thần của hai vợ chồng là dấu chỉ của ân sủng.
Hôn nhân Công giáo còn có tính cách xã hội nữa. Hôn nhân không thể phó mặc cho sự độc đoán của hai người phối ngẫu, mà phải mang một hình thức hữu hình nào đó về mặt xã hội, phải tuân theo một số qui luật và nhất là phải có một ý thức về mối dây nối kết giữa hôn nhân và cộng đồng Kitô hữu.
Hôn nhân không thay đổi khi trở nên bí tích hôn nhân. Nó chỉ gột rửa khỏi những điều xấu xa loài người đã đem lại, vì lúc ban đầu hôn nhân không có như vậy (Mt 19, 8). Nhưng trong bí tích hôn nhân, không những hôn nhân gặp lại sự tinh tuyền nguyên thủy, mà còn phản ánh một kết hợp mầu nhiệm giữa Chúa Kitô và Giáo hội.
B. Hình Ảnh Của Sự Giao Kết Giữa Chúa Kitô Và Giáo Hội
1. Tình yêu vợ chồng, biểu tượng của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người
Cựu ước đã vận dụng đời sống hôn nhân để làm sáng tỏ tình yêu của Thiên Chúa đối với Ít-ra-en. Sách Sáng thế viết:"Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ. Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất" (St 1, 27- 28). Thiên Chúa đã kết hợp hai người nên một thân xác, cho họ tạo nên những con người mới để tiếp tục công trình sáng tạo của Ngài trong thế giới.
Thiên Chúa đã trách cứ Ít-ra-en: " Thiên Chúa đã nói với dân Ít-ra-en: "Vậy ngươi không được phủ phục trước một thần nào khác, vì Ðức Chúa mang danh là Ðấng ghen tương, Người là một vị Thần ghen tương" (Xh 34, 14). Thiên Chúa đã nhận Ít-ra-en làm dân riêng bằng giao ước Sinai, Ngài không chấp nhận họ đi "đàng điếm" theo tà thần. Dù Ít-ra-en đã nhiều lần bội ước, chạy theo thần ngoại bang, nhưng Thiên Chúa vẫn yêu thương và thành tín: "Ta sẽ lập hôn ước với ngươi trong công minh và chính trực, trong ân tình và xót thương" (Hs 2, 21).
Qua đó, chúng ta thấy rằng các tiên tri đã mơ ước có ngày cả loài người sẽ được một Ðức Lang Quân tuyệt vời. Tân ước đã giới thiệu Ðức Lang Quân đó chính là Ðức Giêsu (Mt 22, 2).
2. Hình ảnh của sự giao kết giữa Chúa Kitô và Giáo hội (Ep 5, 22- 32)
Tân ước trình bày giao ước mới như là sự liên kết giữa vợ với chồng, nhưng Ðức Lang Quân giờ đây là Ðức Kitô và Hiền thê là Hội thánh. Hội thánh được ơn gọi quy tụ mọi dân tộc, chứ không phải chỉ riêng Ít-ra-en mà thôi (Ep 5, 21- 33). Trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phaolô đã dựa vào cách vận dụng của Cựu ước để đưa ra hai khẳng định căn bản:
- Quan hệ mật thiết giữa vợ chồng soi sáng quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo hội: Thánh Phaolô coi đây là "Mầu nhiệm cao cả" (5, 32). Bởi vì cuộc sống chung vợ chồng vừa là môi trường cứu rỗi họ, vừa tượng trưng cho giao ước giữa Thiên Chúa và Ít-ra-en. Ở đây, thánh Phaolô còn đưa ra một ý nghĩa xa hơn: "Tôi muốn nói về Ðức Kitô và Hội thánh" .
- Lấy quan hệ giữa Chúa Kitô và Giáo hội làm mẫu mực để khuyên vợ chồng phải sống sao cho xứng với bậc mình : "Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Ðức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội thánh" (5, 25). Như một Lang Quân, Ðức Kitô muốn cho hiền thê của Ngài là Giáo hội xinh đẹp lộng lẫy, không tỳ ố, thánh thiện (5, 27).
Công đồng Vaticanô II cũng lấy ý nghĩa tương tự khi viết: "Chúa Kitô ban dồi dào ơn phúc cho tình yêu muôn hình ấy, một tình yêu phát xuất từ nguồn mạch tình yêu Thiên Chúa và được tác thành theo gương kết hiệp của Chúa Kitô và Giáo hội. Thực vậy, như xưa kia Thiên Chúa đến gặp gỡ dân Ngài bằng một giao ước yêu thương và trung thành, ngày nay Ðấng Cứu Thế, Bạn Trăm Năm của Giáo hội, cũng đến với đôi vợ chồng qua bí tích hôn phối. Người còn ở lại với họ để hai vợ chồng cũng mãi mãi trung thành yêu thương nhau bằng sự tự hiến cho nhau, như Người đã yêu thương Giáo hội và đã nộp mình vì Giáo hội" (GS 48).
Hôn nhân Công giáo là một tương giao bao gồm Thiên Chúa như "thành phần thứ ba". Ðây là điểm khác biệt quan trọng khi so sánh với hôn nhân dân sự. Tin tưởng Thiên Chúa là "thành phần thứ ba" sẽ giúp cho đôi vợ chồng vượt qua được những gian nan, thử thách trong cuộc sống; giúp họ vững bước trong niềm tín thác vào Thiên Chúa. Trong một hôn nhân Kitô giáo lành mạnh, không có việc gần gũi với Thiên Chúa mà lại xa cách người phối ngẫu, hoặc gần gũi người phối ngẫu mà lại xa cách Thiên Chúa. Người chồng là đại diện của Chúa Kitô với vợ mình, thì phải trở nên mỗi ngày một tiêu biểu Chúa Kitô hơn; người vợ như là Giáo hội đối với Chúa Kitô bên cạnh chồng mình, thì phải trung tín, dịu hiền và sinh dưỡng con cái do sự kết hợp với chồng mình mà có.
C. Phụng Vụ Bí Tích Hôn Nhân
1. Chuẩn bị
Việc dạy giáo lý hôn nhân cho đôi bạn trước khi kết hôn là điều hết sức cần thiết. Ðây là dịp giúp họ hiểu biết đời sống hôn nhân của mình thông phần mầu nhiệm hiệp nhất và tình yêu phong phú giữa Chúa Kitô và Hội thánh, giúp họ chu toàn trách nhiệm làm cha làm mẹ trong việc giáo dục con cái theo luật Chúa. Vị chủ chăn còn phải giúp đỡ họ trong thời hậu hôn nhân (suốt đời sống của họ) để họ trung thành với nhau, sống thánh thiện hơn trong ơn gọi gia đình mỗi ngày (GL 1063).
2. Cử hành
a. Nghi lễ
Việc cử hành hôn lễ trong thánh lễ được khuyến khích đặc biệt, vì đôi tân hôn cần nhận lãnh mẫu gương và sức mạnh của tình yêu từ hy lễ Thánh Thể, nơi Ðức Kitô bày tỏ lòng yêu thương người bạn đến nỗi trao hiến mạng sống của mình cho người yêu. Họ không những được khuyến khích rước lễ, mà còn tham gia tích cực vào lễ nghi qua việc đề nghị những bài Sách Thánh sẽ đọc, chọn mẫu trao đổi lời hôn ước nào mình thích, dâng ý chỉ trong phần Lời nguyện giáo dân. Một số nơi còn cho phép đọc bài thơ hay bài văn có ý nghĩa đặc biệt đối với họ và soạn cả lời hôn ước, miễn là những lời ấy diễn tả ý nghĩa căn bản Kitô giáo về hôn phối.
Các Giám mục trong các xứ truyền giáo được khuyến khích du nhập phong tục tập quán địa phương vào nghi thức hôn phối, và ngay cả đặt ra những nghi thức mới diễn tả được ý nghĩa hôn nhân Kitô giáo trong các biểu tượng và cử điệu của văn hóa bản địa 1. Trước đây, nghi lễ phải làm bên đàng gái, còn ngày nay thủ tục hai bên ngang nhau, muốn làm bên nào cũng được. Dù cử hành trong hay ngoài thánh lễ, nghi lễ hôn nhân diễn ra sau phần Phụng vụ Lời Chúa.
Hôn phối dựa trên lời trao đổi bày tỏ sự ưng thuận của đôi bên. Lời ưng thuận lấy nhau làm vợ, làm chồng phải hoàn toàn tự do. Ðôi vợ chồng phải thề hứa trung thành và thực sự muốn xây dựng một cộng đồng tình yêu.
Phụng vụ hôn phối kết thúc với Lời nguyện giáo dân và lời chúc phúc cho đôi tân hôn.
b. Thể thức pháp định
- Trong trường hợp thông thường: Ðể hôn phối được hữu hiệu, còn cần có sự chứng giám của Bản quyền địa phương hay cha sở , cùng với h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hôn nhân công giáo.docx